Sân khấu Dù kê – Góc nhìn từ văn hóa dân gian

Tóm tắt

Trong bài viết này, vấn đề thứ nhất xin gợi ý tìm hiểu thêm về xuất xứ nguồn gốc của loại hình

này thông qua việc khảo sát một số nghệ nhân, bậc thầy qua từng thời kỳ một cách kỹ lưỡng, và cũng để

làm rõ về sự giao thoa thể loại bài hát, dàn nhạc và múa trong loại hình sân khấu Hí kịch, sân khấu Cải

lương, sự tiếp nhận về loại hình sân khấu Dì kê và loại hình sân khấu “La khôn Khôl” (sân khấu đeo

mặt nạ) ở vương quốc Campuchia; vấn đề thứ hai, từ góc nhìn văn hóa dân gian các dân tộc, cố gắng

làm rõ Dù kê là loại hình sân khấu đặc biệt đã chuyển tải những nội dung, giá trị văn hóa dân gian rất

đậm nét (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, tục ngữ) và nghệ thuật dân gian (nghệ thuật tạo

hình dân gian: kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian; nghệ thuật biểu diễn dân gian:

âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn), đáp ứng trong sinh hoạt văn hóa và đời

sống lao động của mọi tầng lớp người Khmer.

pdf 8 trang yennguyen 6540
Bạn đang xem tài liệu "Sân khấu Dù kê – Góc nhìn từ văn hóa dân gian", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sân khấu Dù kê – Góc nhìn từ văn hóa dân gian

Sân khấu Dù kê – Góc nhìn từ văn hóa dân gian
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201486 Soá 13, thaùng 3/2014 87
SÂN KHẤU DÙ KÊ – GÓC NHÌN TỪ VĂN HÓA DÂN GIAN
 Thạch Chane Vitu1 
Tóm tắt
 Trong bài viết này, vấn đề thứ nhất xin gợi ý tìm hiểu thêm về xuất xứ nguồn gốc của loại hình 
này thông qua việc khảo sát một số nghệ nhân, bậc thầy qua từng thời kỳ một cách kỹ lưỡng, và cũng để 
làm rõ về sự giao thoa thể loại bài hát, dàn nhạc và múa trong loại hình sân khấu Hí kịch, sân khấu Cải 
lương, sự tiếp nhận về loại hình sân khấu Dì kê và loại hình sân khấu “La khôn Khôl” (sân khấu đeo 
mặt nạ) ở vương quốc Campuchia; vấn đề thứ hai, từ góc nhìn văn hóa dân gian các dân tộc, cố gắng 
làm rõ Dù kê là loại hình sân khấu đặc biệt đã chuyển tải những nội dung, giá trị văn hóa dân gian rất 
đậm nét (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, tục ngữ) và nghệ thuật dân gian (nghệ thuật tạo 
hình dân gian: kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian; nghệ thuật biểu diễn dân gian: 
âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn), đáp ứng trong sinh hoạt văn hóa và đời 
sống lao động của mọi tầng lớp người Khmer.
Từ khóa: Sân khấu Dù kê, góc nhìn văn hóa dân gian.
Abstract
The origin of formation of Du ke Southern Khmer Theatre is not assessed clearly, but only based 
on some unscientific surveys. Thus, this paper is to find out its origin through artists, teachers of each 
period, and to demonstrate the cultural interference of songs, orchestra and dance in Hi Kich theatre, 
Cai luong (folk songs), Di Ke and La Khon Khol (mask theatre) in Cambodia; this paper also focuses 
on the contents and cultural value (mythology, fairy tale, legend, humorous story, proverb) and folk arts 
(image-buidling art: architecture, painting, decoration; performing arts:folk music, dance, theatre) of 
Du ke, meeting cultural activities and labour life of Khmer people.
Keyword: Du ke theatre, folklore perspectives
1 Trưởng Phòng Hành chính, Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh 
Bình Minh
Đặt vấn đề
Trước thực tiễn xã hội hội nhập, phát triển, 
nghệ thuật sân khấu ở nước ta nói chung và sân 
khấu Dù kê của một số đoàn nghệ thuật như Trà 
Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, đang 
đứng trước thử thách yêu cầu mới, nhiệm vụ mới. 
Việc giảm sút sự năng động và phát triển không 
đều của các đoàn, thiếu đội ngũ cán bộ, văn nghệ 
sĩ, đạo diễn tài năng, chất lượng nghệ thuật không 
hiệu quả đã dẫn đến việc chuyển tải nội dung vở 
diễn, tuồng tích, các giá trị văn hóa dân gian không 
đáp ứng được nhu cầu thị hiếu công chúng. Sự 
thành công của một loại hình nghệ thuật sân khấu 
phải bao gồm đầy đủ các giá trị lịch sử, hiện thực, 
nhân đạo, thẩm mỹ thông qua đỉnh cao hình tượng 
nghệ thuật để từng bước các thế hệ sau tiếp nhận 
và có những giải pháp khả thi để bảo tồn và phát 
huy loại hình nghệ thuật này.
1. Sự hình thành loại hình nghệ thuật sân khấu 
Dù kê
1.1. Khái quát sự hình thành loại hình nghệ 
thuật sân khấu Dù kê
Khoảng hơn một thế kỷ đã qua, loại hình nghệ 
thuật sân khấu Dù kê không bị mai một và được 
nhân dân, các chùa Phật giáo Nam tông Khmer 
nuôi dưỡng và phát triển, đã tạo nên văn hóa nghệ 
thuật tiêu biểu cho dân tộc, cùng ra sức phục vụ và 
chuyển biến rõ rệt trong đời sống nhân dân Khmer. 
Từ thập niên 60 cho đến nay, một số tác giả, nghệ 
nhân, văn nghệ sĩ, nhà quản lý nghệ thuật đã 
nghiên cứu, sưu tầm và nhận định rằng: sân khấu 
Dù kê là sản phẩm của nông dân, tầng lớp trí thức 
Khmer sáng tạo ra tại vùng đất Tây Nam Bộ trong 
sự giao lưu sân khấu Hí kịch của người Hoa và Cải 
lương của người Kinh. Tỉnh Trà Vinh và tỉnh Sóc 
Trăng là nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống và 
phong trào văn hóa văn nghệ dân gian có xu hướng 
phát triển rộng khắp phum sróc. Hai tỉnh này đã 
có công lao rất lớn trong quá trình hình thành và 
phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê, điển hình 
qua một số nghệ nhân tiêu biểu ở tỉnh Trà Vinh 
là Thạch Sua ở Phum Chếch (nay thuộc Khóm 1, 
Phường 7, Tp. Trà Vinh), Tà Tìa, Kru Cừu (Thầy 
Cừu), Kim Thị Suông - vừa là những nghệ nhân, 
bậc thầy, dẫn tuồng (đạo diễn), biên đạo, nghệ sĩ; 
vừa là ông bầu gánh trong giai đoạn đầu thế kỷ 
19. Do phong trào văn hóa văn nghệ từ sân khấu 
Dì kê, sân khấu Rô băm (múa Chằn) đã sinh ra 
một loại hình nghệ thuật sân khấu mới, đó là sân 
khấu Dù kê lan tỏa qua các vùng miền được nhân 
dân đón nhận và say mê. Đối với tỉnh Sóc Trăng, 
mặc dù chưa được nghiên cứu, sưu tầm trong giai 
đoạn hình thành sơ khai, nhưng đoàn Dù kê được 
hình thành với quy mô lớn vào năm 1921 do ông 
Lý kọn (Xã Kọn) ở xã An Ninh, huyện Mỹ Tú, 
tỉnh Sóc Trăng làm bầu gánh2. Ông này có lòng 
say mê nghệ thuật, mỗi khi nhớ đến quê hương 
là nhớ đến thời thơ ấu mà mình đã từng đi xem 
hát Dù kê phum sróc. Chính vì điều này đã khiến 
ông từ Pháp trở về quê hương mình thành lập một 
gánh hát lấy tên “À Pê Đờm Phồ” (Đờm Phồ là 
cây Bồ đề). Lý Kọn là người Khmer gốc Hoa, ông 
vừa giàu có, đảm bảo được cơ sở vật chất, vừa có 
khả năng quản lý nên tập hợp được các nghệ nhân 
nổi tiếng như Thạch Sua, Kru Cừu. Đoàn Dù kê 
của ông đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của 
nhân dân rộng khắp vùng đồng bằng sông nước, 
trong lối diễn xuất có lồng tiếng Hoa, tiếng Việt và 
tiếng Pháp thông qua người dẫn tuồng hoặc vai hề. 
Năm 1930, sang vương quốc Campuchia lần thứ 
hai biểu diễn trên thuyền dọc theo hạ lưu sông Mê 
Kông và biểu diễn tại thủ đô Phnom Pênh, đoàn 
của ông đã được nhân dân Campuchia tiếp nhận 
và đặt tên Lakhôn Basắc, tức là sân khấu của con 
người ở sông Ba Thắc (Ba sắc): “Tên gọi Du ke 
là của người Khmer ở phía Đông thuộc nước Việt 
Nam (tức là Phía Tây Nam - Việt Nam) người ta sử 
dụng tên gọi để đánh dấu một loại hình sân khấu 
của họ cũng như ở Campuchia sử dụng tên gọi sân 
khấu Ba sắc (La-khôn Basắc) để đánh dấu cách 
2 Trích từ tác giả: Sơn Lương trong cuốn sách “Tìm hiểu 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh 
Sóc Trăng, xuất bản năm 2012, trang 57
gọi loại hình sân khấu này cho đến nay3. Như vậy, 
chúng ta xác định được từ năm 1930 ở Campuchia 
người ta tự đặt tên La-khôn Basắc để chỉ loại hình 
sân khấu con người sống theo dọc sông Basắc 
thuộc một nhánh sông Mê Kông, của con người ở 
tiểu vùng Tây Nam Bộ nói chung, chứ không phải 
Lakhôn Basắc của con người ở Sóc Trăng sáng lập 
hay Lakhôn Trơn Kh’lốt là của con người Trà Vinh 
sáng lập, sự phân chia ranh giới loại hình nghệ 
thuật hay tên gọi này sẽ dẫn đến khó có thể nhận 
định về tính giao thoa, tiếp biến văn hóa vùng, mặc 
dù cùng có một nền văn hóa: tín ngưỡng tôn giáo, 
văn học, các loại hình nghệ thuật sân khấu, 
Sân khấu Dù kê phát âm từ sân khấu Dì kê khi 
sân khấu Dù kê mới hình thành sơ khai. Còn có 
tên gọi: La-khôn Trơn Kh’lốt tức là sân khấu giàn 
bầu do ông Thạch Sua làm bầu gánh. Tuy nhiên, 
vẫn còn có tên gọi thiếu tính khoa học như Vũ kê, 
À kê, À pê. Bởi vì nếu tên gọi “Vũ Kê” thì từ “vũ” 
chưa trở thành phổ biến trong cộng đồng phum 
sróc Khmer do người Khmer ít biết nói ngôn ngữ 
Việt trong những thập niên trước đây; còn tên gọi 
“À Kê” không biết xuất xứ ở đâu? Rất khó có thể 
khẳng định được cậu bé tên “Kê” này ở vùng đất 
Trà Vinh lại có sự trùng hợp chăng với từ “Kê” ở 
Campuchia gọi là Dì kê hay ở Thái Lan gọi là Li 
kê, nhưng đây cũng là một luận điểm để tiếp tục lý 
giải. Như vậy, các tên gọi này xuất phát từ tên gọi 
trong dân gian do có sự phát âm không chuẩn xác 
hay sự biến âm dần từ Dì kê sang Vũ kê, À kê, À 
pê được lưu truyền phổ biến từ các vùng, các nơi 
khác nhau. Ngoài ra, còn có tên gọi miệt thị đối với 
người không thích loại hình nghệ thuật này như 
tên gọi “À Pê À Pồn” (tức là vừa biểu diễn Dù kê 
vừa kéo theo trò chơi cờ bạc).
Sau giai đoạn chiến tranh thế giới lần thứ hai, 
tình hình chính trị thế giới phức tạp, bối cảnh trong 
nước rất khó khăn, vừa chống phát xít Nhật vừa 
chống Pháp, các phong trào văn hóa văn nghệ, kể 
cả loại hình sân khấu Dù kê phát triển chậm. Đến 
năm 1960, phong trào văn nghệ các địa phương 
tiếp tục khơi dậy rầm rộ, theo chủ trương của Tỉnh 
ủy Trà Vinh, đồng chí Thạch Voi đã thành lập Đoàn 
Văn công Khmer của tỉnh và hoạt động chính thức 
3 Trích theo tác giả: Pich Tum Kravel trong cuốn sách “Dì kê 
và sân khấu Basắc”, xuất bản 1997 (trang 1)
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201486 Soá 13, thaùng 3/2014 87
SÂN KHẤU DÙ KÊ – GÓC NHÌN TỪ VĂN HÓA DÂN GIAN
 Thạch Chane Vitu1 
Tóm tắt
 Trong bài viết này, vấn đề thứ nhất xin gợi ý tìm hiểu thêm về xuất xứ nguồn gốc của loại hình 
này thông qua việc khảo sát một số nghệ nhân, bậc thầy qua từng thời kỳ một cách kỹ lưỡng, và cũng để 
làm rõ về sự giao thoa thể loại bài hát, dàn nhạc và múa trong loại hình sân khấu Hí kịch, sân khấu Cải 
lương, sự tiếp nhận về loại hình sân khấu Dì kê và loại hình sân khấu “La khôn Khôl” (sân khấu đeo 
mặt nạ) ở vương quốc Campuchia; vấn đề thứ hai, từ góc nhìn văn hóa dân gian các dân tộc, cố gắng 
làm rõ Dù kê là loại hình sân khấu đặc biệt đã chuyển tải những nội dung, giá trị văn hóa dân gian rất 
đậm nét (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, tục ngữ) và nghệ thuật dân gian (nghệ thuật tạo 
hình dân gian: kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian; nghệ thuật biểu diễn dân gian: 
âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn), đáp ứng trong sinh hoạt văn hóa và đời 
sống lao động của mọi tầng lớp người Khmer.
Từ khóa: Sân khấu Dù kê, góc nhìn văn hóa dân gian.
Abstract
The origin of formation of Du ke Southern Khmer Theatre is not assessed clearly, but only based 
on some unscientific surveys. Thus, this paper is to find out its origin through artists, teachers of each 
period, and to demonstrate the cultural interference of songs, orchestra and dance in Hi Kich theatre, 
Cai luong (folk songs), Di Ke and La Khon Khol (mask theatre) in Cambodia; this paper also focuses 
on the contents and cultural value (mythology, fairy tale, legend, humorous story, proverb) and folk arts 
(image-buidling art: architecture, painting, decoration; performing arts:folk music, dance, theatre) of 
Du ke, meeting cultural activities and labour life of Khmer people.
Keyword: Du ke theatre, folklore perspectives
1 Trưởng Phòng Hành chính, Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh 
Bình Minh
Đặt vấn đề
Trước thực tiễn xã hội hội nhập, phát triển, 
nghệ thuật sân khấu ở nước ta nói chung và sân 
khấu Dù kê của một số đoàn nghệ thuật như Trà 
Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, đang 
đứng trước thử thách yêu cầu mới, nhiệm vụ mới. 
Việc giảm sút sự năng động và phát triển không 
đều của các đoàn, thiếu đội ngũ cán bộ, văn nghệ 
sĩ, đạo diễn tài năng, chất lượng nghệ thuật không 
hiệu quả đã dẫn đến việc chuyển tải nội dung vở 
diễn, tuồng tích, các giá trị văn hóa dân gian không 
đáp ứng được nhu cầu thị hiếu công chúng. Sự 
thành công của một loại hình nghệ thuật sân khấu 
phải bao gồm đầy đủ các giá trị lịch sử, hiện thực, 
nhân đạo, thẩm mỹ thông qua đỉnh cao hình tượng 
nghệ thuật để từng bước các thế hệ sau tiếp nhận 
và có những giải pháp khả thi để bảo tồn và phát 
huy loại hình nghệ thuật này.
1. Sự hình thành loại hình nghệ thuật sân khấu 
Dù kê
1.1. Khái quát sự hình thành loại hình nghệ 
thuật sân khấu Dù kê
Khoảng hơn một thế kỷ đã qua, loại hình nghệ 
thuật sân khấu Dù kê không bị mai một và được 
nhân dân, các chùa Phật giáo Nam tông Khmer 
nuôi dưỡng và phát triển, đã tạo nên văn hóa nghệ 
thuật tiêu biểu cho dân tộc, cùng ra sức phục vụ và 
chuyển biến rõ rệt trong đời sống nhân dân Khmer. 
Từ thập niên 60 cho đến nay, một số tác giả, nghệ 
nhân, văn nghệ sĩ, nhà quản lý nghệ thuật đã 
nghiên cứu, sưu tầm và nhận định rằng: sân khấu 
Dù kê là sản phẩm của nông dân, tầng lớp trí thức 
Khmer sáng tạo ra tại vùng đất Tây Nam Bộ trong 
sự giao lưu sân khấu Hí kịch của người Hoa và Cải 
lương của người Kinh. Tỉnh Trà Vinh và tỉnh Sóc 
Trăng là nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống và 
phong trào văn hóa văn nghệ dân gian có xu hướng 
phát triển rộng khắp phum sróc. Hai tỉnh này đã 
có công lao rất lớn trong quá trình hình thành và 
phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê, điển hình 
qua một số nghệ nhân tiêu biểu ở tỉnh Trà Vinh 
là Thạch Sua ở Phum Chếch (nay thuộc Khóm 1, 
Phường 7, Tp. Trà Vinh), Tà Tìa, Kru Cừu (Thầy 
Cừu), Kim Thị Suông - vừa là những nghệ nhân, 
bậc thầy, dẫn tuồng (đạo diễn), biên đạo, nghệ sĩ; 
vừa là ông bầu gánh trong giai đoạn đầu thế kỷ 
19. Do phong trào văn hóa văn nghệ từ sân khấu 
Dì kê, sân khấu Rô băm (múa Chằn) đã sinh ra 
một loại hình nghệ thuật sân khấu mới, đó là sân 
khấu Dù kê lan tỏa qua các vùng miền được nhân 
dân đón nhận và say mê. Đối với tỉnh Sóc Trăng, 
mặc dù chưa được nghiên cứu, sưu tầm trong giai 
đoạn hình thành sơ khai, nhưng đoàn Dù kê được 
hình thành với quy mô lớn vào năm 1921 do ông 
Lý kọn (Xã Kọn) ở xã An Ninh, huyện Mỹ Tú, 
tỉnh Sóc Trăng làm bầu gánh2. Ông này có lòng 
say mê nghệ thuật, mỗi khi nhớ đến quê hương 
là nhớ đến thời thơ ấu mà mình đã từng đi xem 
hát Dù kê phum sróc. Chính vì điều này đã khiến 
ông từ Pháp trở về quê hương mình thành lập một 
gánh hát lấy tên “À Pê Đờm Phồ” (Đờm Phồ là 
cây Bồ đề). Lý Kọn là người Khmer gốc Hoa, ông 
vừa giàu có, đảm bảo được cơ sở vật chất, vừa có 
khả năng quản lý nên tập hợp được các nghệ nhân 
nổi tiếng như Thạch Sua, Kru Cừu. Đoàn Dù kê 
của ông đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của 
nhân dân rộng khắp vùng đồng bằng sông nước, 
trong lối diễn xuất có lồng tiếng Hoa, tiếng Việt và 
tiếng Pháp thông qua người dẫn tuồng hoặc vai hề. 
Năm 1930, sang vương quốc Campuchia lần thứ 
hai biểu diễn trên thuyền dọc theo hạ lưu sông Mê 
Kông và biểu diễn tại thủ đô Phnom Pênh, đoàn 
của ông đã được nhân dân Campuchia tiếp nhận 
và đặt tên Lakhôn Basắc, tức là sân khấu của con 
người ở sông Ba Thắc (Ba sắc): “Tên gọi Du ke 
là của người Khmer ở phía Đông thuộc nước Việt 
Nam (tức là Phía Tây Nam - Việt Nam) người ta sử 
dụng tên gọi để đánh dấu một loại hình sân khấu 
của họ cũng như ở Campuchia sử dụng tên gọi sân 
khấu Ba sắc (La-khôn Basắc) để đánh dấu cách 
2 Trích từ tác giả: Sơn Lương trong cuốn sách “Tìm hiểu 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh 
Sóc Trăng, xuất bản năm 2012, trang 57
gọi loại hình sân khấu này cho đến nay3. Như vậy, 
chúng ta xác định được từ năm 1930 ở Campuchia 
người ta tự đặt tên La-khôn Basắc để chỉ loại hình 
sân khấu con người sống theo dọc sông Basắc 
thuộc một nhánh sông Mê Kông, của con người ở 
tiểu vùng Tây Nam Bộ nói chung, chứ không phải 
Lakhôn Basắc của con người ở Sóc Trăng sáng lập 
hay Lakhôn Trơn Kh’lốt là của con người Trà Vinh 
sáng lập, sự phân chia ranh giới loại hình nghệ 
thuật hay tên gọi này sẽ dẫn đến khó có thể nhận 
định về tính giao thoa, tiếp biến văn hóa vùng, mặc 
dù cùng có một nền văn hóa: tín ngưỡng tôn giáo, 
văn học, các lo ... c thể loại truyện dân gian ra đời trong bối 
cảnh xã hội bất công, người nông dân sống lầm 
than cơ cực, mất quyền tự do, dân chủ, cái đói, cái 
nghèo kéo dài dai dẳng. Nội dung của cốt truyện 
đã đáp ứng điều đó, biết nâng đỡ giá trị con người, 
phê phán những hiện thực xấu xa và bênh vực cho 
những nỗi khổ đau, đề cao những ước mơ, khát 
vọng của con người. Và sân khấu Dù kê đã lột tả 
hình ảnh sống động, giáo dục cho con người xã hội 
ngày nay phải trân trọng đạo lý, lòng nhân ái và 
nguyên tắc ứng xử giữa con người và con người, 
con người và môi trường xã hội xung quanh.
Giá trị nhân đạo của truyện dân gian đặc biệt 
được thể hiện ở những kết thúc có sự nhân hậu, 
khoan dung như: truyện Trần Minh khổ chuối 
“Chao Sro-Tốp-Chêch”, Tấm Cám tức “Mô-Rô-
Ná MiếtĐa”, truyện Người con gái Nam Xương 
- “Sro-môl on-tôl chách hay còn gọi cái bóng oan 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201492 Soá 13, thaùng 3/2014 93
tình”, Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - “Sất-
Thy-Vong”,... Cũng xuất phát từ lòng nhân đạo sâu 
sắc ấy mà nhân dân đã để cho cô Tấm thảo hiền, 
xinh đẹp qua nhiều biến hoá thăng trầm, cuối cùng 
trở về làm hoàng hậu, sống cuộc đời hạnh phúc 
bên nhà vua; Trần Minh thoát khỏi cái nghèo khổ 
và cũng tận hưởng hạnh phúc; Truyện Người con 
gái Nam Xương vừa có giá trị tố cáo hiện thực 
của xã hội phong kiến và mang ý nghĩa nhân đạo 
sâu sắc, càng thấy rõ giá trị cuộc sống của người 
phụ nữ trong một xã hội tốt đẹp hơn, vươn lên làm 
chủ cuộc đời được hạnh phúc và bình đẳng; Lục 
Vân Tiên thể hiện tính cách của người Nam Bộ, 
tính anh hùng nghĩa hiệp, giúp người hoạn nạn;... 
Những kết thúc của truyện cổ tích, truyện dân gian 
đều “gỡ nút” bằng triết lí nhân dân: “Ở hiền gặp 
lành, ác giả ác báo”.
2.4. Sân khấu Dù kê mang lại giá trị thẩm mỹ
Sự đóng góp cho loại hình nghệ thuật sân khấu 
là sự thành công của một tác phẩm, kịch bản đến 
vai trò của người đạo diễn dựng tính kịch, mỹ 
thuật, hóa trang, sáng tác âm nhạc,, tất cả cho 
diễn viên được tôn lên trở thành nhân vật trọng 
tâm của sân khấu. Nhưng giá trị thẩm mỹ được hội 
tụ trên sân khấu không chỉ dừng lại ở mỹ thuật, 
hóa trang, phục trang, ánh sáng,... mà còn bộc lộ 
các giá trị khác như chân, thiện,... nó mang tính 
phổ quát trong một tác phẩm, giá trị của tác phẩm 
cũng chính là giá trị thẩm mỹ và chỉ khi đạt giá trị 
thẩm mỹ mới trở thành hình tượng nghệ thuật, khi 
đạt đến hình tượng nghệ thuật thì đó mới chính là 
chất lượng của một tác phẩm nghệ thuật sân khấu.
Giá trị thẩm mỹ được bộc lộ ở nhân vật của 
từng nội dung truyện, có thể tìm thấy được về giá 
trị đạo đức, giá trị nhận thức, tư tưởng, giáo lý 
của các vị thần NeakTa, của Đức Phật Thích Ca, 
đạo sĩ Âyxây tu hành khổ luyện, hay một nhân vật 
thông minh nào đó, để thể hiện nhất quán quan 
điểm trong việc giáo dục con người. Mặc dù rơi 
vào phép thuật hay thần thánh bí ẩn nhưng người 
xưa vẫn biết sử dụng hư cấu để điều chỉnh hành 
vi con người, điều chỉnh mối quan hệ xã hội, loại 
trừ cái phi đạo đức, đẩy lùi cái hiện tượng xấu xa, 
không thể có cái phi chân, thiện, mỹ.
Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đã xuất hiện 
văn học viết, những kịch bản mới với những đề 
tài hiện đại, đánh dấu sự biến đổi văn học Khmer. 
Tác phẩm ra đời: “Nghĩa tình trong giông tố” của 
tác giả Thạch Voi; “Giữ đền Vêhia” của tác giả 
Thạch Chân đã thúc đẩy cho lực lượng đông đảo 
nghệ sĩ kiểu mới của cách mạng Việt Nam, có kiến 
thức khoa học về sân khấu tiên tiến, luôn hướng 
về công cuộc đấu tranh cho Tổ quốc quê hương, 
vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp. Vừa mới 
chấm dứt tiếng súng chống Mỹ thì chiến tranh 
bảo vệ tổ quốc chống chế độ diệt chủng Pôl-Pốt 
Iêng Sary, tình hình mới đặt ra trước nghệ thuật 
sân khấu những yêu cầu mới, kịch bản “Mối tình 
BôPha RạngXây” của tác giả Thạch Chân đã ra 
đời và đáp ứng nhu cầu thưởng thức của nhân dân 
trong nước và nước bạn Campuchia, có tác dụng 
cực kỳ to lớn trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ của 
người Khmer, đã trở thành công cụ cho cuộc vận 
động cách mạng và tình đoàn kết dân tộc, đáp ứng 
nhu cầu thẩm mỹ - văn học dưới ánh sáng của thế 
giới quan vô sản.
3. Giải pháp giữ gìn và phát huy sân khấu 
Dù kê
3.1. Xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn lực cho 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer, từng bước hoàn 
chỉnh hệ thống các giáo trình, sách tham khảo 
cho ngành học nghệ thuật sân khấu Dù kê dân tộc 
Khmer để nâng cao chất lượng sân khấu Dù kê có 
hiệu quả.
+ Xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn lực cho 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer
 Đây là một nhiệm vụ mang tính chiến lược, 
nó quyết định cho sự tồn tại của loại hình nghệ 
thuật sân khấu. Được xem là một việc làm cấp thiết 
đối với đơn vị nghệ thuật sân khấu dân tộc Khmer 
trong tình hình hiện nay. Hồ Chí Minh quan niệm: 
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, Vì lợi ích 
trăm năm thì phải trồng người”. Vì vậy, đào tạo 
nguồn lực chính là yếu tố con người có tài năng, 
có khả năng tham gia vào lĩnh vực nghệ thuật dân 
tộc và các mặt hoạt động xã hội.
Các đơn vị sự nghiệp nghệ thuật được nhận 
chỉ tiêu đào tạo tại các Trường Đại học văn hóa, 
Cao đẳng hay Trung cấp, có chính sách đào tạo lại 
cán bộ quản lý nghệ thuật, đạo diễn, âm nhạc, biên 
đạo múa để có điều kiện trẻ hóa đội ngũ, khắc phục 
tình trạng dôi thừa trong đơn vị nghệ thuật.
+ Xây dựng hoàn chỉnh về giáo trình, sách 
tham khảo cho ngành học Nghệ thuật Sân khấu 
Dù kê của dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh.
 Đây là giải pháp đòi hỏi phải thực hiện đồng 
bộ, phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể 
địa phương mà Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 
là cơ quan trực tiếp thực hiện hướng dẫn để tiến 
hành khảo sát sơ bộ cho loại hình sân khấu Dù kê, 
cụ thể hơn là xây dựng dự án cho từng bộ môn (cả 
lý thuyết lẫn thực hành) về các loại nhạc cụ Dù kê 
Basắc, những bài hát Dù kê Basắc, múa sử dụng 
cho loại hình sân khấu, hoạt động hình thể, vũ đạo 
hay phong cách biểu diễn cho từng nhân vật. Đây 
là hình thức trải nghiệm cho công tác đào tạo và 
vừa là mục đích truyền đạt cho thế hệ trẻ am hiểu 
và gần gũi với sân khấu Dù kê.
3.2. Văn hóa truyền thống có sự biến đổi là một 
quá trình tất yếu khách quan, bởi xã hội đô thị 
trong điều kiện công nghiệp hóa tiến lên công 
nghiệp hiện đại, là yếu tố duy nhất làm động lực 
cho kinh tế đô thị phát triển. Sự chuyển biến từ 
một xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội 
đô thị công nghiệp làm cho nét đẹp văn hóa truyền 
thống bị mờ nhạt và ngày càng bị mai một, phá vỡ 
tính cộng đồng xóm giềng, sự thông cảm chia sẻ 
trong mối quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, cộng 
đồng bị hạn chế. Chính vì điều này, Đảng và Nhà 
nước cần quan tâm và trao quyền tự chủ rộng rãi, 
tăng ngân sách hoạt động cho các chính quyền địa 
phương, cá nhân, tập thể hay nhân dân trong công 
tác quản lý để xây dựng các phong trào văn hóa 
văn nghệ nhằm tạo ra một cơ chế riêng đặc thù 
cho từng loại hình nghệ thuật, giúp thế hệ sau tiếp 
nhận nghệ thuật cũng chính là nền giáo dục trong 
văn hóa dân gian mà người xưa cố gắng tích lũy, 
lưu truyền lại; đồng thời, khuyến khích hỗ trợ và 
mở các lớp tập huấn, khảo sát thực tế cho các nghệ 
nhân, nghệ sĩ, các tác giả nhằm phát huy sáng tạo 
những tác phẩm có giá trị văn hóa.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo kỷ niệm 40 năm thành lập Đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh ngày 14/4/1963 – 
14/4/2003 (năm 2003).
Ngô Đức Thịnh. Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc. Xem 
Nhiều tác giả.1998. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật 
Việt Nam tại Tp.HCM.
Pich Tum Kravel. 1997. Dì kê và sân khấu Basắc. Trường Đại học nghệ thuật Hoàng gia xuất bản
Viện Văn hóa. 1987. Người Khmer Cửu Long. Sở Văn hóa-Thông tin xuất bản.
Viện Văn hóa. 1993. Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản 
Văn hóa Dân tộc.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201492 Soá 13, thaùng 3/2014 93
tình”, Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - “Sất-
Thy-Vong”,... Cũng xuất phát từ lòng nhân đạo sâu 
sắc ấy mà nhân dân đã để cho cô Tấm thảo hiền, 
xinh đẹp qua nhiều biến hoá thăng trầm, cuối cùng 
trở về làm hoàng hậu, sống cuộc đời hạnh phúc 
bên nhà vua; Trần Minh thoát khỏi cái nghèo khổ 
và cũng tận hưởng hạnh phúc; Truyện Người con 
gái Nam Xương vừa có giá trị tố cáo hiện thực 
của xã hội phong kiến và mang ý nghĩa nhân đạo 
sâu sắc, càng thấy rõ giá trị cuộc sống của người 
phụ nữ trong một xã hội tốt đẹp hơn, vươn lên làm 
chủ cuộc đời được hạnh phúc và bình đẳng; Lục 
Vân Tiên thể hiện tính cách của người Nam Bộ, 
tính anh hùng nghĩa hiệp, giúp người hoạn nạn;... 
Những kết thúc của truyện cổ tích, truyện dân gian 
đều “gỡ nút” bằng triết lí nhân dân: “Ở hiền gặp 
lành, ác giả ác báo”.
2.4. Sân khấu Dù kê mang lại giá trị thẩm mỹ
Sự đóng góp cho loại hình nghệ thuật sân khấu 
là sự thành công của một tác phẩm, kịch bản đến 
vai trò của người đạo diễn dựng tính kịch, mỹ 
thuật, hóa trang, sáng tác âm nhạc,, tất cả cho 
diễn viên được tôn lên trở thành nhân vật trọng 
tâm của sân khấu. Nhưng giá trị thẩm mỹ được hội 
tụ trên sân khấu không chỉ dừng lại ở mỹ thuật, 
hóa trang, phục trang, ánh sáng,... mà còn bộc lộ 
các giá trị khác như chân, thiện,... nó mang tính 
phổ quát trong một tác phẩm, giá trị của tác phẩm 
cũng chính là giá trị thẩm mỹ và chỉ khi đạt giá trị 
thẩm mỹ mới trở thành hình tượng nghệ thuật, khi 
đạt đến hình tượng nghệ thuật thì đó mới chính là 
chất lượng của một tác phẩm nghệ thuật sân khấu.
Giá trị thẩm mỹ được bộc lộ ở nhân vật của 
từng nội dung truyện, có thể tìm thấy được về giá 
trị đạo đức, giá trị nhận thức, tư tưởng, giáo lý 
của các vị thần NeakTa, của Đức Phật Thích Ca, 
đạo sĩ Âyxây tu hành khổ luyện, hay một nhân vật 
thông minh nào đó, để thể hiện nhất quán quan 
điểm trong việc giáo dục con người. Mặc dù rơi 
vào phép thuật hay thần thánh bí ẩn nhưng người 
xưa vẫn biết sử dụng hư cấu để điều chỉnh hành 
vi con người, điều chỉnh mối quan hệ xã hội, loại 
trừ cái phi đạo đức, đẩy lùi cái hiện tượng xấu xa, 
không thể có cái phi chân, thiện, mỹ.
Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đã xuất hiện 
văn học viết, những kịch bản mới với những đề 
tài hiện đại, đánh dấu sự biến đổi văn học Khmer. 
Tác phẩm ra đời: “Nghĩa tình trong giông tố” của 
tác giả Thạch Voi; “Giữ đền Vêhia” của tác giả 
Thạch Chân đã thúc đẩy cho lực lượng đông đảo 
nghệ sĩ kiểu mới của cách mạng Việt Nam, có kiến 
thức khoa học về sân khấu tiên tiến, luôn hướng 
về công cuộc đấu tranh cho Tổ quốc quê hương, 
vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp. Vừa mới 
chấm dứt tiếng súng chống Mỹ thì chiến tranh 
bảo vệ tổ quốc chống chế độ diệt chủng Pôl-Pốt 
Iêng Sary, tình hình mới đặt ra trước nghệ thuật 
sân khấu những yêu cầu mới, kịch bản “Mối tình 
BôPha RạngXây” của tác giả Thạch Chân đã ra 
đời và đáp ứng nhu cầu thưởng thức của nhân dân 
trong nước và nước bạn Campuchia, có tác dụng 
cực kỳ to lớn trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ của 
người Khmer, đã trở thành công cụ cho cuộc vận 
động cách mạng và tình đoàn kết dân tộc, đáp ứng 
nhu cầu thẩm mỹ - văn học dưới ánh sáng của thế 
giới quan vô sản.
3. Giải pháp giữ gìn và phát huy sân khấu 
Dù kê
3.1. Xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn lực cho 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer, từng bước hoàn 
chỉnh hệ thống các giáo trình, sách tham khảo 
cho ngành học nghệ thuật sân khấu Dù kê dân tộc 
Khmer để nâng cao chất lượng sân khấu Dù kê có 
hiệu quả.
+ Xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn lực cho 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer
 Đây là một nhiệm vụ mang tính chiến lược, 
nó quyết định cho sự tồn tại của loại hình nghệ 
thuật sân khấu. Được xem là một việc làm cấp thiết 
đối với đơn vị nghệ thuật sân khấu dân tộc Khmer 
trong tình hình hiện nay. Hồ Chí Minh quan niệm: 
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, Vì lợi ích 
trăm năm thì phải trồng người”. Vì vậy, đào tạo 
nguồn lực chính là yếu tố con người có tài năng, 
có khả năng tham gia vào lĩnh vực nghệ thuật dân 
tộc và các mặt hoạt động xã hội.
Các đơn vị sự nghiệp nghệ thuật được nhận 
chỉ tiêu đào tạo tại các Trường Đại học văn hóa, 
Cao đẳng hay Trung cấp, có chính sách đào tạo lại 
cán bộ quản lý nghệ thuật, đạo diễn, âm nhạc, biên 
đạo múa để có điều kiện trẻ hóa đội ngũ, khắc phục 
tình trạng dôi thừa trong đơn vị nghệ thuật.
+ Xây dựng hoàn chỉnh về giáo trình, sách 
tham khảo cho ngành học Nghệ thuật Sân khấu 
Dù kê của dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh.
 Đây là giải pháp đòi hỏi phải thực hiện đồng 
bộ, phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể 
địa phương mà Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 
là cơ quan trực tiếp thực hiện hướng dẫn để tiến 
hành khảo sát sơ bộ cho loại hình sân khấu Dù kê, 
cụ thể hơn là xây dựng dự án cho từng bộ môn (cả 
lý thuyết lẫn thực hành) về các loại nhạc cụ Dù kê 
Basắc, những bài hát Dù kê Basắc, múa sử dụng 
cho loại hình sân khấu, hoạt động hình thể, vũ đạo 
hay phong cách biểu diễn cho từng nhân vật. Đây 
là hình thức trải nghiệm cho công tác đào tạo và 
vừa là mục đích truyền đạt cho thế hệ trẻ am hiểu 
và gần gũi với sân khấu Dù kê.
3.2. Văn hóa truyền thống có sự biến đổi là một 
quá trình tất yếu khách quan, bởi xã hội đô thị 
trong điều kiện công nghiệp hóa tiến lên công 
nghiệp hiện đại, là yếu tố duy nhất làm động lực 
cho kinh tế đô thị phát triển. Sự chuyển biến từ 
một xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội 
đô thị công nghiệp làm cho nét đẹp văn hóa truyền 
thống bị mờ nhạt và ngày càng bị mai một, phá vỡ 
tính cộng đồng xóm giềng, sự thông cảm chia sẻ 
trong mối quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, cộng 
đồng bị hạn chế. Chính vì điều này, Đảng và Nhà 
nước cần quan tâm và trao quyền tự chủ rộng rãi, 
tăng ngân sách hoạt động cho các chính quyền địa 
phương, cá nhân, tập thể hay nhân dân trong công 
tác quản lý để xây dựng các phong trào văn hóa 
văn nghệ nhằm tạo ra một cơ chế riêng đặc thù 
cho từng loại hình nghệ thuật, giúp thế hệ sau tiếp 
nhận nghệ thuật cũng chính là nền giáo dục trong 
văn hóa dân gian mà người xưa cố gắng tích lũy, 
lưu truyền lại; đồng thời, khuyến khích hỗ trợ và 
mở các lớp tập huấn, khảo sát thực tế cho các nghệ 
nhân, nghệ sĩ, các tác giả nhằm phát huy sáng tạo 
những tác phẩm có giá trị văn hóa.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo kỷ niệm 40 năm thành lập Đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh ngày 14/4/1963 – 
14/4/2003 (năm 2003).
Ngô Đức Thịnh. Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc. Xem 
Nhiều tác giả.1998. Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật 
Việt Nam tại Tp.HCM.
Pich Tum Kravel. 1997. Dì kê và sân khấu Basắc. Trường Đại học nghệ thuật Hoàng gia xuất bản
Viện Văn hóa. 1987. Người Khmer Cửu Long. Sở Văn hóa-Thông tin xuất bản.
Viện Văn hóa. 1993. Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản 
Văn hóa Dân tộc.

File đính kèm:

  • pdfsan_khau_du_ke_goc_nhin_tu_van_hoa_dan_gian.pdf