Sau 100 năm - Từ nguồn sáng Đông Kinh Nghĩa Thục
Năm 2007 là chẵn 100 năm khai mở và kết thúc Đông Kinh
nghĩa thục (ĐKNT)(**)- ngôi trường tư thục đầu tiên, hay nói
đúng hơn là một phong trào - phong trào ĐKNT nhằm đem lại
một chuyển đổi cách mạng về nội dung và phương thức hoạt
động trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Phỏng theo mô hình
Khánh ứng nghĩa thục của Nhật Bản, ĐKNT chủ trương đưa
tư tưởng dân chủ và văn minh phương Tây thay cho kinh điển
Nho gia để chuyển đổi đầu óc quốc dân, chấn hưng công nghệ
và canh tân đất nước. Từ địa chỉ số 4 Hàng Đào, Hà Nội - nhà
riêng của Thục trưởng Lương Văn Can, ĐKNT nhanh chóng
mở rộng địa bàn hoạt động ra nhiều tỉnh ở Bắc bộ và Trung
bộ; và gây nên một chấn động lớn trong đời sống tinh thần dân
tộc vào thập niên đầu thế kỷ XX. ĐKNT bị thực dân Pháp đàn
áp dữ dội sau 7 tháng hoạt động, nhưng tinh thần canh tân
đất nước, và tư tưởng cốt lõi: có canh tân (đổi mới) đất nước
mới giành và giữ được đất nước của ĐKNT là vẫn có giá trị
cho một thế kỷ để đến với sự nghiệp Đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo từ hai thập niên cuối thế kỷ XX.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sau 100 năm - Từ nguồn sáng Đông Kinh Nghĩa Thục
sau 100 năm - từ nguồn sáng đông kinh nghĩa thục Phong Lê (*) Năm 2007 là chẵn 100 năm khai mở và kết thúc Đông Kinh nghĩa thục (ĐKNT) (**) - ngôi tr−ờng t− thục đầu tiên, hay nói đúng hơn là một phong trào - phong trào ĐKNT nhằm đem lại một chuyển đổi cách mạng về nội dung và ph−ơng thức hoạt động trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Phỏng theo mô hình Khánh ứng nghĩa thục của Nhật Bản, ĐKNT chủ tr−ơng đ−a t− t−ởng dân chủ và văn minh ph−ơng Tây thay cho kinh điển Nho gia để chuyển đổi đầu óc quốc dân, chấn h−ng công nghệ và canh tân đất n−ớc. Từ địa chỉ số 4 Hàng Đào, Hà Nội - nhà riêng của Thục tr−ởng L−ơng Văn Can, ĐKNT nhanh chóng mở rộng địa bàn hoạt động ra nhiều tỉnh ở Bắc bộ và Trung bộ; và gây nên một chấn động lớn trong đời sống tinh thần dân tộc vào thập niên đầu thế kỷ XX. ĐKNT bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội sau 7 tháng hoạt động, nh−ng tinh thần canh tân đất n−ớc, và t− t−ởng cốt lõi: có canh tân (đổi mới) đất n−ớc mới giành và giữ đ−ợc đất n−ớc của ĐKNT là vẫn có giá trị cho một thế kỷ để đến với sự nghiệp Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ hai thập niên cuối thế kỷ XX. ăm nay, năm 2007 là chẵn 100 năm khai mở và kết thúc tr−ờng ĐKNT. Đó là tr−ờng t− thục (dân lập) đầu tiên, đem lại một chuyển đổi cách mạng về nội dung và ph−ơng thức hoạt động trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Tr−ớc đó hàng ngàn năm, nền giáo dục và khoa cử ở ta là một khuôn hình ổn định, nhằm đào tạo các thế hệ kẻ Sỹ, để làm quan hoặc làm thầy. Và khi chủ nghĩa thực dân Pháp thiết lập đ−ợc nền thống trị, sau kết thúc phong trào Cần V−ơng, vào những năm cuối thế kỷ XIX, thì một nền giáo dục Pháp Việt cũng chỉ mới b−ớc đầu hình thành nhằm phục vụ cho mục tiêu “khai hoá” của ông chủ lớn là n−ớc Mẹ Đại Pháp...(∗)(∗∗) Còn ĐKNT phỏng theo mô hình Khánh ứng nghĩa thục (Keio Giguku) của Phúc-trạch-dụ-cát (Fukuzawa Yukichi) khai giảng năm 1858 ở Nhật Bản, là nhằm đ−a t− t−ởng dân chủ và văn minh khoa học Thái Tây thay cho kinh điển Nho gia để chuyển đổi đầu óc quốc dân, chấn h−ng công nghệ và thực nghiệm, và canh tân đất n−ớc. Thay cho cái học cử tử “chi hồ, dã dã” (∗) GS. Viện Văn học, Viện KHXH Việt Nam. (∗∗) Khai giảng tháng 3/1907; đóng cửa tháng 12/1907. n Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2007 4 sẽ là lịch sử, địa d−, cách trí, toán pháp... Là những lý thuyết mới đến từ các trào l−u triết học và t− t−ởng dân chủ của ph−ơng Tây, qua những cái tên lạ mà hấp dẫn, lần đầu tiên đến với giới trí thức Nho học Việt Nam, nh− A-lý-sĩ-đa-đức (Aristote), T−- cách-lạp-đề (Socrate), Bá-lạp-đồ (Platon), Bồi-căn (Bacon), Đích-tạp- nhi (Descartes)... Rồi L−-thoa (Rousseau), Mạnh-đức-t−-c−u (Montesquieu), Phúc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire)... Rồi các danh nhân nh− Bỉ-đắc đại đế (Pierre le Grand), Hoa- thịnh-đốn (Washington), Nã-phá-luân (Napoléon)... Là Văn minh tân học sách, với 6 ph−ơng án: dùng văn tự n−ớc nhà, hiệu đính sách vở, sửa đổi phép thi, cổ vũ nhân tài, chấn h−ng công nghệ, mở toà báo... để dạy cho quốc dân cách thức tự c−ờng, v−ơn lên, bình đẳng với thiên hạ. Là cả một hệ sách giáo khoa nhằm vào lịch sử dân tộc gồm những Quốc dân độc bản, Quốc văn giáo khoa th−, Nam quốc giai sự, Nam quốc vĩ nhân truyện, Nam quốc sử l−ợc, Nam quốc địa d−... bên cạnh ẩm băng thất của L−ơng Khải Siêu, Trung Quốc hồn, Doanh hoàn chí l−ợc... Là sự tiếp nhận và phổ cập cả một phong trào thơ văn yêu n−ớc từng sôi nổi suốt nửa thế kỷ tr−ớc và bây giờ đ−ợc tiếp tục trên tinh thần mới, nh− Kêu hồn n−ớc, Phen này cắt tóc đi tu (Nguyễn Quyền), Đề tỉnh quốc dân ca (Khuyết danh), Đề tỉnh quốc dân hồn, Hải ngoại huyết th− (Phan Bội Châu), Tỉnh quốc hồn ca (Phan Châu Trinh), Thiết tiền ca (Nguyễn Phan Lãng), Bài ca địa d− và lịch sử n−ớc nhà (Ngô Quý Siêu), á-tế-á ca, Kể chuyện năm châu... Là Cáo hủ lậu văn để phê phán và phủ định cái học hủ lậu hàng nghìn năm và kêu gọi h−ớng tới một nền học mới... Đây là một cơ hội hiếm có, để cho tất cả những tri thức mới cùng thơ văn yêu n−ớc đến đ−ợc trực tiếp với công chúng là ng−ời đọc, ng−ời học, ng−ời giảng, ng−ời nghe, trong bối cảnh một cuộc duy tân vừa phát động đã trở nên sôi động, nhờ vào ph−ơng thức hoạt động có tổ chức t−ơng đối bài bản: không chỉ là giảng dạy mà còn là tuyên truyền, cổ động; không chỉ là lý thuyết sách vở mà gắn với thực nghiệm; không chỉ là thuyết trình mà còn là biên soạn và nhân rộng, “phát tán” các tài liệu... Và cái mới khi đã đ−ợc công chúng đón nhận trong tâm lý hồ hởi thì sẽ có sức lan toả rất nhanh chóng; chỉ riêng một chuyện kêu gọi cắt tóc mà thành phong trào lan khắp các đô thị Bắc và Trung - phong trào cắt tóc (mouvement de la tonsure) đến từ thơ văn và tràn vào thơ văn: “Cúp hè! Cúp hè! Thẳng thẳng cho khéo. Bỏ cái hèn này. Bỏ cái dại này. Cho khôn cho mạnh. ở với ông Tây!”; nói rằng: “ở với ông Tây”, nh−ng rồi sẽ bị chính ông chủ Tây truy đuổi và cấm đoán. Từ địa chỉ 4 Hàng Đào (nhà riêng của cụ Cử L−ơng Văn Can), ĐKNT nhanh chóng mở rộng địa bàn hoạt động, không chỉ ở thủ đô 36 phố ph−ờng mà còn loang ra nhiều tỉnh thành khác nh− Sơn Tây, Hà Đông, Thái Bình, Hải D−ơng, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Thuận... Chỉ khoảng một năm hoạt động, trong đó có ba tháng ch−a có giấy phép, ĐKNT đã gây nên một chấn động trong đời sống văn hoá- tinh thần của dân tộc. Nếu hiểu đồng thời với ĐKNT, Nguyễn Khuyến còn âm thầm làm thơ Sau 100 năm - 5 Nôm, và tìm thú vui trong x−ớng hoạ với vài bạn tri âm ở làng Bùi; và Tú X−ơng chỉ mới kết thúc nghiệp thi cử sau 8 khoa đeo đẳng mà không v−ợt đ−ợc cái ng−ỡng Tú tài; và mãi đến năm 1919 khoa thi chữ Hán cuối cùng bị bãi bỏ thì mới thấy sự sôi động của nền học mới mà ĐKNT khởi x−ớng cho đời sống học đ−ờng là đột xuất biết chừng nào. Nếu nhớ rằng, chỉ mới dăm năm tr−ớc đó, vào mở đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp sau khi dập tắt phong trào Cần V−ơng, đã bắt tay ngay vào cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất một cách yên tâm và vững chí nh− trong Báo cáo gửi về Bộ Thuộc địa ở Paris của Toàn quyền Paul Doumer, ng−ời vừa mới cho khánh thành vào năm 1902 chiếc cầu lớn mang chính tên mình, bắc qua sông Hồng (nay là cầu Long Biên): “Mấy năm nay không một ng−ời lính Pháp nào chết vì trận mạc ở Đông D−ơng”; và lời phụ hoạ của Nguyễn Thân - kẻ đã cho thiêu xác Phan Đình Phùng thành tro rồi bắn xuống sông La, là “cao trảm vô −u” (cứ gối cao đầu mà ngủ chẳng phải lo lắng gì), thì sự xuất hiện của phong trào Đông du, Duy tân và ĐKNT từ sau 1905 là một bất ngờ lịch sử lớn đến thế nào đối với chính quyền thuộc địa. Nh−ng đối với dân tộc, trong chặng đ−ờng ngắn rất mực im ắng này, lại là một chuẩn bị âm thầm và quyết liệt của cả một thế hệ nhà Nho có đ−ợc sự tiếp xúc với t− t−ởng dân chủ và văn minh ph−ơng Tây, đến từ Tân th−, đang trong khao khát tìm đ−ờng nh− Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Th−ợng Hiền, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế... và những ng−ời rồi sẽ chủ trì ĐKNT nh− L−ơng Văn Can, Nguyễn Quyền,... Với ĐKNT - đó là một cuộc tập hợp lực l−ợng trí thức rộng rãi và đông đảo nhất trong lịch sử, nhằm vào mục tiêu canh tân, phục h−ng đất n−ớc, bởi cái ý thức sâu sắc có canh tân thì mới cứu đ−ợc n−ớc. Do mục tiêu đó nên những ng−ời chủ trì và cộng tác của ĐKNT, tất cả đều là những nhà Nho có đầu óc canh tân trong cả hai phái bạo động và cải cách, “ám xã” và “minh xã”, gồm từ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Th−ợng Hiền, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, Trần Quý Cáp... đến D−ơng Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Quyền, L−ơng Văn Can...; cùng một số trí thức Tây học cũng có vốn Nho học, đang mong muốn tạo một g−ơng mặt mới cho văn hoá, văn ch−ơng, học thuật dân tộc nh− Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn... Chuyển giao từ nền học cũ sang nền học mới, ĐKNT chủ tr−ơng dạy cả ba loại chữ: Pháp, Hán, Quốc ngữ; trong đó Pháp đ−ơng nhiên là đ−ợc lòng chính quyền, nh−ng sự thật cũng là rất cần để cho giới trí thức trực tiếp đến với nền văn minh chính quốc sau con đ−ờng gián tiếp qua Tân th−; Hán - thì mặc dù đã có ng−ời quyết liệt phản đối nh− Phan Châu Trinh: “Bất phế Hán tự bất túc dĩ cứu Nam quốc” (Không bỏ chữ Hán không cứu đ−ợc n−ớc), nh−ng vẫn cần học để không cắt đứt với văn hoá truyền thống; còn Quốc ngữ thì đ−ơng nhiên ở vị trí −u tiên: “Chữ Quốc ngữ là hồn của n−ớc”... “Chữ ta ta phải thuộc làu...”. Ba loại chữ cho cả ba bậc học: tiểu, trung và đại học; và cho cả hai hệ học sinh nam và nữ - một hiện t−ợng cực kỳ mới mẻ, ch−a từng có trong lịch sử. Gọi là tr−ờng ĐKNT, nh−ng thực chất là một phong trào - phong trào ĐKNT bởi quy mô hoạt động của nó là gồm đến bốn Ban: Ban Giáo dục, Ban Tài chính, Ban Cổ động, Ban Tu th− Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2007 6 nhằm chăm lo cho sự tồn tại và mở rộng hoạt động của ĐKNT, để từ khởi động là giáo dục với mục tiêu cải tạo và nâng cao dân trí mà chuyển sang văn hoá với mục tiêu là chấn h−ng và canh tân đất n−ớc, để đi đến cái đích cuối cùng là giải phóng dân tộc. Ta hiểu vì sao trong các tài liệu giáo khoa và thơ văn yêu n−ớc đ−ợc dùng để giảng dạy ở ĐKNT lại xuất hiện nhiều và dồn dập đến thế những Nam quốc, quốc dân, quốc hồn và hồn n−ớc, với một thiết tha “đề tỉnh”. Và câu thơ đúc kết đ−ợc đầy đủ nhất tinh thần ĐKNT, đó là: Tụng kinh Độc lập ở chùa Duy tân Một thức nhận với những mục tiêu và biện pháp tổ chức nh− thế vào thập niên mở đầu thế kỷ XX, khi đất n−ớc còn trong tối tăm mù mịt sau thất bại của biết bao tên tuổi sỹ phu - văn thân trong suốt nửa thế kỷ tr−ớc đó, phải nói là cực kỳ mới mẻ. Bị bủa vây và rình rập của chính quyền thuộc địa, sự tồn tại của một tr−ờng t− thục phải tìm đến sự tập hợp rất lớn của đội ngũ trí thức, và sự h−ởng ứng của quốc dân đang khao khát một cuộc đổi mới (canh tân), để khua dậy một cơn mê ngủ kéo quá dài trong lịch sử; bởi, theo họ, chính vì cơn mê ngủ đó mà đ−a tới thảm hoạ mất n−ớc: Sao không đập mạnh thét dài Cho ng−ời mê ngủ ai ai tỉnh dần? Sao không chống mảng mê tân Cho ng−ời chìm đuối lần lần v−ợt lên? (Cáo hủ lậu văn) Tất nhiên đến đ−ợc đích ấy, con đ−ờng còn rất xa; nh−ng ít nhất phải có đ−ợc một tỉnh thức, nh− một khởi động. Và tất nhiên, chỉ một khởi động nh− thế, với g−ơng mặt ngỡ nh− rất ôn hoà, chỉ nhằm cải tạo và nâng cao dân trí, chấn h−ng dân khí, thế mà thực dân đã rất kinh sợ. Bởi, với giác quan nhậy cảm của kẻ đi xâm l−ợc, bọn chúng đã “ngửi” thấy một cái gì thật bất an đang nhen nhóm ở phía d−ới. Trong gắn nối với phong trào Duy tân và Đông du hai năm về tr−ớc, và trong sự bùng nổ về sau, vào năm 1908, phong trào chống thuế ở Quảng Nam, cuộc bạo động của Đề Thám và vụ đầu độc Hà thành, ĐKNT đã bị đóng cửa sau 9 tháng hoạt động. Và ít lâu sau ngày đóng cửa, gần nh− tất cả những ai có liên quan và đóng góp cho ĐKNT đều bị bắt, rồi bị giam cầm, đầy ra Côn Đảo, với những cái án giam hàng chục năm, có ng−ời là chung thân, hoặc “trảm giam hậu” (tội chém nh−ng ch−a phải chém ngay); trong đó Lê Đại chịu án 15 năm, nhiều ng−ời khác chịu án chung thân; riêng Phan Châu Trinh bị “trảm quyết” sau đổi thành “trảm giam hậu”... Có thể nói sau cuộc tàn sát năm Thân (1908), năm Dậu (1909) diễn ra ngay sau ngày ĐKNT vỡ, cả một thế hệ trí thức Nho học yêu n−ớc có đầu óc canh tân đã bị giam cầm, đầy ải. Hết đất hoạt động, trong thân phận bị tù đày hoặc giam lỏng, họ chỉ có thể ngụ tâm sự và ý chí của mình vào những vần thơ cảm khái, làm nên một dòng thơ tù đặc sắc, khởi phát từ Côn Lôn của Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn... tiếp tục dòng thơ yêu n−ớc ở ngoài đời. Có ng−ời trở lại việc ôn luyện Quốc ngữ hoặc học tiếng Pháp chỉ bằng một cuốn Từ điển, nhằm chuẩn bị hành trang cho ngày v−ợt tù hoặc ra tù. Cho đến hết Thế chiến Một, các án giam lần l−ợt đ−ợc giảm, để vào mở đầu thập niên 20, họ lần l−ợt đ−ợc trả tự do. Báo chí trở thành môi tr−ờng quan trọng cho sự tiếp tục chí h−ớng cách mạng của họ, nh− Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi... Nh−ng thời thế đã thay đổi kể từ sau Cách mạng Sau 100 năm - 7 tháng M−ời Nga 1917. Sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc đã chuyển sang vai một thế hệ mới, thế hệ con em của họ, mà Nguyễn ái Quốc là tên tuổi số 1, đã chọn con đ−ờng sang ph−ơng Tây, và bắt đầu sự nghiệp viết của mình ở tuổi 30 ở Paris, nh− một động thái chuẩn bị tích cực cho cuộc hành trình mới của dân tộc, với những áng văn đầu tiên khai mạc một thời đại mới - đó là Yêu sách của nhân dân Việt Nam, là Đông D−ơng thức tỉnh và Bản án chế độ thực dân Pháp. Nh−ng dẫu có bị ngắt quãng, bị đứt đoạn thì tinh thần canh tân đất n−ớc của ĐKNT vẫn có đ−ợc sự nối tiếp qua các thế hệ; bởi cốt lõi t− t−ởng: yêu n−ớc gắn với canh tân (có nghĩa là có đổi mới đất n−ớc mới giành và giữ đ−ợc đất n−ớc) ĐKNT mở ra là có giá trị cho cả một thế kỷ - để đến với sự nghiệp Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ thập niên cuối thế kỷ XX. Bên cạnh truyền thống yêu n−ớc và bất khuất của dân tộc có lịch sử nhiều nghìn năm thì khát vọng canh tân chỉ có thể có hoàn cảnh phát triển để trở thành phong trào chỉ trong khoảng 100 năm, với khởi đầu rực rỡ và chói sáng là ĐKNT và những g−ơng mặt lớn nh− Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Th−ợng Hiền, Trần Quý Cáp, L−ơng Văn Can, Nguyễn Quyền... Từ lâu rồi hai g−ơng mặt lịch sử lớn là Phan Bội Châu - lãnh tụ của phong trào Đông du, và Phan Châu Trinh - ng−ời khai mạc và cổ súy phong trào Duy tân đã đ−ợc cả dân tộc x−ng tụng; và mối tri ân sâu sắc ấy đã đ−ợc biểu hiện cao nhất trong phong trào cả n−ớc đòi tha Phan Bội Châu năm 1925, khi nhà ái quốc bị thực dân bắt ở Th−ợng Hải giải về Hỏa Lò; và phong trào cả n−ớc đòi để tang Phan Châu Trinh năm 1926, khi ông mất ở Sài Gòn... Thế nh−ng còn Cử nhân L−ơng Văn Can - Thục tr−ởng ĐKNT thì d−ờng nh− có bị lu mờ? Không kể vai trò Thục tr−ởng một phong trào giáo dục có sức chấn động rộng lớn, và chịu một sự đàn áp dữ dội, ông còn phải chịu một án giam hơn 10 năm - cho đến 1923. Ông còn góp vào sự nghiệp cứu n−ớc cả ba ng−ời con trai, và một con rể, trong đó ng−ời con út là L−ơng Ngọc Quyến, từng là ng−ời đầu tiên, và một mình, sang Nhật h−ởng ứng phong trào Đông du của Phan Bội Châu, rồi trở thành lãnh tụ của khởi nghĩa Thái Nguyên. L−ơng Ngọc Quyến đã nhận một sự hy sinh bi tráng cùng Đội Cấn vào năm 1917 - chẵn 10 năm sau ngày ĐKNT tan vỡ. Lại tiếp 10 năm sau, là ngày L−ơng Văn Can mất (13-6-1927), dẫu chính quyền thực dân đã rất cảnh giác và tìm cách đối phó, nh−ng khi hạ huyệt, đám tang của Thục tr−ởng ĐKNT vẫn có đến hàng ngàn ng−ời tham dự. Lịch sử sẽ đi tiếp hành trình của ĐKNT, trong những sự kiện vang động cả n−ớc vào những năm 20 ngay sau khi kết thúc Thế chiến Một, với tiếng bom nổ ở Sa Điện (Quảng Châu) nhằm m−u sát Toàn quyền Đông D−ơng Merlin của Phạm Hồng Thái năm 1924, phong trào đòi thả Phan Bội Châu năm 1925, phong trào đòi để tang Phan Châu Trinh năm 1926; và đám tang L−ơng Văn Can năm 1927; cũng là năm Nguyễn ái Quốc công bố tác phẩm Đ−ờng Kách mệnh, chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông D−ơng năm 1930. Con đ−ờng mở ra cho dân tộc sau các phong trào Đông du, Duy tân và Đông Kinh nghĩa thục, do một thế hệ các nhà Nho chí sĩ mở đ−ờng, sẽ v−ơn tới một tầm cao, một mục tiêu mới, đòi hỏi một nỗ lực lớn, h−ớng theo sự chỉ dẫn của một Đảng của giai cấp công nhân với lãnh tụ cao nhất là Nguyễn ái Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2007 8 Quốc, để đón bắt kịp thời thời cơ cách mạng rồi sẽ đến với dân tộc vào thời điểm tháng Tám- 1945 lịch sử. Thục tr−ởng L−ơng Văn Can, nhà yêu n−ớc lớn, và cũng là nhà văn hóa, với nhiều tr−ớc tác bằng chữ Hán nh− Quốc sự phạm lịch sử, Hán tự tiệp kính, Gia huấn, Hạnh đàn loại ngữ, Trâu th− loại ngữ, ấu học tùng đàm, Hán tự quốc âm, và chữ Nôm: Đại Việt địa d−, cùng với gia đình ông đã góp vào lịch sử và lịch sử văn học dân tộc 30 năm đầu thế kỷ XX những dấu son thật rực rỡ. 100 năm đã qua, mỗi dịp đi qua nhà số 4 Hàng Đào (bây giờ là một địa chỉ nằm ở trung tâm phố cổ), nhìn vào mấy cửa hiệu thời trang thấp bé, tôi cố vận dụng trí t−ởng t−ợng để hình dung lại cảnh quan tấp nập, sôi nổi một thời đã diễn ra ở đây: Buổi diễn thuyết ng−ời đông nh− hội Kỳ bình văn khách tới nh− m−a ... Tr−ờng Nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ Khắp ba m−ơi sáu phố Hà thành Gái trai nô nức học hành Giáo s− tám lớp học sinh non ngàn với trung tâm của sự hào hứng là một chữ tân: Mở tân giới, xoay nghề tân học Đón tân trào, dựng cuộc tân dân Tân th−, tân báo, tân văn Và sau đó, ghé nhà số 2 Ngõ Phất Lộc, cách số 4 Hàng Đào một dãy phố (Hàng Bạc), và ở tận cùng một con hẻm quanh co, giáp nối với cuối phố Hàng Buồm, để hình dung ba đêm nổi lửa đốt các hồ sơ, tài liệu, giấy tờ, trong cái rét cuối tháng Chạp Tết Mùi, kết thúc năm 1907, khi ĐKNT có lệnh đóng cửa, mà ng−ời dân chung quanh cứ ngỡ là lửa nấu bánh ch−ng. ở một số n−ớc ph−ơng Tây tôi có dịp ghé qua, nhiều khu l−u niệm hoặc kỷ vật cách đây dăm sáu trăm năm vẫn đ−ợc giữ nguyên; còn ở ta, chỉ mới 100 năm, đã không còn để lại bất cứ dấu vết gì. Chiều 29 Tết Đinh Hợi - 2007 vừa qua, chen chúc trong dòng ng−ời qua lại ở Hàng Đào, tôi đã dừng lại ở nhà số 4, địa chỉ 100 năm tr−ớc đây của ĐKNT - nơi phát tích phong trào đổi mới giáo dục quốc dân để h−ởng ứng và làm nên một cuộc vận động canh tân - yêu n−ớc của các nhà Nho, bây giờ gần nh− không còn lại bất cứ dấu tích gì để gợi nhớ một thời. Niềm mong −ớc của tôi là có một cái biển đồng gắn vào địa chỉ này, để các thế hệ sau biết đến một dấu son xuyên suốt thế kỷ XX, làm gắn nối sự nghiệp Canh tân đầu thế kỷ tr−ớc với kết quả công cuộc Đổi mới của dân tộc vào đầu thế kỷ này. Một thế kỷ cả dân tộc trên cùng một đại lộ, h−ớng tới mục tiêu cách mạng (giành lại chủ quyền đất n−ớc) và văn minh (đổi mới đất n−ớc), với các b−ớc đi thần tốc của nó. Tài liệu tham khảo 1. Đào Trinh Nhất. Đông Kinh nghĩa thục. H.: Mai Lĩnh, 1938. 2. Phan Bội Châu. Ngục trung th−. Sài Gòn: Tân Việt, 1950. 3. Đặng Thai Mai. Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. H.: Văn hóa, 1961. 4. Nguyễn Hiến Lê. Đông Kinh nghĩa thục. Sài Gòn: Lá Bối, 1968. 5. Ch−ơng Thâu. Đông Kinh nghĩa thục. H.: 1982. 6. Trần Đình H−ợu. Văn học Việt Nam - Giai đoạn giao thời 1900-1930. H.: Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1988.
File đính kèm:
- sau_100_nam_tu_nguon_sang_dong_kinh_nghia_thuc.pdf