Sinh trưởng và sản sinh Bacteriocin của vi khuẩn lactic T13 trên môi trường nuôi cấy và trên cá giò nguyên liệu tươi
TÓM TẮT Bacteriocin với bản chất peptide hay protein có hoạt tính ức chế mạnh sinh trưởng của nhiều nhóm vi sinh vật đang được xem là chất bảo quản sinh học an toàn trong công nghệ thực phẩm. Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định khả năng sinh trưởng và sinh bacteriocin của chủng vi khuẩn lactic T13 trên môi trường nuôi cấy và trên da cá giò nguyên liệu tươi. Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt tính sinh bacteriocin của chủng này đạt cực đại ở cuối pha sinh trưởng logarit, sau 12 giờ nuôi cấy. Cùng với việc tiết ra các acid hữu cơ thì khả năng sản sinh bacteriocin đã tăng cường hoạt tính kháng khuẩn của chủng này. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng xác định được các điều kiện nuôi cấy thích hợp cho sinh trưởng của chủng T13, trong đó nguồn cacbon là glucose, nguồn nitơ là pepton, pH 6,4, nhiệt độ 310C. Cuối cùng, chủng T13 đã thể hiện khả năng sinh trưởng và sinh bacteriocin tốt trên môi trường da cá giò trong một tuần thí nghiệm. Kết quả này mở ra tiềm năng bảo quản của chủng T13 đối với cá giò tươi nguyên liệu cũng như với các sản phẩm thủy sản và thực phẩm khác
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sinh trưởng và sản sinh Bacteriocin của vi khuẩn lactic T13 trên môi trường nuôi cấy và trên cá giò nguyên liệu tươi
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 4/2012 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 15 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC SINH TRƯỞNG VÀ SẢN SINH BACTERIOCIN CỦA VI KHUẨN LACTIC T13 TRÊN MÔI TRƯỜNG NUÔI CẤY VÀ TRÊN CÁ GIÒ NGUYÊN LIỆU TƯƠI THE GROWTH AND BACTERIOCIN PRODUCTION OF LACTIC ACID BACTERIA STRAIN T13 ON CULTURE MEDIUM AND FRESH COBIA MEAT Nguyễn Văn Duy1, Lưu Thị Thúy2 Ngày nhận bài: 22/02/2012; Ng ày phản biện thông qua: 18/9/2012; Ngày duyệt đăng: 15/12/2012 TÓM TẮT Bacteriocin với bản chất peptide hay protein có hoạt tính ức chế mạnh sinh trưởng của nhiều nhóm vi sinh vật đang được xem là chất bảo quản sinh học an toàn trong công nghệ thực phẩm. Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định khả năng sinh trưởng và sinh bacteriocin của chủng vi khuẩn lactic T13 trên môi trường nuôi cấy và trên da cá giò nguyên liệu tươi. Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt tính sinh bacteriocin của chủng này đạt cực đại ở cuối pha sinh trưởng logarit, sau 12 giờ nuôi cấy. Cùng với việc tiết ra các acid hữu cơ thì khả năng sản sinh bacteriocin đã tăng cường hoạt tính kháng khuẩn của chủng này. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng xác định được các điều kiện nuôi cấy thích hợp cho sinh trưởng của chủng T13, trong đó nguồn cacbon là glucose, nguồn nitơ là pepton, pH 6,4, nhiệt độ 310C. Cuối cùng, chủng T13 đã thể hiện khả năng sinh trưởng và sinh bacteriocin tốt trên môi trường da cá giò trong một tuần thí nghiệm. Kết quả này mở ra tiềm năng bảo quản của chủng T13 đối với cá giò tươi nguyên liệu cũng như với các sản phẩm thủy sản và thực phẩm khác. Từ khóa: Bacteriocin, Bảo quản thực phẩm, Cá giò, Vi khuẩn lactic ABSTRACT Bacteriocins are the peptide and protein antibiotics with inhibitory activity on the growth of variety microbes, which are expected to become safe biological preservatives in food technology. This research aims to defi ne the growth and bacteriocin production of lactic acid bacteria strain T13 on culture medium and fresh cobia skin. The results have showed that its optimal production of bacteriocin approached at the 12h-cultured late log phage. Beside the secretion of organic acids, the bacteriocin production enhanced its anti-microbial mode of action. The favourite culture condition for the growth of strain T13 were also investigated, in which glucose shown as a carbon source, peptone as a nitrogen source, pH at 6.4 and the temperature at 310C. Finally, the growth and bacteriocin production of strain T13 were well expressed on culture medium and fresh cobia skin within one week. Thus, the strain T13 is potentially used as a preservative for fresh cobia meat and other seafood products. Keywords: Bacteriocin, Cobia, Food preservation, Lactic acid bacteria 1 TS. Nguyễn Văn Duy: Viện Công nghệ Sinh học và Môi trường - Trường Đại học Nha Trang 2 Lưu Thị Thúy: Lớp Cao học Công nghệ Sau thu hoạch 2009 - Trường Đại học Nha Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ hàng ngàn năm nay, người dân Việt Nam đã biết sử dụng vi khuẩn lactic trong tự nhiên để muối dưa, cà. Vi khuẩn lactic được công nhận là an toàn để sử dụng trong quá trình lên men thực phẩm truyền thống. Khi ứng dụng trong bảo quản thực phẩm, chúng giúp giảm bổ sung các chất bảo quản hóa học cũng như cường độ xử lý nhiệt, do đó làm cho thực phẩm sau bảo quản vẫn giữ được trạng thái tự nhiên và đảm bảo tính chất cảm quan và dinh dưỡng. Khi sử dụng trong bảo quản nguyên liệu thủy sản tươi đánh bắt xa bờ, chúng giúp giảm chi phí và nhu cầu về đá lạnh cũng như duy trì độ tươi thơm đảm bảo giá nguyên liệu ổn định. Ngoài ra, chúng còn có thể thay thế các chất bảo quản thực phẩm hiện tại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng về tính an toàn, độ tươi ngon, thực phẩm ăn liền, thực phẩm chế biến tối thiểu và Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 4/2012 16 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG gia tăng sản phẩm có tính cảm quan mới lạ như giảm tính acid hoặc giảm nồng độ muối (De Vuyst, Leroy, 2007). Trong những năm gần đây, người ta đã nghiên cứu sử dụng bacteriocin trong bảo quản thực phẩm và nhận thấy sử dụng bacteriocin có thể kéo dài thời gian bảo quản, tăng cường bảo vệ thực phẩm trong các điều kiện nhiệt độ bất thường, làm giảm nguy cơ truyền bệnh qua chuỗi thức ăn, giảm thiệt hại kinh tế do hư hỏng thực phẩm, giảm tỷ lệ sử dụng phụ gia trong bảo quản thực phẩm (Gálvez et al., 2007). Ở Việt Nam hiện nay đã có một vài nghiên cứu về khả năng sinh bacteriocin của vi khuẩn lactic. Nghiên cứu của Lê Thị Hồng Tuyết và Hoàng Quốc Khánh (2004) đã cho thấy vi khuẩn Lactobacillus acidophilus sản sinh bacteriocin có khả năng kháng một số vi khuẩn gây bệnh trong thực phẩm như E.coli, Samonella và một số vi khuẩn lactic khác. Ngoài ra, bacteriocin từ Lactococcus lactic đã được thu nhận, cố định trên chất mang cellulose vi khuẩn và bước đầu ứng dụng trong bảo quản thịt tươi sơ chế (Nguyễn Thúy Hương, Trần Thị Tưởng An, 2008). Mới đây, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã tuyển chọn được hai chủng vi khuẩn lactic T8 và T13 có khả năng sinh bacteriocin mạnh nhất trong số 69 chủng vi khuẩn lactic phân lập được từ nguồn nước dưa lên men truyền thống (Nguyễn Văn Duy, Lưu Thị Thúy, 2012). Hai chủng vi khuẩn này có phổ kháng khuẩn bổ sung nhau, trong đó dịch bacteriocin từ chủng T8 đã được thử nghiệm thành công nhằm kéo dài thời gian bảo quản cá giò nguyên liệu tươi (Nguyễn Văn Duy, Phạm Ngọc Minh Quỳnh, 2011). Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định đặc điểm sinh trưởng và sinh bacteriocin của chủng T13 trên môi trường nuôi cấy và trên da cá giò nhằm định hướng sử dụng chúng bổ sung với chủng T8 trong bảo quản thực phẩm và nguyên liệu thủy sản. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Chủng vi khuẩn lactic T13 sinh bacteriocin và chủng vi khuẩn Bacillus B1.1 đã được lấy từ bộ sưu tập chủng vi sinh vật của Viện Công nghệ sinh học và Môi trường, Trường Đại học Nha Trang (Nguyễn Văn Duy, Lưu Thị Thúy, 2012). Trong đó, chủng T13 được sử dụng làm vi khuẩn thử nghiệm còn chủng B1.1 dùng làm vi khuẩn đích để xác định khả năng sinh bacteriocin của chủng T13. Cá giò (Rachycenton canadum) nguyên liệu tươi được thu mua tại lồng nuôi cá giò ở Lương Sơn - Nha Trang - Khánh Hòa vào tháng 3 - 5 năm 2010. Da cá giò được nhúng vào dịch tế bào vi khuẩn lactic trong 120 giây, giữ ở nhiệt độ 300C (Zhang et al., 2010). Mẫu được lấy theo thời gian bảo quản từ 1 - 7 ngày. 2. Xác định khả năng sinh trưởng Khả năng sinh trưởng của vi khuẩn lactic được xác định bằng phép đo mật độ quang của dịch nuôi tại bước sóng 600 nm (OD600) trên máy đo quang phổ Cary 100 Bio (Varian, Mỹ). Tổng số vi khuẩn lactic được đếm theo phương pháp đổ đĩa trên môi trường MRS (Trần Linh Thước, 2008). 3. Xác định hoạt tính sinh bacteriocin Hoạt tính sinh bacteriocin của vi khuẩn lactic được xác định bằng phương pháp khuếch tán trên thạch đĩa (well diffusion assay). Sau 16 - 24h nuôi trên môi trường MRS ở 370C, dịch tế bào vi khuẩn lactic được ly tâm với tốc độ 6000 vòng/phút trong 30 phút ở 40C để thu dịch nổi. Sau đó dịch nổi được điều chỉnh pH đến 7,0 bằng NaOH 1N. Chủng vi khuẩn đích Bacillus B1.1 được nuôi trong đĩa thạch mềm (0,75%) có bổ sung dịch nhuộm màu methylene blue 0,4% ở 370C trong 24 giờ. Thạch được đục lỗ với đường kính 5 mm, rồi nhỏ vào 200 µl dịch vi khuẩn lactic sau ly tâm ở trên và ủ ở nhiệt độ 370C trong 12-24h. Hoạt tính bacteriocin của mẫu thí nghiệm được xác định theo đường kính vòng kháng khuẩn (D-d, mm) trong đó D và d lần lượt là các đường kính của vòng ức chế và lỗ thạch (Deraz et al., 2005). Nếu tính theo đơn vị hoạt độ AU/ml, hoạt tính của bacteriocin (AU/ml) là nghịch đảo của nồng độ pha loãng cao nhất (D), tại đó bacteriocin vẫn thể hiện vòng kháng rõ ràng với chủng chỉ thị (d ≥ 6 mm). Công thức tính như sau: AU/ml = (1000/V)*D trong đó V (ml) là thể tích dịch nhỏ vào giếng trên đĩa thạch (Gao et al., 2010). 4. Xác định điều kiện nuôi cấy thích hợp Để xác định nguồn dinh dưỡng nitơ thích hợp, chủng vi khuẩn lactic T13 đã được nuôi trong môi trường MRS và thay thế các nguồn nitơ khác nhau: peptone, bột đậu nành, ure, và NH4Cl. Để xác định nguồn cacbon thích hợp, chủng T13 được nuôi ở các nguồn đường khác nhau: glucose, fructose, maltose, saccarose, và dextrin. Để xác định pH thích hợp, chủng T13 được nuôi ở pH acid từ 5,6 - 7,0. Cuối cùng, chủng này được nuôi ở 27 - 410C nhằm xác định nhiệt độ thích hợp. Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 4/2012 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 17 III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Đường cong sinh trưởng và sinh bacteriocin của vi khuẩn lactic T13 trên môi trường MRS sản sinh các acid hữu cơ, có thể là acid acetic và acid lactic. Hơn nữa, ở hoạt độ bacteriocin là 800 và 1600 AU.ml-1, dịch chiết tế bào đã trung hòa pH của chủng T13 cũng ức chế lần lượt tới 47% và 63% sinh trưởng của B1.1 sau 6 giờ nuôi. Thậm chí khi nhuộm tế bào và quan sát dưới kính hiển vi chúng tôi đã không phát hiện thấy tế bào nào của B1.1 còn sống sau 8 giờ nuôi có bổ sung dịch bacteriocin với hoạt độ 1600 AU.ml-1. Kết quả này đã xác nhận cơ chế hoạt động của dịch bacteriocin từ chủng T13 là có hoạt tính kháng khuẩn. Những nghiên cứu trước đây cho thấy khả năng ức chế sinh trưởng của các vi khuẩn lactic đối với các vi khuẩn khác có thể do nhiều nguyên nhân: tiết các acid hữu cơ như lactic acid, acetic acid; sinh ra hydrogen peroxide; hay tiết các chất kháng sinh có bản chất khác nhau bao gồm bacteriocin có bản chất peptide/protein. Trong nghiên cứu này, để tuyển chọn các chủng sinh bacteriocin, trước hết chúng tôi đã trung hòa dịch chiết tế bào bằng NaOH để loại trừ ảnh hưởng của các acid hữu cơ được tiết ra. Sau đó dịch nuôi cấy được xử lý bổ sung bằng enzym catalase để loại bỏ hiệu quả của hydrogen peroxide. Cuối cùng, để xác định bản chất protein của chất ức chế vi khuẩn thì các mẫu được xử lý với trypsin. Một nghiên cứu tương tự được Todorov và Dicks (2009) tiến hành đã cho thấy việc bổ sung dịch bacteriocin ST44AM từ vi khuẩn lactic Pediococcus pentosaceus ST44AM với hoạt độ từ 400-25.600 AU.ml-1 cũng ức chế mạnh theo hiệu ứng nồng độ đối với các chủng vi khuẩn Listeria ivanovii subsp. ivanovii ATCC 19119, L. innocua 2030C và Enterococcus faecium HKLHS khi nuôi trong môi trường MRS. Do đó, bacteriocin ST44AM được cho là có tiềm năng lớn để ứng dụng trong bảo quản thực phẩm chống lại sự nhiễm khuẩn Listeria và hệ vi khuẩn đường ruột. Hình 1. Đường cong sinh trưởng tính theo mật độ quang (OD600) và khả năng sinh bacteriocin tính theo đường kính vòng kháng khuẩn (D-d, mm) của chủng T13 Kết quả từ hình 1 cho thấy đường cong sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13 bao gồm 4 pha điển hình là pha lag, pha log, pha cân bằng và pha suy vong (Lương Đức Phẩm, 2002). Pha sinh trưởng log kéo dài từ 3-12 giờ sau nuôi cấy. Trong giai đoạn này, giá trị mật độ tế bào OD600 tăng cao nhanh chóng và khả năng sinh bacteriocin cao nhất ở cuối pha log với các giá trị mật độ tế bào và hoạt độ sinh bacteriocin lần lượt là OD600 = 2,77 và D - d = 11mm. Nếu tính theo đơn vị hoạt độ AU/ml, hoạt tính sinh bacteriocin cực đại của chủng T13 đạt 8000 AU/ml. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Tomé và cộng sự (2007) đối với các chủng vi khuẩn lactic khác nhau: Lactobacillus curvatus ET06, L. curvatus ET30, L. delbrueckii E32. Như vậy, với mục đích thu nhận các tế bào sinh trưởng tốt và sinh bacteriocin mạnh thì quá trình nuôi cấy nên kết thúc cuối pha log, sau 12 giờ nuôi cấy là tốt nhất. 2. Khả năng kháng khuẩn của chủng vi khuẩn lactic T13 Nhằm tìm hiểu cơ chế kháng khuẩn của dịch bacteriocin, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ảnh hưởng của dịch bacteriocin thô của chủng T13 đến sinh trưởng của vi khuẩn Bacillus B1.1. Dịch chiết tế bào nuôi 12h tuổi của chủng T13 với các hoạt độ bacteriocin khác nhau đã được bổ sung vào pha sinh trưởng log (sau 2 giờ nuôi cấy) của chủng B1.1. Kết quả từ hình 2 cho thấy, nếu không trung hòa pH thì ở nồng độ 400 AU.ml-1, dịch chiết tế bào của chủng T13 ức chế hoàn toàn sinh trưởng của B1.1, trong khi đó nếu dịch này được trung hòa pH về 7,0 thì chỉ ức chế 20% sinh trưởng của B1.1 ở cuối pha log sau 6 giờ nuôi. Điều này cho thấy khả năng kháng khuẩn rất mạnh của chủng T13 là do Hình 2. Ảnh hưởng của dịch bacteriocin của chủng vi khuẩn lactic T13 đến sinh trưởng của Bacillus B1.1 Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 4/2012 18 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG Hình 5. Ảnh hưởng của pH đến sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13 sau 12h nuôi cấy Kết quả hình 5 chỉ ra rằng pH môi trường nuôi cấy cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh trưởng của vi khuẩn lactic, trong đó chủng T13 sinh trưởng tốt trong điều kiện axit. Chủng này sinh trưởng mạnh khi giá trị pH môi trường từ 6,2 - 6,6 và cực đại ở pH 6,4. 3.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13 3. Điều kiện nuôi cấy thích hợp cho chủng T13 3.1. Ảnh hưởng cuả nguồn cacbon đến sinh trưởng của chủng T13 chủng T13 mạnh hơn với OD600 đạt 1,24 sau 12h nuôi cấy, nhưng vẫn thấp hơn so với nguồn nitơ từ pepton. Vì vậy, chúng tôi tiếp tục chọn pepton làm nguồn nitơ khi nuôi cấy chủng vi khuẩn này. 3.3. Ảnh hưởng của pH đến sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13 Hình 3. Ảnh hưởng của đường đến sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13 sau 12h nuôi cấy Kết quả từ hình 3 cho thấy khả năng sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13 rất thấp khi nuôi cấy trên môi trường có chứa đường dextrin. Giá trị OD600 chỉ khoảng 0,35 sau 12h nuôi cấy. Còn với đường fructose, saccarose, lactose thì khả năng sinh trưởng của chủng T13 mạnh hơn rất nhiều (OD600 1,75 - 1,89). Đối với đường glucose thì khả năng sinh trưởng của vi khuẩn lactic là cao nhất với OD600 lên tới 2,02. Vì vậy chúng tôi chọn đường glucose làm nguồn cacbon trong môi trường nuôi cấy ở các thí nghiệm tiếp theo. 3.2. Ảnh hưởng nguồn nitơ đến sinh trưởng của chủng T13 Hình 4. Ảnh hưởng của nguồn nitơ đến sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13 sau 12h nuôi cấy Từ hình 4 cho thấy nguồn nitơ khác nhau sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13. Đối với nguồn nitơ từ ure hoặc NH4Cl thì vi khuẩn lactic sau 12h nuôi cấy mật độ tế bào phát triển rất thấp OD600 chỉ đạt 0,88 - 1,08. Đối với nguồn nito từ bột đậu nành thì sinh trưởng của Hình 6. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng của vi khuẩn lactic T13 sau 12h nuôi cấy Khi chúng tôi tiến hành khảo sát nhiệt độ nuôi cấy từ 27 - 41oC thì thấy rằng mật độ tế bào phát triển cao nhất là ở 310C và giảm mạnh ở nhiệt độ từ 410C trở lên (hình 6). Vì vậy chúng tôi chọn nhiệt độ 310C cho quá trình nuôi cấy tiếp theo. Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 4/2012 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 19 4. Khả năng sinh trưởng và sinh bacteriocin của vi khuẩn lactic trên da cá giò Hình 7. Khả năng sinh trưởng và sinh bacteriocin của tổng vi khuẩn lactic trên da cá giò theo thời gian Kết quả từ hình 7 cho thấy trên da cá giò tồn tại sẵn một lượng vi khuẩn lactic và tăng trong thời gian bảo quản. Tuy nhiên, khi nhúng mẫu 1 và mẫu 2 vào dịch nuôi tế bào vi khuẩn lactic T13 thì tổng vi khuẩn lactic tăng 10 lần so với lượng vi khuẩn lactic ban đầu và tăng nhanh theo thời gian bảo quản. Trong khi đó mẫu đối chứng không nhúng dịch, mật độ tế bào vi khuẩn lactic tổng số cũng tăng nhưng tăng chậm hơn rõ rệt. Kết quả này cho thấy vi khuẩn lactic T13 phát triển được trên da cá giò và phát triển tốt hơn khi không cho vào túi PE. Hơn nữa, chủng vi khuẩn lactic T13 phát triển trên môi trường da cá giò vẫn có khả năng sinh bacteriocin, thể hiện ở đường kính vòng kháng khuẩn tăng dần tương đối đều trong vòng một tuần thí nghiệm. Kết quả này mở ra tiềm năng lớn trong việc ứng dụng vi khuẩn lactic T13 trong bảo quản cá giò. Vì thế, việc đánh giá chất lượng cá giò sau 1 tuần bảo quản bằng dịch nuôi tế bào vi khuẩn T13 cần được tiến hành để biến tiềm năng này thành những ứng dụng thực tiễn trong công nghệ thực phẩm. IV. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng vi khuẩn lactic T13 phát triển tốt nhất trên môi trường có nguồn cacbon là glucose, nguồn nitơ là pepton, ở pH 6,4, nhiệt độ 310C. Khả năng sinh bacteriocin đạt cực đại ở cuối pha sinh trưởng logarit, sau 12 giờ nuôi cấy trong điều kiện trên. Cùng với việc tiết ra các acid hữu cơ thì khả năng sản sinh bacteriocin cũng là một cơ chế kháng khuẩn của chủng vi khuẩn này. Hơn nữa, chủng T13 còn thể hiện khả năng sinh trưởng và sinh bacteriocin tốt trên môi trường da cá giò trong vòng một tuần thí nghiệm. Chúng tôi khuyến nghị cần tiến hành thử nghiệm sử dụng dịch nuôi vi khuẩn lactic T13 để bảo quản cá giò tươi nguyên liệu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Văn Duy, Lưu Thị Thúy (2012), Phân lập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn lactic sinh bacteriocin từ nước dưa lên men truyền thống nhằm bảo quản nguyên liệu thuỷ sản. Tạp chí Công nghệ sinh học (đã nhận đăng). 2. Nguyễn Văn Duy, Phạm Ngọc Minh Quỳnh (2011), Đánh giá chất lượng cá giò nguyên liệu tươi bảo quản bằng dịch bacteriocin từ vi khuẩn lactic. Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội (đã gửi đăng). 3. Nguyễn Thúy Hương, Trần Thị Tưởng An (2008), Thu nhận Bacteriocin bằng phương pháp len men bởi tế bào Lactococcus lactic cố định trên chất mang Cellulose vi khuẩn và ứng ứng dụng trong bảo quản thịt tươi sơ chế tối thiểu, Tạp chí Phát triển khoa học và công nghệ - ĐHQG TP.HCM, 11(9):100 - 108. 4. Lương Đức Phẩm (2002), Vi sinh vật và bảo quản thực phẩm, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Trần Linh Thước (2008), Phương pháp phân tích vi sinh vật trong nước, thực phẩm và mỹ phẩm, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh, 232 tr. 6. Lê Thị Hồng Tuyết, Hoàng Quốc Khánh (2004), Một số đặc tính của bacteriocin sản xuất bởi vi khuẩn Lactobacillus acidophilus.Báo cáo Hội nghị khoa học Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, TP. Hồ Chí Minh, tháng 10/2004. Tiếng Anh 7. De Vuyst L, Leroy F (2007), Bacteriocins from lactic acid bacteria: production, purifi cation, and food applications. J Mol Microbiol Biotechnol 13(4):194-9. 8. Gálvez A, Abriouel H, López RL, Ben Omar N (2007), Bacteriocin-based strategies for food biopreservation. Int J Food Microbiol 120(1-2):51-70. 9. Gao Y, Jia S, Gao Q and Tan Zh (2010), A novel bacteriocin with a broad inhibitory spectrum produced by Lactobacillus sake C2 isolated from traditional Chinese fermented cabbage. Food Control, 1(21): 76 - 81. 10. Todorov SD, Dicks LM (2009), Bacteriocin production by Pediococcus pentosaceus isolated from marula (Scerocarya birrea). Int J Food Microbiol, 132(2-3):117-26. 11. Tomé E, Pereia VL, Lopes CI, Gibbs PA, Teixeira PC (2008), In vitro tets suitability of bacteriocin - producing lactic acid bacteria, as potential biopreservation cultures in vacuum - packaged cold - smoked salmon. Food Control, 19(5): 535 - 543. 12. Zhang J, Liu G, Li P, Qu Y (2010), Pentocin 31-1, a novel meat-borne bacteriocin and its application as biopreservative in chill-stored tray-packaged pork meat. Food Control 21: 198-202.
File đính kèm:
- sinh_truong_va_san_sinh_bacteriocin_cua_vi_khuan_lactic_t13.pdf