Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Tóm tắt. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống kế toán doanh nghiệp phải có hai bộ phận chuyên môn để đáp ứng nhu cầu thông tin của hai nhóm đối tượng khác nhau. Đó chính là kế toán tài chính và kế toán quản trị; và cũng chính nền kinh tế thị trường, cạnh tranh làm nổi bật kế toán quản trị, hình thành nên những nhận thức khác nhau về kế toán quản trị và thúc đẩy kế toán quản trị phát triển nhanh chóng. Vì vậy, việc tổ chức công tác kế toán quản trị đối với các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh

đá xây dựng là vô cùng cần thiết vì cung cấp thông tin cho nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh doanh nhằm đạt mục tiêu tối ưu.

pdf 7 trang yennguyen 5400
Bạn đang xem tài liệu "Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương
65 
 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05 
Journal of Science of Lac Hong University
Vol. 5 (2016), pp. 65-71
Tạp chí Khoa học Lạc Hồng
Số 5(2016), trang 65-71
SỰ CẦN THIẾT TỔ CHỨC VÀ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN 
QUẢN TRỊ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC, CHẾ BIẾN VÀ 
KINH DOANH ĐÁ XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG
Organizing and enhancing the performance of management accounting in
mining, processing and trading stone enterprises in Binh Duong Province
Nguyễn Thị Đức Loan
phungloan82@yahoo.com
Khoa Tài chính- Kế toán
Trường Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai, Việt Nam
Đến tòa soạn: 23/5/2016; Chấp nhận đăng: 16/7/2016
Tóm tắt. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống kế toán doanh nghiệp phải có hai bộ phận chuyên môn để đáp ứng nhu cầu thông 
tin của hai nhóm đối tượng khác nhau. Đó chính là kế toán tài chính và kế toán quản trị; và cũng chính nền kinh tế thị trường, cạnh 
tranh làm nổi bật kế toán quản trị, hình thành nên những nhận thức khác nhau về kế toán quản trị và thúc đẩy kế toán quản trị 
phát triển nhanh chóng. Vì vậy, việc tổ chức công tác kế toán quản trị đối với các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh 
đá xây dựng là vô cùng cần thiết vì cung cấp thông tin cho nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh doanh nhằm đạt 
mục tiêu tối ưu. 
Từ khóa: Kế toán quản trị; Khai thác đá; Đá xây dựng; Tỉnh Bình Dương 
Abstract. In the economy market, accounting system of an organization usually has financial accounting and management 
accounting to provide information to different target groups. Besides, the competition highlights the important role and prominent 
awareness of management accounting, resulting in its recent widespread recognition. Therefore, it is of great significance to 
organize and enhance its performance in mining, processing and trading stone enterprises in Binh Duong province to provide 
sufficient information for managers to make their best decision. 
Keywords: Management accounting; Quarrying; Construction stone; Binh Duong Province 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 18 công ty khai 
thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng với quy mô lớn và 
vừa. Đây là ngành nghề khai thác và chế biến nguồn tài nguyên 
nên có số ít doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được thành lập bị
hạn chế là do nguồn tài nguyên có hạn và ảnh hưởng rất lớn 
đến vấn đề môi trường xung quanh khu vực khai thác và chế
biến, tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp chưa cao. Nên việc 
vận dụng các phương pháp quản lý mới để nâng cao tính cạnh 
tranh trên thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Các doanh 
nghiệp hoạt động rất thụ động và căn cứ vào sản lượng được 
khai thác trong giấy phép kinh doanh ngành khoáng sản và tiến 
hành chia đều cho thời gian khai thác, xác định mỗi kỳ phải 
khai thác bao nhiêu là hoàn thành kế hoạch trong kỳ và không 
phân tích được chi phí phát sinh trong kỳ tăng hay giảm là do 
những nhân tố nào gây ra mà cứ chỉ dừng ở việc so sánh số liệu 
thực tế và kế hoạch đề ra đầu năm để kết luận tình hình hoạt 
động sản xuất kinh doanh trong kỳ tốt hay xấu [1]. Từ đó, các 
nhà quản lý yêu cầu công tác kế toán trong doanh nghiệp phải 
bao gồm công tác kế toán tài chính và kế toán quản trị. Kế toán 
trong doanh nghiệp bao gồm việc ghi chép, lập báo cáo tài 
chính, báo cáo kế toán quản trị và phải phân tích được các chỉ
tiêu hoạt động và đánh giá trách nhiệm của từng cá nhân, bộ
phận trong đơn vị nhằm giúp cho hoạt động sản xuất kinh 
doanh ngày càng đạt hiệu quả hơn.
2. NỘI DUNG
Phương pháp nghiên cứu: tác giả sử dụng các phương pháp 
mô tả, thống kê, so sánh và phân tích để làm rõ tầm quan trọng 
của kế toán quản trị và sự ảnh hưởng của các nhân tố trong quá 
trình thiết lập mô hình cho phù hợp. Phương pháp mô tả, so 
sánh, thống kê, phân tích được vận dụng khi so sánh số liệu của 
các kỳ kế toán, quy trình công tác kế toán trong các doanh 
nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng ở tỉnh 
Bình Dương nhằm phân tích điểm mạnh, điểm yếu ở từng 
doanh nghiệp trong công tác quản lý và kết quả hoạt động sản 
xuất kinh doanh. Đối tượng nghiên cứu: công tác kế toán tài 
chính và công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai 
thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng ở tỉnh Bình Dương. 
Từ đó, tác giả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức 
mô hình kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế
biến, kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu: công tác kế toán tài chính và kế toán quản 
trị tại 18 công ty khai thác, chế biến, kinh doanh đá xây dựng 
trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Tác giả tiến hành khảo sát công tác kế toán tại 18 doanh 
nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa 
66 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05 
Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp 
bàn tỉnh Bình Dương, phần lớn các doanh nghiệp thuộc quy 
mô lớn và quy mô vừa nên việc tổ chức công tác kế toán tài 
chính tương đối đầy đủ, đúng theo quy định của chuẩn mực và 
chế độ kế toán, phục vụ tốt yêu cầu kế toán tài chính. Tuy 
nhiên, công tác kế toán quản trị, kế toán trách nhiệm chưa được 
quan tâm đúng mức nên các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn 
trong quá trình kiểm soát chi phí, định giá bán sản phẩm hay 
đánh giá trách nhiệm của từng bộ phận, từng cá nhân trong tổ
chức. Qua cuộc khảo sát trên, tác giả nhận thấy là tình hình áp 
dụng công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp được
chia làm ba nhóm: nhóm doanh nghiệp đã xây dựng kế toán 
quản trị, nhóm này là những doanh nghiệp có quy mô lớn gồm 
4 doanh nghiệp. Nhóm doanh nghiệp chuẩn bị xây dựng kế
toán quản trị, nhóm này là những doanh nghiệp có quy mô lớn 
gồm 8 doanh nghiệp. Nhóm doanh nghiệp hoàn toàn không có 
công tác kế toán quản trị, nhóm này thuộc vào các doanh 
nghiệp có quy mô sản xuất vừa gồm 6 doanh nghiệp. Xét về
quy trình sản xuất kinh doanh thì 18 doanh nghiệp này có quy 
trình khai thác và sản xuất kinh doanh giống nhau:
Sơ đồ 1. Quy trình khai thác, chế biến và kinh doanh 
đá xây dựng [2]
Thực trạng công tác kế toán quản trị trong các doanh 
nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên 
địa bàn tỉnh Bình Dương:
Công tác kế toán quản trị thực tế tại 18 doanh nghiệp khai 
thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng là hàng kỳ kế toán 
lập bảng so sánh số liệu các chỉ tiêu sản lượng, doanh thu, chi 
phí, lợi nhuận, ... của số liệu thực tế phát sinh trong kỳ này so 
với kỳ trước đó và so với kế hoạch đầu năm do bộ phận kế
hoạch đề ra. Kế toán so sánh sự tăng giảm giữa các số liệu ở
các kỳ khác nhau để đánh giá khả năng hoàn thành kế hoạch, 
đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh 
nghiệp tốt hay xấu, đồng thời các dữ liệu trên cũng là cơ sở để
đánh giá trách nhiệm ở từng bộ phận, từng cá nhân trong doanh 
nghiệp.
Những kết quả đạt được từ việc đánh giá khả năng hoàn 
thành kế hoạch:
Qúa trình tiến hành khảo sát công tác kế toán tại các doanh 
nghiệp khai thác đá trên địa bàn tỉnh Bình Dương cho thấy 
công tác kế toán quản trị một số doanh nghiệp đã vận dụng và 
có những kết quả đáng khích lệ. Sự kết hợp giữa kế toán tài 
chính và kế toán quản trị thông qua những phần hành như kế
toán chi phí. Dựa vào kết quả của kế toán tài chính, đặc biệt là 
các sổ chi tiết, sổ cái các tài khoản liên quan hạch toán các 
khoản mục chi phí như: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi 
phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi phí bán 
hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. So sánh chi phí phát sinh 
trong kỳ so với kỳ trước hay so sánh kế hoạch đầu năm đề ra, 
phân tích các chi phí này tăng hay giảm và tìm hiểu các nguyên 
nhân biến động đến chi phí, ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, 
lợi nhuận của doanh nghiệp như thế nào. Hàng kỳ (tháng, quý, 
năm) công tác kế toán của doanh nghiệp bên cạnh việc phải lập 
những báo cáo của kế toán tài chính, kế toán còn phải lập thêm 
những báo cáo của kế toán quản trị như: báo cáo sử dụng 
nguyên vật liệu, báo cáo chi phí nhân công trực tiếp, báo cáo 
tiêu thụ sản phẩm, danh sách khách hàng mới và khách hàng 
tiềm năng, kế hoạch sản xuất và tiêu thụ, nhu cầu nguyên vật 
liệu, nhu cầu người lao động cần cho hoạt động sản xuất kinh 
doanh trong những kỳ tiếp theo... Mặc dù các báo cáo chưa 
được đầy đủ theo yêu cầu của công tác kế toán quản trị, nhưng 
việc làm này cũng giúp ích cho nhà quản lý có thêm thông tin 
về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 
Đó chính là cơ sở để đánh giá hoàn thành hay không hoàn thành 
kế hoạch.
Hiện tại công tác kế toán quản trị của doanh nghiệp đã có 
những ưu điểm như: kế toán quản trị đã kết hợp được việc lập 
kế hoạch của bộ phận kế hoạch và căn cứ vào số liệu thực tế
phát sinh của kế toán tài chính làm cơ sở để lập các báo cáo kết 
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo chi phí, báo cáo 
doanh thu. Phân biệt được chi phí trong sản xuất và ngoài sản 
xuất theo cách phân loại chi phí theo chức năng hoạt động nên 
chỉ so sánh được giá thành sản xuất thực tế và kế hoạch chứ
chưa vận dụng được lý thuyết phân loại chi phí theo cách ứng 
xử nên từ đó, kế toán quản trị chưa phân tích được mối quan 
hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận. Kế toán cũng đã lập 
dự toán tiêu thụ, sản xuất, ... nhưng chưa đầy đủ trong hệ thống 
báo cáo dự toán của công tác kế toán quản trị. Kế toán quản trị
cũng góp phần trong việc định hướng giá bán sản phẩm ra thị
trường nhưng công việc định hướng giá bán này dựa vào giá 
bán của đối thủ cạnh tranh và kết hợp với chất lượng sản phẩm 
của từng doanh nghiệp. Cụ thể là có những loại đá của doanh 
nghiệp có chất lượng tốt hơn thì giá bán có thể đưa ra cao hơn 
giá của đối thủ cạnh tranh, ngược lại có những loại đá của 
doanh nghiệp có chất lượng không bằng thì giá bán có thể thấp 
hơn so với đối thủ cạnh tranh (chất lượng của đá được xét về
mặt màu sắc và độ cứng của đá). Từ đó, công tác kế toán nội 
bộ trong doanh nghiệp được nhà quản lý quan tâm nhiều hơn 
vì đã có những đóng góp trong công tác quản lý của nhà quản 
trị. Bên cạnh những ưu điểm đạt được thì công tác kế toán quản 
trị trong các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế như: khả năng 
đánh giá quá khứ và thiếu thông tin để ra quyết định cho tương 
lai; chưa cụ thể hóa trong việc lập định mức tiêu hao cho từng 
loại nguyên vật liệu và doanh nghiệp; công tác kế toán tài chính 
và kế toán quản trị còn rời rạc vì chưa có sự kết hợp dữ liệu lẫn 
Đào 
Vận chuyển 
Xay
Đục 
MỎ ĐÁ
Đào đất đầu 
Khoan, nạp thuốc, bắn đá 
Tạo mống 
Xúc_ Đá thành phẩm 
Vận chuyển lên xe Cảng tiêu thụ
67 
Nguyễn Thị Đức Loan
 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05 
nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị; chưa vận dụng 
các lý thuyết về xây dựng trung tâm trách nhiệm.
Việc lập dự toán và báo cáo kế toán quản trị trong các doanh 
nghiệp này chỉ dừng lại ở các dự toán tiêu thụ và các khoản 
phải thu, dự toán sản xuất, dự toán mua hàng và các khoản phải 
chi, dự toán chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp, lập giá 
thành kế hoạch cho từng loại đá xây dựng. Định kỳ 6 tháng và 
12 tháng, kế toán phải tổng hợp các bảng báo cáo tình hình hoạt 
động khai thác, chế biến và kinh doanh cho nhà quản trị cấp 
trên. Các bảng báo cáo này nội dung gồm kết quả tình hình 
thực tế phát sinh trong 6 tháng hoặc 12 tháng so sánh kết quả
đạt được cùng kỳ của năm trước đó, so sánh với số liệu của kế
hoạch hoặc các dự toán đã được lập vào đầu năm. Từ những 
kết quả trên, nhà quản trị sẽ thấy được những kết quả hoạt động 
sản xuất kinh doanh doanh nghiệp đã xảy ra trong quá khứ, còn 
việc cung cấp thông tin kịp thời cho nhà quản trị ra quyết định 
là chưa làm được vì trên thực tế có những hợp đồng lớn cho 
các công trình xây dựng đường xá, cầu,... người quản lý đã 
phân vân trong các vấn đề khi đưa ra thỏa thuận về giá bán, sản 
lượng cung cấp cho khách hàng. Người quản lý chưa có đầy đủ
các thông tin nên chưa có cơ sở cho việc ra quyết định khi ký 
kết các hợp đồng. Vì nội dung của kế toán quản trị là hướng về
tương lai mà tất cả các báo cáo của kế toán chỉ dừng lại ở việc 
trình bày những nội dung đã xảy ra ở quá khứ. Do đó, khi nhà 
quản lý muốn đưa ra quyết định của một phương án nào trong 
tương lai như chính sách khuyến mãi, chính sách giá,... thì 
không có dữ liệu, thông tin làm cơ sở cho việc ra quyết định về
giá hay lựa chọn phương án tối ưu nhằm đạt được lợi nhuận 
cao nhất. Xét về định mức tiêu hao nguyên vật liệu, doanh 
nghiệp có tính giá thành kế hoạch của từng loại sản phẩm 
nhưng việc tính này chưa được cụ thể và chưa có tính đến các 
khoản chi phí tiềm ẩn như chi phí đền bù do ô nhiễm môi 
trường, chi phí cải tạo hoàn nguyên môi trường, chi phí bị phạt 
do tình trạng sản xuất và chế biến gây ô nhiễm, ...Trong quá 
trình khai thác đá xây dựng cần phải có định mức cụ thể về chi 
phí khoan, đục, xay, thuốc nổ, xúc, định mức tiêu hao của từng 
loại nguyên vật liệu, định mức giờ công, giờ máy, việc phân bổ
chi phí sản xuất chung như điện, nước, điện thoại, lương cho 
từng bộ phận, từng loại đá cũng phải theo tiêu chí phù hợp. Bên 
cạnh đó, công tác kế toán tài chính và kế toán quản trị còn rời 
rạc vì chưa có sự kết nối dữ liệu, thông tin lẫn nhau. Người làm 
công tác kế toán quản trị thì không biết đầy đủ những thông tin 
của kế toán tài chính và người làm công tác kế toán tài chính 
chỉ cung cấp những thông tin mà kế toán quản trị yêu cầu và 
cũng không tìm hiểu xem là công tác kế toán quản trị đã làm 
được những gì để góp phần trong công tác quản lý và giúp ích 
cho nhà quản trị những thông tin hữu ích như thế nào. Cụ thể
là, cùng một nội dung kinh tế như doanh thu bán hàng kế hoạch 
thì bộ phận kế hoạch quản lý, doanh thu bán hàng trong kỳ thì 
bộ phận kế toán tài chính quản lý. Như vậy, để có được thông 
tin về doanh thu kế hoạch và trong kỳ phát sinh thì kế toán quản 
trị phải yêu cầu cả hai bộ phận cung cấp thông tin để công tác 
kế toán quản trị mới có đầy đủ dữ liệu để báo cáo. Việc làm 
này gây mất thời gian và kém hiệu quả trong công tác quản lý, 
dẫn đến hiệu quả đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh chưa 
cao. Hệ thống thông tin của kế toán chi phí của doanh nghiệp
hầu hết là thông tin quá khứ. Kế toán chi phí chưa phục vụ cho 
việc phân tích các mặt hoạt động của doanh nghiệp vào việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, việc xây dựng phương án và lựa 
chọn các quyết định sản xuất tối ưu. Doanh nghiệp phân loại 
chi phí theo chức năng hoạt động. Hệ thống tài khoản kế toán 
đã có sự chi tiết, các doanh nghiệp đã có mở thêm tài khoản chi 
tiết nhưng chưa phù hợp với việc phân tích chi phí theo biến 
phí, định phí để từ đó có thể phân tích chi phí chênh lệch giữa 
thực tế và định mức. Nên chưa thấy rõ mối quan hệ trong công 
tác phân tích mối quan hệ giữa chi phí - khối lượng - lợi nhuận, 
phân tích kết cấu mặt hàng. Chính vì thế, công tác kế toán quản 
trị trong doanh nghiệp này chỉ phân tích được tình hình hoạt 
động của doanh nghiệp trên phương diện tổng thể của toàn 
công ty. Tuy nhiên, doanh nghiệp sản xuất đá xây dựng bao 
gồm nhiều loại sản phẩm như đá 1*2, đá 4*6, đá 5*7, đá mi, 
mi bụi, . Cụ thể loại đá xây dựn ... 
thuyết tâm lý thường xuyên. [3-9] Các lý thuyết này chỉ ra rằng 
hệ thống kế toán quản trị thật sự có hiệu quả khi nó được xây 
dựng và phát triển phù hợp với từng doanh nghiệp cụ thể. Điều 
này có nghĩa là không có một mô hình kế toán quản trị khuôn 
mẫu áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp. 
Việc vận dụng kế toán quản trị còn tùy thuộc đặc điểm của 
từng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, cơ cấu tổ chức bộ máy 
quản lý, quy mô doanh nghiệp, trình độ công nghệ, môi trường 
kinh doanh. Bên cạnh đó, việc xây dựng và hoàn thiện công tác 
kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến và 
kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương cần quan 
tâm đến những vấn đề sau đây: nhận thức về công tác kế toán 
quản trị, thiết lập quy trình, thủ tục để thu thập, xử lý thông tin 
lập báo cáo kế toán quản trị, phân loại chi phí, phân tích mối 
quan hệ giữa chi phí - khối lượng - lợi nhuận, lập dự toán ngân 
sách, phân tích biến động chi phí bộ phận và báo cáo bộ phận, 
đánh giá trách nhiệm quản lý, định giá bán sản phẩm  cung 
cấp thông tin cho nhà quản trị. Những giải pháp cụ thể bao 
gồm:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức và trình độ quản lý cho các 
nhà quản trị. [3-4,5-8] Các nhà quản trị phải biết đưa ra những 
yêu cầu về thông tin cần được bộ phận kế toán quản trị cung 
cấp, và quan trọng hơn là nhà quản trị phải có kiến thức phân 
tích và sử dụng thông tin của kế toán quản trị.
Sơ đồ 2. Bộ máy kế toán kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán 
quản trị [6]
Thứ hai, việc xây dựng mô hình kế toán quản trị phải chia 
ra theo quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp. [5-7] Do quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của 
các doanh nghiệp này thuộc loại lớn và vừa nên ta thiết kế kết 
hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị, nhằm tiết kiệm 
chi phí. Mô hình đề xuất cho các doanh nghiệp khai thác, chế
biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương 
thể hiện như Sơ đồ 2.
Công tác kế toán quản trị được tổ chức giống như một phân 
hệ trong cùng hệ thống kế toán doanh nghiệp, sẽ tạo điều kiện 
thuận lợi cho việc thu thập và kiểm tra thông tin của kế toán 
được hoàn thiện và hiệu quả hơn. Bộ máy kế toán doanh nghiệp 
gồm hai bộ phận là: Kế toán tài chính và kế toán quản trị. 
Thứ ba, thiết lập quy trình, thủ tục để thu thập, xử lý thông 
tin lập báo cáo kế toán quản trị: [6, 8]
Sơ đồ 3. Quy trình hệ thống thông tin doanh nghiệp [8]
Xét về công tác thu thập thông tin trong kế toán.
Hiện tại, các doanh nghiệp trên phân loại chi phí theo chức 
năng hoạt động chứ không phân loại chi phí theo cách ứng xử
bao gồm chi phí khả biến và bất biến, nên việc phân tích mối 
quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi nhuận gặp rất nhiều khó 
khăn. Bên cạnh đó, việc ghi nhận doanh thu tại các bộ phận 
bán hàng như cảng, tại kho,... cũng phải được theo dõi cụ thể
để làm cơ sở đánh giá trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận. 
Tác giả cùng thảo luận với các kế toán viên và kế toán trưởng 
ở các doanh nghiệp và căn cứ vào ngành nghề khai thác, chế
biến và kinh doanh đá xây dựng để thống nhất xây dựng cách 
đặt tên cho các tài khoản nhằm giúp kế toán thuận tiện trong 
việc truy xuất dữ liệu. Tác giả đề xuất hệ thống tài khoản kế
toán thiết kế chi tiết hơn, mở thêm tài khoản cấp 2, 3, 4,... cùng 
một chứng từ, thông tin đầu vào sẽ đồng thời cung cấp thông 
tin cho kế toán tài chính và cả kế toán quản trị. Cách đặt tên tài 
khoản được thiết kế như trong Bảng 1.
Xét về công tác xử lý và lập báo cáo kế toán quản trị
Đối với nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến vốn bằng 
tiền: kế toán tài chính sẽ căn cứ vào phiếu thu, chi, các chứng 
từ ngân hàng để ghi nhận vào tài khoản vốn bằng tiền và các 
tài khoản có liên quan. Cuối kỳ, kết sổ các tài khoản và lập báo 
cáo lưu chuyển tiền tệ. Song song với quá trình này, bộ phận 
kế toán quản trị cũng sẽ ghi nhận các nghiệp vụ thu, chi tiền 
vào các tài khoản đối ứng của hệ thống tài khoản kế toán quản 
KẾ TOÁN TÀI CHÍNH
BỘ PHẬN KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
CHI PHÍ 
VÀ GIÁ 
THÀNH
CÁC KẾ TOÁN 
CHI TIẾT
DỰ
TOÁN
PHÂN 
TÍCH VÀ 
ĐÁNH GIÁ
Tương laiQuá khứ
Hiện tại
HỆ THỐNG THÔNG TIN 
DOANH NGHIỆP
KẾ TOÁN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
BỘ MÁY KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
Các nghiệp vụ kinh 
tế
THÔNG 
TIN ĐẦU 
RA
Thu thập, xử lý Thu thập, xử lý
THÔNG TIN 
ĐẦU RA
69 
Nguyễn Thị Đức Loan
 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05 
trị theo từng bộ phận, từng trung tâm trách nhiệm để đối chiếu, 
kiểm soát tình hình thực hiện dự toán tiền của từng trung tâm 
trách nhiệm và làm cơ sở cho dự toán kỳ sau.
Đồng thời, các nghiệp vụ tập hợp chi phí và tính giá thành 
sản phẩm, xác định kết quả kinh doanh: kế toán tài chính sẽ
căn cứ vào chứng từ gốc của doanh thu và chi phí để ghi nhận 
vào các tài khoản tương ứng. Cuối kỳ, đối với công tác kế toán 
tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm thì kế toán kết 
chuyển các tài khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí 
nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung để tính giá thành 
sản phẩm. Đối với công tác kế toán xác định kết quả kinh 
doanh, kết chuyển các khoản chi phí giá vốn hàng bán, chi phí 
bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và doanh thu sang tài 
khoản xác định kết quả kinh doanh. Song song với quá trình 
này, kế toán quản trị sẽ khai thác số liệu sâu hơn bằng cách ghi 
chép từng yếu tố chi phí, doanh thu ứng với trung tâm chi phí, 
trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận để phân tích tình hình 
thực hiện dự toán của từng trung tâm trách nhiệm, đồng thời 
lập báo cáo kết quả kinh doanh theo số dư bảo đảm phí cho 
từng bộ phận, từng trung tâm trách nhiệm cũng làm cơ sở cho 
việc ra quyết định kinh doanh.
Bảng 1. Danh mục tài khoản chi tiết
STT
KÝ 
HIỆU
CẤP 2 CẤP 3
GHI 
CHÚ
CẤP 1 X X
1
621 
_CPNVL
TT
LOẠI NVL
PHÂN LOẠI CHI 
PHÍ
1: Thuốc nổ K: Khả biến
2: Mũi khoan B: Bất biến
3: Dầu X X
2
622_
CPNCTT
LƯƠNG VÀ TRÍCH 
LƯƠNG
K: Khả biến
1: Đào B: Bất biến
2: Xúc H: Hỗn hợp
3: Vận chuyển
4: Xay
5: Khoan
6: Bắn mìn
3
627-
CPSXC
X X
1: Chi phí nhân viên phân 
xưởng
PHÂN LOẠI CHI 
PHÍ
2: Chi phí nguyên, vật liệu K: Khả biến
3: Chi phí dụng cụ sản 
xuất
B: Bất biến
4: Chi phí khấu hao TSCĐ H: Hỗn hợp
5: Thuế tài nguyên
6: Phí môi trường
7: Chi phí dịch vụ mua 
ngoài
8: Chi phí bằng tiền khác
4
641- Chi 
phí bán 
hàng
X X
1: Chi phí nhân viên
PHÂN LOẠI CHI 
PHÍ
2: Chi phí nguyên vật liệu, 
bao bì
K: Khả biến
3: Chi phí dụng cụ, đồ 
dùng
B: Bất biến
4: Chi phí khấu hao TSCĐ H: Hỗn hợp
5: Chi phí dịch vụ mua 
ngoài
6: Chi phí bằng tiền khác
5
642_ Chi 
phí quản 
lý 
doanh 
nghiệp
X
PHÂN LOẠI CHI 
PHÍ
1: Chi phí nhân viên quản 
lý
K: Khả biến
2: Chi phí vật liệu quản lý B: Bất biến
3: Chi phí đồ dùng văn 
phòng
H: Hỗn hợp
4: Chi phí khấu hao TSCĐ
5: Thuế, phí và lệ phí
6: Chi phí dự phòng
7: Chi phí dịch vụ mua 
ngoài
8: Chi phí bằng tiền khác
6
511_ 
Doanh 
thu bán 
hàng và 
cung cấp
dịch vụ
X X
1: Doanh thu bán hàng hóa
Mở chi tiết tại từng 
trạm cân,
tại từng cảng.
2: Doanh thu bán các 
thành phẩm
3: Doanh thu cung cấp 
dịch vụ
4: Doanh thu trợ cấp, trợ 
giá
7: Doanh thu kinh doanh 
bất động sản đầu tư
8: Doanh thu khác
Ví dụ 622.2.K: Lương và các khoản trích theo lương nhân 
viên trực tiếp sản xuất ở bộ phận xúc đá, chi phí khả biến
Thứ tư, phân loại chi phí theo cách ứng xử trong công tác 
kế toán quản trị, chia các khoản mục chi phí thành chi phí khả
biến và chi phí bất biến, đối với chi phí hỗn hợp thì lựa chọn 
các phương pháp phân tích thành chi phí khả biến và chi phí 
bất biến. [3-9] Tác giả tiến hành phân loại một số khoản mục 
chi phí như Bảng 2.
Đối với ngành khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng 
cần phải hạch toán thêm nhiều chi phí tiềm ẩn còn thiếu như 
bồi thường thiệt hại khi bắn nổ mìn làm ảnh hưởng nhà cửa 
người dân xung quanh khu vực khai thác, ô nhiễm nguồn nước, 
bụi, chi phí xử lý các chất thải, các khoản bị phạt vi phạm hành 
chính do ô nhiễm môi trường, các khoản phụ cấp độc hại cho 
người lao động, v.v.
70 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05 
Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp 
Bảng 2. Bảng phân loại chi phí doanh nghiệp khai
thác, chế biến kinh doanh đá
STT YẾU TỐ
BIẾN 
ĐỔI
CỐ 
ĐỊNH
HỖN 
HỢP
I. CHI PHÍ SẢN XUẤT
A
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (chi phí 
mua nguyên vật liệu, nhiên liệu)
x
B Chi phí nhân công trực tiếp x
1
Lương nhân viên đào, xúc, xay, vận 
chuyển đá
x
2
Các khoản trích theo lương nhân viên đào, 
xúc, xay, vận chuyển đá
x
3 Chi phí phụ cấp độc hại x
C Chi phí sản xuất chung
1 Chi phí lương công nhân gián tiếp x
2
Chi phí trích theo lương công nhân gián 
tiếp
x
3
Chi phí công cụ, dụng cụ sản xuất (bảo hộ 
lao động, bàn ghế, máy tính, )
x
4
Chi phí dầu, nước, điện, hoạt động sản 
xuất trực tiếp
x
5
Chi phí điện, nước, điện thoại phục vụ 
quản lý phân xưởng
x
6 Chi phí sửa chữa kho, máy móc thiết bị x
7 Chi phí bảo dưỡng máy móc x
8 Khấu hao tài sản cố định phục vụ sản xuất x
9 Thuế tài nguyên x
10 Phí môi trường x
II. CHI PHÍ BÁN HÀNG VÀ QUẢN 
LÝ DOANH NGHIỆP
1
Lương và các khoản trích theo lương bộ 
phận bán hàng
x
2
Lương và các khoản trích theo lương tính 
theo tháng
x
3
Chi phí vật liệu, dụng cụ, bàn ghế, máy 
tính
x
4
Khấu hao máy móc, thiết bị, văn phòng, 
ôtô
x
5
Chi phí điện, nước, điện thoại, internet 
trong văn phòng
x
6 Chi phí điện thoại x
7 Chi phí tiếp khách, hội họp x
8 Phí chuyển tiền x
9 Các khoản chi phí khác (chi phí đi lại, ) x
10 Chi phí quảng cáo x
11 Chi phí vận chuyển hàng bán x
12 Chi phí tiếp thị x
Thứ năm, hoàn thiện về việc xây dựng hệ thống định mức 
và hệ thống dự toán ngân sách. [3-9] Hệ thống xây dựng định 
mức bao gồm định mức tiêu hao nguyên vật liệu như mũi 
khoan, đục, thuốc nổ, định mức giờ công của người lao động 
trực tiếp trong quá trình khoan, đục, xay, xúc, vận chuyển,  
Khi xây dựng hệ thống định mức cần căn cứ vào những quy 
định tiêu chuẩn về quy trình, quy tắc quy phạm kỹ thuật thuộc 
lĩnh vực khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng. Đồng 
thời đảm bảo an toàn trong sản xuất kinh doanh và tránh ô 
nhiễm môi trường. Đối với công tác dự toán phải lập đầy đủ, 
luôn sửa đổi theo biến động thị trường, đáp ứng đầy đủ thông 
tin trong quá trình phân tích báo cáo kế toán quản trị. 
Thứ sáu, cần phải vận dụng việc phân tích mối quan hệ giữa 
chi phí - khối lượng - lợi nhuận. [2-9] Thực hiện phân tích ảnh 
hưởng của các nhân tố như giá bán, khối lượng, chi phí khả
biến, bất biến, kết cấu mặt hàng tác động đến lợi nhuận như thế
nào.
Thứ bảy, xây dựng bộ máy quản lý của từng bộ phận và gắn 
các trung tâm trách nhiệm vào từng bộ phận để đánh giá trách 
nhiệm quản lý của từng bộ phận, từng cá nhân. [2] Đồng thời, 
cần xây dựng các chỉ tiêu để đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt 
động phù hợp với doanh nghiệp.
Thứ tám, nhân viên kế toán quản trị phải có trình độ cao về
kế toán, đặc biệt là kế toán phải có kiến thức và kinh nghiệm 
của kế toán quản trị viên cao cấp để thực hiện và cung cấp 
thông tin thích hợp và đáng tin cậy cho nhà quản trị. [3, 6-9]
Cần có những cấp độ bảo mật thông tin kế toán cần thiết để
phục vụ cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Nhân viên kế
toán quản trị phải lập báo cáo một cách trung thực và khách 
quan, đầy đủ nội dung mà nhà quản trị yêu cầu. Những thông 
tin này phản ánh đúng bản chất của sự việc, làm cơ sở cho việc 
ra quyết định đúng đắn trong tương lai gần.
3. KẾT LUẬN
Việc tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong
các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây 
dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương là điều cần thiết nhằm thu 
thập, xử lý và cung cấp thông tin nội bộ kịp thời cho nhà quản 
trị ra quyết định, giúp nhà quản trị tiếp cận với phương pháp 
quản lý mới, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 
trên thị trường.
Bài viết này tác giả nghiên cứu cho các doanh nghiệp khai 
thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng với quy mô doanh 
nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp 
có quy mô nhỏ muốn vận dụng công tác kế toán quản trị thì 
phải thu hẹp bộ máy kế toán. Tác giả nghiên cứu mô hình kế
toán quản trị kết hợp áp dụng cho các doanh nghiệp, định 
hướng công tác kế toán tài chính trong việc thiết kế tài khoản 
chi tiết giúp cho việc truy xuất và phân loại chi phí theo cách 
ứng xử trong kế toán quản trị dễ dàng hơn và có thể vận dụng 
lý thuyết phân tích mối quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi 
nhuận vào trong đơn vị. Từ đây, kế toán quản trị phân tích 
những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận làm cơ sở cho nhà 
quản trị thấy được những mặt mạnh và hạn chế của đơn vị. Tác 
giả đã nhận xét công tác kế toán quản trị hiện tại và đưa ra 
những giải pháp để hoàn thiện bộ máy kế toán nói chung và kế
toán quản trị nói riêng của doanh nghiệp cũng như hoàn thiện 
trong việc lập báo cáo dự toán, báo cáo trách nhiệm, phân tích 
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Mô hình này có thể
áp dụng cho các doanh nghiệp khai thác khoáng sản khác như 
than, titan, .v.v. trên cả nước.
71 
Nguyễn Thị Đức Loan
 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05 
4. CẢM ƠN
Tôi xin chân thành quý công ty khai thác, chế biến kinh 
doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương cùng với các 
anh chị Phòng kế toán và các anh chị phòng ban khác đã nhiệt 
tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài báo này.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ngô Ngọc Quang, “Quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh 
Bình Dương đến năm 2020”, Tầm nhìn đến năm 2025, 2011, 
ch.2, tr. 21-27.
[2] Nguyễn Thị Đức Loan, “Hoàn thiện công tác kế toán trách nhiệm 
tại công ty cổ phần đá Núi Nhỏ”, Luận văn thạc sỹ, Đại học kinh 
tế thành phố Hồ Chí Minh, 2011, ch.2, tr. 40-45.
[3] Huỳnh Lợi, “Kế toán quản trị”, Nhà xuất bản giao thông vận tải
2010, ch. 2, tr. 45 – 47.
[4] Huỳnh Lợi, “Xây dựng kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản 
xuất Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, ĐHKT, TP.HCM, 
2008, ch.2, tr. 45-50
[5] Nguyễn Hoãn, “Xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí cho 
các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo Việt Nam”, Luận án tiến sĩ 
kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân, 2011, ch. 2, tr. 100- 105.
[6] Hoàng Văn Tưởng, “Tổ chức kế toán quản trị với việc tăng 
cường quản lý hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp 
xây lắp Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc 
dân, 2011, ch. 2, tr. 51- 55.
[7] Trần Thế Nữ, “Xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí trong 
các doanh nghiệp thương mại quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam”, 
Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, 2011, ch. 2-
3, tr. 100- 110, 122 – 132
[8] Hồ Mỹ Hạnh, “Tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi 
phí trong các doanh nghiệp may Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Đại 
học Kinh tế quốc dân, 2013, ch. 2, tr. 120- 125.
[9] Nguyễn Thị Ngọc Lan, “Tổ chức kế toán quản trị chi vận tải hàng 
hóa trong các công ty vận tải đường bộ Việt Nam”, Luận án tiến 
sĩ. Đại học Kinh tế quốc dân, 2012, ch.2, tr. 30- 34.
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Thạc sĩ Nguyễn Thị Đức Loan
Sinh năm 1982. Hiện là Giảng viên Khoa Tài chính– Kế toán, Trường Đại 
học Lạc Hồng.

File đính kèm:

  • pdfsu_can_thiet_to_chuc_va_hoan_thien_cong_tac_ke_toan_quan_tri.pdf