Sự khác biệt trong đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình ở Việt Nam

BTình hình cư trú 2015 để đánh giá sự khác biệt trong đầu tư giáo dục của hộ gia đình tại 5 tỉnh, thành ài viết ứng dụng phương pháp so sánh bằng điểm xu hướng PSM trên bộ số liệu của cuộc khảo sát

phố của Việt Nam gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương và Đắk Nông. Kết quả của

bài nghiên cứu chỉ ra có sự khác biệt lớn trong tỷ lệ đầu tư giáo dục của hộ nghèo so với hộ không nghèo

rằng hộ nghèo có tỷ lệ đầu tư cao hơn hộ không nghèo. Bên cạnh đó, mức độ chi cho giáo dục của các hộ

gia đình sinh sống tại thành thị có tỷ lệ đầu tư cao hơn những hộ sinh sống tại khu vực nông thôn. Bài nghiên cứu cũng cho thấy rằng, có sự khác biệt trong tỷ lệ đầu tư cho giáo dục của các nhóm thu nhập khi phân theo nhóm phân vịchỉ ra những hộ có thu nhập thấp hơn có tỷ lệ chi giáo dục cho các thành viên trong gia đình cao hơn là những hộ có mức thu nhập cao.

pdf 9 trang yennguyen 6220
Bạn đang xem tài liệu "Sự khác biệt trong đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự khác biệt trong đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình ở Việt Nam

Sự khác biệt trong đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình ở Việt Nam
?1. Đặt vấn đề 
Giáo dục được coi là một loại hình đầu tư dài hạn 
và có lãi tốt nhất cho tương lai của mỗi cá nhân, mỗi 
gia đình và mỗi đân tộc. Do đó, đầu tư vào giáo dục 
góp phần giảm nghèo và bất bình đẳng của một quốc 
gia (Hussin và cộng sự, 2012). UNESCO đã từng 
kêu gọi các nước trên thế giới giảm chi tiêu cho vũ 
khí để đầu tư cho giáo dục. Bởi sự tiến bộ mạnh mẽ 
của khoa học kỹ thuật, với một lượng kiến thức 
khổng lồ cần chuyển giao cho các thế hệ sau, điều 
đó khẳng định: quốc gia không đầu tư cho giáo dục 
sẽ có nguy cơ tụt hậu nghiêm trọng trong tương lai. 
Chính vì thế mà hầu hết các nước trên thế giới nói 
chung và Việt Nam nói riêng đều nhận thức được sự 
cần thiết và cấp bách trong việc đầu tư vào giáo dục. 
Từ bao đời nay, người Việt Nam luôn xem trọng vai 
trò của giáo dục đối với sự thành công của con cái 
trong tương lai, xuất phát từ tinh thần ấy khiến mỗi 
hộ gia đình phải dành một phần ngân sách, chi tiêu 
đầu tư cho việc học tập của con cái. Nhưng chi tiêu 
như thế nào để đảm bảo sự hài hòa giữa đời sống vật 
chất và tinh thần thì đó chưa bao giờ là vấn đề dễ 
giải quyết của từng cá nhân, từng hộ gia đình. Bởi 
chi tiêu chính là một bài toán kinh tế mà chúng ta 
cần giải quyết hằng ngày, chi tiêu cho giáo dục cũng 
thế, cũng là một câu hỏi trong tổng số những câu hỏi 
của bài toán kinh tế mà gia đình phải đối mặt và cân 
nhắc khi đưa ra quyết định. Đối với từng hộ gia 
đình, bài toán chi tiêu mỗi hộ là khác nhau, cho nên 
cách giải quyết cũng không giống nhau ở mỗi gia 
đình, chính vì lẽ đó mà dẫn đến sự khác biệt trong 
việc chi tiêu cho giáo dục. Liệu rằng, nguồn thu 
nhập có phải là yếu tố quyết định chi đầu tư cho giáo 
dục của hộ gia đình hay còn chịu tác động bởi các 
đặc điểm khác? Bài viết sẽ chỉ ra những đặc tính của 
hộ gia đình ảnh hưởng đến vấn đề đầu tư cho giáo 
dục tại một số tỉnh thành phố tại Việt Nam. 
Sè 131/201964
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
SỰ KHÁC BIỆT TRONG ĐẦU TƯ 
CHO GIÁO DỤC CỦA HỘ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM 
Quách Dương Tử 
Trường Đại học Cần Thơ 
Email: qdtu@ctu.edu.vn 
Nguyễn Thanh Giang 
Trường Đại học Cần Thơ 
Email: nthanhgiang1997@gmail.com 
Ngày nhận: 12/03/2019 Ngày nhận lại: 26/04/2019 Ngày duyệt đăng: 14/05/2019 
B ài viết ứng dụng phương pháp so sánh bằng điểm xu hướng PSM trên bộ số liệu của cuộc khảo sát Tình hình cư trú 2015 để đánh giá sự khác biệt trong đầu tư giáo dục của hộ gia đình tại 5 tỉnh, thành 
phố của Việt Nam gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương và Đắk Nông. Kết quả của 
bài nghiên cứu chỉ ra có sự khác biệt lớn trong tỷ lệ đầu tư giáo dục của hộ nghèo so với hộ không nghèo 
rằng hộ nghèo có tỷ lệ đầu tư cao hơn hộ không nghèo. Bên cạnh đó, mức độ chi cho giáo dục của các hộ 
gia đình sinh sống tại thành thị có tỷ lệ đầu tư cao hơn những hộ sinh sống tại khu vực nông thôn. Bài nghiên 
cứu cũng cho thấy rằng, có sự khác biệt trong tỷ lệ đầu tư cho giáo dục của các nhóm thu nhập khi phân 
theo nhóm phân vịchỉ ra những hộ có thu nhập thấp hơn có tỷ lệ chi giáo dục cho các thành viên trong gia 
đình cao hơn là những hộ có mức thu nhập cao. 
Từ khóa: PSM, tỷ lệ đầu tư giáo dục, hộ nghèo. 
2. Tổng quan nghiên cứu 
Một nghiên cứu của Glick và cộng sự (2014) đã 
xem xét mối quan hệ của cú sốc gia đình vào đầu tư 
giáo dục ở Madagascar để kiểm tra phản ứng tham 
gia và đầu tư cho giáo dục với nhiều trường hợp cú 
sốc khác nhau mà gia đình gặp phải. Nghiên cứu cho 
thấy rằng cú sốc gia đình dẫn đến tỷ lệ bỏ học cao 
hơn và tỷ lệ ghi danh thấp hơn cùng với đó là sự đầu 
tư giáo dục sẽ bị hạn chế trước những cú sốc gia 
đình. Điều đó đã được minh chứng trong nghiên cứu 
của Gertler và cộng sự (2003) thực hiện ở Mexico 
và Indonesia đều cho thấy rằng sự qua đời của cha 
hoặc mẹ làm giảm đầu tư giáo dục của con cái. Bởi 
người mẹ luôn chú trọng nhiều hơn đến các khoản 
chi tiêu đầu tư cho giáo dục hơn là các ông bố 
(Thomas, 1990). Bên cạnh đó, vì mất đi người thân 
khiến trẻ khó tập trung vào việc học, dẫn đến việc bỏ 
học tạm thời hay vĩnh viễn. 
Tài chính cũng là một trong những yếu tố quan 
trọng tác động đến đầu tư cho giáo dục ở trẻ em, 
Becker và Tomes (1986) nhận định rằng các gia đình 
nghèo hơn dẫn đến tài chính bị hạn chế, điều này đã 
tác động và ngăn cản sự chi tiêu cho giáo dục con 
cái của mình. Kết quả cũng được sự đồng tình của 
Fafchamps (2003) đã chỉ ra rằng trong trường hợp 
tài chính gia đình gặp khó khăn, các hộ gia đình sử 
dụng nhiều phương pháp để ứng phó với những vấn 
đề kinh tế. Một trong những phương pháp đó là phân 
bổ lại của các khoản chi tiêu gia đình và lựa chọn 
cách cho trẻ em bỏ học để làm việc tại nhà hoặc làm 
việc tại các nhà máy xí nghiệp. Điều này có thể trì 
hoãn việc ghi danh đăng ký học của trẻ em chưa đi 
học. Việc chậm trễ trong việc ghi danh hay bỏ học 
đã được Glick và cộng sự (2014) trình bày việc hạn 
chế trong đầu tư giáo dục khi cú sốc kinh tế xảy ra 
mang tính tiêu cực lớn. Việc bỏ học sớm có tác động 
vĩnh viễn về nguồn lực, khả năng thu nhập và cũng 
vì lý do đó dẫn đến đói nghèo liên thế hệ. Trong khi 
đó, Chevalier và Lanot (2002) đã xem xét tác động 
tình hình tài chính đối với chi tiêu cho giáo dục lại 
cho thấy ảnh hưởng của thu nhập gia đình đối với 
mức độ đầu tư vào học tập của một đứa trẻ là khá 
hạn chế và không rõ ràng vì nó bị chi phối bởi nhiều 
yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định đi học. 
Những yếu tố tác động nhiều đến vấn đề chi tiêu 
cho giáo dục mà nghiên cứu của Chevalier và Lanot 
(2002) cho thấy là đặc điểm gia đình, chủ yếu là 
trình độ học vấn của cha mẹ dẫn đến sự khác biệt 
trong đầu tư giáo dục cho con cái. Brown và Hugh 
(2006) cũng đã cho thấy rằng cha mẹ có trình độ học 
vấn cao sẽ quan tâm và đầu tư trong giáo dục của 
con cái cao và tốt hơn đối với những phụ huynh có 
trình độ học vấn thấp. Trong đầu tư giáo dục của hộ 
gia đình thì số lượng thành viên của hộ hay quy mô 
hộ cũng tác động đến việc chi tiêu cho giáo dục. 
Điều đó đã được thể hiện trong nghiên cứu của Tilak 
(2002) cho thấy gánh nặng tiêu cực của số lượng 
nhân khẩu đối với đầu tư cho giáo dục của các hộ 
gia đình. Đồng quan điểm về tác động của quy mô 
hộ thì Aslam và Kingdon (2008) cũng đã chỉ ra rằng 
quy mô hộ có tác động tích cực đến ngân sách cho 
giáo dục của hộ. Việc này có thể giải thích khi hộ gia 
đình có quy mô lớn thì khả năng dành phần ngân 
sách lớn hơn cho chi tiêu giáo dục so với những hộ 
có quy mô gia đình nhỏ sẽ có ít con trong độ tuổi đi 
học hơn nên khoản đầu tư cũng ít hơn. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Phương pháp thu thập số liệu 
Nguồn số liệu sử dụng trong nghiên cứu được lấy 
từ “Khảo sát tình hình cư trú 2015” do Viện nghiên 
cứu phát triển Mekong (MDRI) tiến hành điều tra. 
MDRI thực hiện cuộc khảo sát này với tổng số mẫu 
là 5.000 quan sát, trên phạm vi tại 5 tỉnh, thành phố 
ở Việt Nam gồm: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, 
Bình Dương và Đắk Nông. Đây là những tỉnh có nền 
kinh tế phát triển trong khu vực, tập trung đông dân 
cư làm việc và sinh sống. Những tỉnh này đều nằm 
trong nhóm những tỉnh có tỷ lệ nhập cư cao nhất theo 
ước tính từ điều tra dân số 2009. 
3.2. Phương pháp so sánh bằng điểm xu hướng 
(PSM - Propensity Score Matching) 
Hiệu quả can thiệp trung bình (ATE - Average 
Treatment Effect) 
Hiệu quả can thiệp ATE có ý nghĩa mức tăng 
trung bình trong các kết quả của người tham gia 
tương ứng với những người không tham gia, như 
trong trường hợp các hộ không tham gia không nhận 
được can thiệp. ATE tương ứng với tình huống trong 
65
?
Sè 131/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
?đó một hộ gia đình được chọn ngẫu nhiêu từ tổng 
thể được chỉ định tham gia chương trình, vì vậy các 
hộ tham gia và không tham gia có xác suất nhận can 
thiệp T tương đồng nhau. 
ATE = [E(Yi (1)|Ti=1) - E(Yi (0)|Ti=1)] 
Với T bằng 1 nếu đối tượng i được can thiệp và 
bằng 0 nếu không có sự can thiệp. Yi (1) là kết quả 
nếu có can thiệp và Yi (0) nếu không có can thiệp. 
Phương pháp so sánh bằng điểm xu hướng được 
đề xuất và phát triển lần đầu tiên bởi Rosenbaum và 
Rubin (1983), đã được bổ sung bởi Becker và Ichino 
(2002), Khandker và cộng sự (2010). Phương pháp 
PSM phụ thuộc vào hai giả định: 
Giả định về tính độc lập có điều kiện: Độc lập có 
điều kiện là sau khi đã kiểm soát các yếu tố khác 
quan sát được, việc quyết định tham gia đầu tư cho 
giáo dục hoàn toàn độc lập với kết quả tham gia đầu 
tư. Nếu Yi
T thể hiện các kết quả của đối tượng tham 
gia và Yi
C là kết quả ở các đối tượng không tham 
gia, thì tính độc lập các điều kiện cho biết: 
(Yi
T,Yi
C)⊥Ti |Xi 
Giả định về hỗ trợ chung: Vùng hỗ trợ chung là 
vùng có ước lượng điểm xu hướng của cả nhóm 
tham gia và nhóm đối chứng, đảm bảo tìm được các 
quan sát trong nhóm so sánh có các đặc tính giống 
với các quan sát tương ứng trong nhóm tham gia, có 
càng nhiều đối tượng tham gia và đối chứng trong 
vùng hỗ trợ chung càng tốt. Giả định hỗ trợ chung: 
0<P(Ti=1|Xi )<1 
Can thiệp trung bình trên đối tượng can thiệp 
(ATT - Average Treatment Effect On The Treated) 
ATTPSM là khác biệt trung bình (có trọng số) 
giữa nhóm tham gia và nhóm đối chứng có cùng 
điểm xu hướng. Có nhiều cách tính cách tính trọng 
số ω(i,j) tùy thuộc vào phương pháp tiếp cận. Cuối 
cùng, thực hiện so sánh nhóm tham gia với nhóm 
đối chứng trong vùng hỗ trợ chung, có thể sử dụng 
các tiêu chí so sánh khác nhau, trong bài viết này 
tiếp cận 4 phương pháp so sánh: 
So sánh cận gần nhất: Một trong những kỹ thuật 
so sánh được sử dụng thường xuyên nhất là so sánh 
cận gần nhất, trong đó mỗi đơn vị can thiệp được so 
sánh với một đơn vị đối chiếu có điểm xu hướng gần 
nhất. Việc đối chiếu có thể thực hiện dù có hay 
không có thay thế. 
So sánh trong phạm vi hay bán kính: Một vấn đề 
trong so sánh cận gần nhất là sai biệt trong điểm xu 
hướng giữa một đối tượng tham gia và không tham 
gia gần nhất có thể vẫn còn rất cao. Vì thế, cần đặt 
ngưỡng hay mức dung sai trên khoảng cách điểm xu 
hướng tối đa. 
So sánh phân tầng hay khoảng thời gian: Quy 
trình này phân chia vùng hỗ trợ thành nhiều tầng 
(hay khoảng thời gian) khác nhau và tính toán tác 
động của chương trình trong từng khoảng thời gian. 
Bởi trong mỗi khoảng thời gian sẽ có sai biệt trung 
vị trong kết quả giữa các quan sát can thiệp và đối 
chứng. Bình quân gia quyền của các ước tính tác 
động theo khoảng thời gian này sẽ cho biết tác động 
chương trình chung, trong đó coi tỷ lệ đối tượng 
tham gia trong từng khoảng thời gian là gia quyền. 
So sánh hạt nhân và tuyến tính tại chỗ: Phương 
pháp sử dụng bình quân gia quyền của tất cả các đối 
tượng không tham gia để hình thành đối chiếu phản 
thực cho mỗi đối tượng tham gia. Bởi có một nhóm 
nhỏ đối tượng không tham gia thỏa mãn được các 
tiêu chí trong vùng hỗ trợ chung và cho kết quả 
phản thực. 
Phương pháp PSM ước lượng mô hình xác suất 
có tham gia đầu tư cho giáo dục hay không tham gia 
đầu tư cho giáo dục bằng hồi quy logit hay probit, 
với các biến giải thích là các đặc tính có ảnh hưởng 
đến khả năng quyết định đầu tư cho giáo dục, từ đó 
xác định những vùng có đặc điểm tương đồng giữa 
các hộ để tiến hành so sánh sự khác biệt nên kết quả 
sẽ có tính chính xác cao hơn so với phương pháp so 
sánh khác biệt trung bình. 
4. Kết quả và thảo luận 
4.1. Các thông tin, đặc điểm của hộ 
Qua số liệu thống kê của bảng 2, ta thấy giới tính 
của chủ hộ có 3.169 người là nam trong đó có 52,6% 
sống ở khu vực thành thị; và có 1.831 người là nữ 
với 67,34% sống ở khu vực thành thị. Trong 5.000 
chủ hộ được quan sát thì có hơn 92% là dân tộc Kinh 
với 4.616 chủ hộ. Dân số Việt Nam theo báo cáo của 
Tổng cục thống kê năm 2017 thì dân tộc Kinh chiếm 
Sè 131/201966
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
hơn 86% dân số chính, vì thế mà dân tộc Kinh cũng 
chiếm phần lớn số chủ hộ quan sát. Đa phần số chủ 
hộ có loại hình dân cư là thường trú với 2.779 hộ và 
tỷ lệ giữa thành thị và nông thôn không có sự chênh 
lệch lớn chỉ khoảng 13%. Nhưng đối với thường trú 
thì có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn. 
Thành thị chiếm tới 75,73% trong tổng số 2.221 hộ 
tạm trú cao hơn ở nông thôn 51,46%. Vì thành thị 
tập trung đông nguồn lao động nhập cư từ các vùng 
nông thôn, tỉnh thành khác đến để làm việc tại các 
nhà máy, xí nghiệp, công ty, khu công nghiệp,... 
Phần lớn số chủ hộ đều đã kết hôn, khảo sát có 3.894 
hộ chiếm 55,88% số hộ sinh sống tại thành thị. 
Trong số liệu thống kê của bảng 2 cũng cho thấy độ 
tuổi trung bình của chủ hộ ở mức khá cao gần 40 
tuổi và thường đã kết hôn và lập gia đình. Trình độ 
học vấn mà chủ hộ đạt 
được trung bình đều đã 
hoàn thành xong cấp 
trung học cơ sở với số 
năm đi học trung bình là 
10,06 năm và độ lệch 
chuẩn giữa các chủ hộ 
là 4,12 năm. Theo như 
thống kê thì số giờ làm việc trung bình một ngày của 
chủ hộ là 8,54 giờ cao nhất tới 20 giờ một ngày. 
Qua bảng 3, số liệu ta thấy chỉ một bộ phận nhỏ 
là cán bộ công nhân viên chức nhà nước với 369 
người. Đối với số chủ hộ có tham gia đi làm để nhận 
lương có 2.614 người chiếm hơn 50% số chủ hộ nếu 
xem xét giữa 2 khu vực thành thị và nông thôn thì 
cũng không có sự khác biệt đáng kể. Số người tham 
gia đi làm ở thành thị nhiều hơn so với những người 
ở nông thôn khoảng 17% trong tổng số những người 
có tham gia bởi thành thị là nơi mà người dân đa 
phần sẽ tham gia lao động để nhận tiền lương và tiền 
công lao động từ các khu công nghiệp, công ty, nhà 
xưởng,... Ngoài ra, những hộ ở thành thị còn cho 
thấy việc tự sản xuất kinh doanh các dịch vụ phi 
nông chiếm cao hơn hẳn so với nông thôn là 28% 
67
?
Sè 131/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 1: Thống kê giới tính, dân tộc và tình trạng hôn nhân của chủ hộ 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
ĈһFÿLӇP N = 5.000 7ӹOӋ 7ӹOӋWURQJNKX YӵFWKjQKWKӏ 
*LӟLWtQK1DP 3.169 63,38 52,60 
'kQWӝF.LQK 4.616 92,32 61,40 
&ѭWU~WKѭӡQJWU~ 2.779 55,58 43,83 
ĈmNӃWK{Q 3.894 77,88 55,88 
Bảng 2: Thống kê tuổi, trình độ học vấn và thời gian làm việc của chủ hộ 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
Bảng 3: Thống kê đặc điểm nghề nghiệp của chủ hộ 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
ĈһFÿLӇm ĈѫQYӏ tính Trung bình 
Ĉӝ lӋch 
chuҭn Nhӓ nhҩt Lӟn nhҩt 
Tuәi 1ăP 39,71 12,17 17 80 
7UuQKÿӝ hӑc vҩn 1ăP 10,06 4,12 0 21 
Thӡi gian làm viӋc Giӡ/ ngày 8,54 2,748 1 20 
ĈһFÿLӇPQJKӅ N=5.000 7ӹOӋ 
7ӹOӋWURQJNKX
YӵFWKjQKWKӏ
(%) 
CiQEӝF{QJQKkQYLrQFKӭFQKjQѭӟF 369 7,38 81,57 
/jPQKұQWLӅQOѭѫQJWLӅQF{QJ 2.614 52,28 58,22 
+RҥWÿӝQJVҧQ[XҩWQ{QJQJKLӋS 780 15,60 15,77 
+RҥWÿӝQJVҧQ[XҩWSKLQ{QJQJKLӋS 1300 26,00 64,00 
?(trong tổng số 1.300 người chủ hộ). Vì thế, việc thuê 
mướn lao động tại thành thị sẽ phổ biến hơn, và số 
lao động làm việc để nhận lương cũng nhiều hơn so 
với nông thôn. Ngược lại, nông thôn thì số người 
tham gia sản suất nông lâm, thủy sản sẽ phổ biến 
hơn vì điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu 
mỡ,... nên người ... hông 
nghèo. Đối với khu 
vực sinh sống cũng 
cho kết quả tương tự, 
rằng có sự tương 
đồng khá lớn của mật 
độ Kernel đối với tuổi 
của chủ hộ giữa thành thị và nông thôn. Chính vì 
thế, tính ngẫu nhiên của các quan sát trong bộ dữ 
liệu cũng là điều kiện cần trước khi tiến hành thực 
hiện kiểm định bằng các phương pháp so sánh PSM 
được thỏa mãn. 
Sè 131/201968
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 4: Các đặc điểm của hộ 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015
ĈһFÿLӇm ĈѫQYӏ tính Trung bình 
Ĉӝ lӋch 
chuҭn Nhӓ nhҩt Lӟn nhҩt 
Quy mô hӝ 1Jѭӡi 3,46 1,61 1 14 
Sӕ FRQÿLKӑc 1Jѭӡi 0,96 0,96 0 8 
Thu nhұp cӫa hӝQăP TriӋXÿӗng 133,46 122,13 0,15 2.400 
Chi cho giáo dөccӫa 
hӝQăP TriӋXÿӗng 13,62 15,22 0 206 
Tӹ lӋ ÿҫXWѭJLiRGөc % 12,79 13,54 0 100 
Bảng 5: Thống kê số hộ có vay vốn, hộ nghèo theo thu nhập chuẩn nghèo 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
ĈһFÿLӇP N=5.000 7ӹOӋ 7ӹOӋWURQJNKXYӵFWKjQKWKӏ(%) 
&yYD\YӕQ 1400 28,00 45,93 
HӝGѭӟLQJѭӥQJnghèo 347 6,94 39,19 
ĈѭӧFPLӉPJLҧPKӑFSKt 394 7,88 50,00 
Các phương pháp so sánh phân tích điểm xu 
hướng PSM theo loại hộ, khu vực và các phân vị của 
thu nhập hộ gia đình để xem xét sự khác biệt trong 
tỷ lệ đầu tư giáo dục của hộ gia đình giữa các nhóm 
đối tượng.Theo kết quả của các phương pháp so 
sánh đối với loại hộ giữa hai đối tượng hộ dưới 
ngưỡng nghèo và hộ trên ngưỡng nghèo dựa theo 
chuẩn nghèo nhìn chung ta thấy tỷ lệ chi cho giáo 
dục của hộ có thu nhập dưới ngưỡng nghèo cao hơn 
tỷ lệ chi cho giáo dục của những hộ trên ngưỡng 
nghèo và đều có ATT lớn hơn 12% nằm trong mức 
ý nghĩa là 1%. Cụ 
thể là phương pháp 
so sánh gần nhất 
với ATT = 12,879 
thì tỷ lệ chi cho 
giáo dục của hộ 
dưới ngưỡng nghèo 
cao hơn hộ trên 
ngưỡng nghèo là 
12,879% sai số chuẩn là 2,27%, phương pháp so 
sánh phân tầng là 13,451% sai số chuẩn là 1,638%, 
còn đối với phương pháp so sánh bán kính thì tỷ lệ 
chi giáo dục của hộ dưới ngưỡng nghèo cao hơn 
15,265% so với tỷ lệ mà hộ trên ngưỡng nghèo chi 
cho giáo dục với sai số 
chuẩn là 2,497%, còn theo 
phương pháp so sánh hạt 
nhân thì các hộ dưới 
ngưỡng nghèo có tỷ lệ chi 
cho giáo dục vẫn cao hơn 
những hộ trên ngưỡng 
nghèo là 13,024% với độ 
lệch chuẩn là 1,6%. Sự khác 
biệt là do những hộ nghèo 
có thu nhập thấp nên chi cho các khoản chi đầu tư 
cho giáo dục sẽ chiến tỷ lệ cao hơn trong tổng thu 
nhập của hộ. Ngược lại, đối với những hộ không 
nghèo thì tỷ lệ chi cho giáo dục sẽ chiếm tỷ lệ thấp 
hơn trong tổng thu nhập. Tốc độ tăng của thu nhập 
cao hơn tốc độ tăng của đầu tư giáo dục. 
69
?
Sè 131/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
Hình 1: Mật độ Kernel đối với tuổi của chủ hộ theo loại thu nhập chuẩn nghèo và theo khu vực sống 
0
.0
1
.0
2
.0
3
20 40 60 80
WXәL
KӝQJKqR KӝNK{QJQJKqR
0
.0
1
.0
2
.0
3
.0
4
20 40 60 80
WXәL
WKjQKWKӏ Q{QJWK{Q
Bảng 6: Kiểm định sự khác biệt trong đầu tư giáo dục 
phân theo thu nhập chuẩn nghèo 
Ghi chú: ***, ** và * lần lượt thể hiện mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
3KѭѫQJSKiSso sánh Nhóm tham gia 
Nhóm 
ÿӕi chӭng ATT Sai sӕ chuҭn 
So sánh cұn gҫn nhҩt 176 141 12,879*** 2,270 
So sánh phân tҫng 170 2.217 13,451*** 1,638 
So sánh bán kính 91 1.344 15,265*** 2,497 
So sánh hҥt nhân 176 2.211 13,024*** 1,600 
Bảng 7: Kiểm định sự khác biệt trong đầu tư giáo dục phân theo khu vực sinh sống 
Ghi chú: ***, ** và * lần lượt thể hiện mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
3KѭѫQJSKiSVRViQK Nhóm tham gia 1KyPÿӕi chӭng ATT Sai sӕ chuҭn 
So sánh cұn gҫn nhҩt 1.447 479 2,840*** 0,761 
So sánh phân tҫng 1.447 885 2,238*** 0,613 
So sánh bán kính 1.168 626 2,155*** 0,620 
So sánh hҥt nhân 1.447 885 1,977*** 0,658 
?Kết quả phân tích điểm xu hướng PSM theo khu 
vục giữa hai nhóm thành thị và nông thôn ta thấy 
ATT dao động từ khoảng 1,9 - 2,9% và mức ý nghĩa 
đối với các phương pháp so sánh đều là 1%. Bằng 
phương pháp so sánh cận gần nhất thì ATT = 2,84 
cho thấy tỷ lệ chi đầu tư cho giáo dục của các hộ gia 
đình sinh sống tại khu vực thành thị cao hơn so với 
tỷ lệ chi cho giáo dục của hộ tại khu vực nông thôn 
là 2,84% với sai số chuẩn chỉ có 0,761%. Kết quả 
của phương pháp so sánh phân tầng thì tỷ lệ đầu tư 
giáo dục của khu vực thành thị cao hơn 2,238% sai 
số chuẩn là 0,613%. Tỷ lệ chi giáo dục của thành thị 
cao hơn ở nông thôn là 2,155% bằng phương pháp 
so sánh bán kính với ATT=2,155 và sai số chuẩn của 
phương pháp này là 0,62%. Còn đối với phương 
pháp so sánh hạt nhân thì tỷ lệ đầu tư giáo dục của 
những hộ sống tại thành thị cao hơn 1,977% so với 
tỷ lệ chi đầu tư giáo dục ở nông thôn với sai số 
chuẩn là 0,658%. Qua bốn phương pháp so sánh thì 
kết quả ATT đều lớn hơn 0 và cả bốn phương pháp 
đều cho kết quả là tỷ lệ đầu tư cho giáo dục trên tổng 
thu nhập của những hộ sống tại khu vực thành thị 
cao hơn tỷ lệ mà những hộ gia đình sinh sống tại 
nông thôn đầu tư cho giáo dục của các thành viên 
trong gia đình với tỷ lệ trung bình của cả 4 phương 
pháp là 2,303%. Bởi ở thành thị có khả năng tiếp 
cận điều kiện, chương trình giáo dục tốt hơn khu 
vực nông thôn. Ngoài ra, ở thành thị các hộ gia đình 
có mức độ quan 
tâm cho giáo dục 
của con cái cũng 
cao hơn và việc 
cho con tham gia 
các khóa học rèn 
luyện kĩ năng 
phổ biến hơn so 
với nông thôn. 
Đối với kết 
quả của các 
phương pháp so 
sánh lên phân vị 
của thu nhập, 
chia thu nhập 
của hộ gia đình 
ra làm 4 nhóm thu nhập gồm nhóm thu nhập nhập 
thấp tương ứng những hộ thuộc nhóm phân vị từ 
25% trở xuống, nhóm thu nhập trung bình thấp 
tương ứng với nhóm phân vị trên 25% đến phân vị 
thứ 50%, nhóm thu nhập trung bình cao tương ứng 
với các hộ thuộc nhóm phân vị trên 50% đến phân 
vị thứ 75% và cuối cùng là nhóm thu nhập cao thuộc 
nhóm phân vị trên 75%. 
Kết quả của sự khác biệt trong tỷ lệ đầu tư cho hai 
nhóm hộ có thu nhập thấp và hộ có thu nhập trung 
bình thấp qua bảng 8 thì tỷ lệ đầu tư giáo dục của 
nhóm hộ có thu nhập thấp lại cao hơn nhóm có thu 
nhập trung bình thấp cả 4 giá trị của ATT đều dương. 
Tỷ lệ chi giáo dục của những hộ có mức thu nhập 
thấp cao hơn tỷ lệ mà những hộ có mức thu nhập 
trung bình thấp là 4,143% với phương pháp so sánh 
cận gần nhất, 4,052% khi kiểm định bằng phương 
pháp so sánh phân tầng, và 4,155% với phương pháp 
so sánh hạt nhân, còn đối với phương pháp so sánh 
bán kính thì hộ có thu nhập thấp tỷ lệ đầu tư cho giáo 
dục cao hơn 4,221% so với hộ có thu nhập trung bình 
thấp. Sự khác biệt giữa hai nhóm hộ đều có ý nghĩa 
thống kê với mức ý nghĩa là 1%. 
Đối với nhóm thu nhập trung bình thấp và trung 
bình cao thì sự khác biệt trong tỷ lệ chi cho giáo dục 
của các hộ giao đình thì cho thấy tỷ lệ đầu tư cho 
giáo dục của hộ thu nhập trung bình thấp cao hơn hộ 
có thu nhập trung bình cao 3,958%, 3,504%, 3,336% 
Sè 131/201970
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 8: Kiểm định sự khác biệt trong đầu tư giáo dục phân theo phân vị của thu nhập 
Ghi chú: ***, ** và * lần lượt thể hiện mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
Phân vӏ 3KѭѫQJSKiS so sánh 
Nhóm 
tham gia 
1KyPÿӕi 
chӭng ATT 
Sai sӕ 
chuҭn 
25% 
So sánh cұn gҫn nhҩt 346 209 4,143*** 1,058 
So sánh phân tҫng 338 1.830 4,052*** 0,891 
So sánh bán kính 249 364 4,221*** 1,084 
So sánh hҥt nhân 346 553 4,155*** 0,869 
50% 
So sánh cұn gҫn nhҩt 616 329 3,958*** 0,763 
So sánh phân tҫng 615 1.780 3,504*** 0,616 
So sánh bán kính 518 526 3,336*** 0,705 
So sánh hҥt nhân 616 606 3,335*** 0,629 
75% 
So sánh cұn gҫn nhҩt 616 315 2,754*** 0,595 
So sánh phân tҫng 616 1.809 2,853*** 0,465 
So sánh bán kính 463 489 2,631*** 0,559 
So sánh hҥt nhân 616 688 2,706*** 0,454 
và 3,335% lần lượt là sự khác biệt tỷ lệ giáo đầu tư 
giáo dục của các phương pháp so sánh cận gần nhất, 
so sánh phân tầng, so sánh bán kính và phương pháp 
so sánh hạt nhân với mức ý nghĩa là 1%. 
Kết quả của sự khác biệt trong tỷ lệ đầu tư giáo 
dục của hai nhóm phân thu nhập trung bình cao 
với nhóm thu nhập cao ta thấy với mức ý nghĩa 1% 
tỷ lệ chi cho giáo dục đầu tư cho giáo dục của 
nhóm thu nhập trung bình cao cao hơn tỷ lệ chi 
đầu tư trên tổng thu nhập của nhóm thu nhập cao 
lần lượt là 2,754%, 2,853%, 2,631% và 2,706% 
tương ứng với các phương pháp so sánh cận gần 
nhất, so sánh phân tầng, so sánh bán kính và so 
sánh hạt nhân. 
Nhìn chung, tỷ lệ chi đầu tư giáo dục trung 
bình của bốn phương pháp so sánh của nhóm thu 
nhập thấp cao hơn thu nhập trung bình thấp là 
khoảng 4,143%, thu nhập trung bình thấp hơn thu 
nhập trung bình cao là 3,533% và nhóm thu nhập 
trung bình cao hơn nhóm thu nhập cao là 2,736%. 
Ta thấy rằng khác biệt trong đầu tư giáo dục của 
hộ gia đình giảm dần khi so sánh các nhóm thu 
nhập cao dần. Bởi đầu tư giáo dục là một khoản 
đầu tư quan trọng trong cơ cấu chi tiêu của mỗi hộ 
gia đình, cùng với đó là đầu tư giáo dục chính là 
đầu tư góp phần nâng cao thu nhập của hộ gia 
đình trong tương lai. Ngoài ra, dù có thu nhập 
thấp hơn nhưng phụ huynh cũng luôn cố gắng để 
con được tham gia giáo dục và đầu tư cho con cái, 
các thành viên đi học có đầy đủ các trang thiết bị 
phục vụ cho việc học tập thiết yếu và các khoản 
phí như các hộ gia đình khác. 
Qua kết quả kiểm định sự khác biệt giữa tỷ lệ đầu 
tư cho giáo dục của hộ gia đình theo bậc học giữa 
hai nhóm đầu tư cho trung học phổ thông và nhóm 
đầu tư đại học thì các kết ATT đều mang giá trị âm, 
nhưng kết quả không mang ý nghĩa về mặt thống kê. 
Chính vì thế, nghiên cứu cho thấy không có sự khác 
biệt trong đầu tư giáo dục của hộ gia đình giữa hai 
nhóm đối tượng, cũng như mức độ quan tâm cho 
việc đầu tư vào nhóm trung học phổ thông và đại 
học là tương đồng nhau. 
5. Kết luận và hàm ý chính sách 
Kết quả phân tích sự khác biệt trong tỷ lệ đầu 
tư cho giáo dục của các hộ gia đình tại một số 
tỉnh, thành phố bằng các phương pháp so sánh 
điểm xu hướng ta thấy có sự khác biệt trong tỷ lệ 
đầu tư cho giáo dục giữa các hộ gia đình. Những 
hộ thuộc hộ nghèo có tỷ lệ đầu tư cao hơn những 
hộ không nghèo, và sự khác biệt của tỷ lệ đầu tư 
mà hộ nghèo đầu tư so với hộ không thuộc hộ 
nghèo khá cao trên 12%. Ngoài ra, cũng có sự 
khác biệt giữa hai khu vực thành thị và nông 
thôn, những hộ sinh sống ở khu vực thành thị có 
có mức tỷ lệ đầu tư cho giáo dục cao hơn những 
hộ sinh sống tại nông thôn. Bên cạnh đó, trong 4 
nhóm thu nhập: thu nhập thấp, thu nhập trung 
bình thấp, thu nhập trung bình cao và nhóm thu 
nhập cao khi chia theo phân vị của tổng thu nhập 
của hộ cũng có sự khác biệt. Ta nhận ra một điều 
rằng những hộ có thu nhập thấp lại có tỷ lệ đầu tư 
cho giáo dục cao hơn các nhóm có thu nhập cao 
hơn và sự khác biệt trong tỷ lệ chi đầu tư cho 
giáo dục sẽ giảm dần khi ta so sánh các nhóm thu 
nhập cao hơn. 
71
?
Sè 131/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 9: Kiểm định sự khác biệt trong đầu tư giáo dục phân theo bậc học 
Ghi chú: ***, ** và * lần lượt thể hiện mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. 
Nguồn: Kết quả tính toán từ bộ dữ liệu Khảo sát tình hình cư trú 2015 
3KѭѫQJSKiSVR
sánh 
Nhóm tham 
gia 
1KyPÿӕi 
chӭng ATT Sai sӕ chuҭn 
So sánh cұn gҫn nhҩt 1.957 338 -1,200 0,754 
So sánh phân tҫng 1.957 4.823 -0,809 0,778 
So sánh bán kính - - - - 
So sánh hҥt nhân 1.957 361 -0,754 0,650 
Bài nghiên cứu đã hình thành một vài hàm ý 
chính sách, khi kết quả cho thấy rằng hộ có thu nhập 
thấp có mức độ quan tâm nhiều hơn cho đầu tư giáo 
dục. Chính phủ cần có các cuộc điều tra chính xác, 
các chính sách miễn giảm học phí đối với những hộ 
có kinh tế khó khăn, thu nhập thấp nhưng không 
nằm trong danh sách miễn giảm, hộ nghèo của địa 
phương. Đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng đường 
xá, phòng học tại các vùng sâu,vùng xa nông thôn 
và vùng đồi núi tạo điều kiện cho học sinh đến 
trường. Thực hiện các chính sách đa dạng hóa thu 
nhập cho hộ gia đình, bên cạnh khuyến khích, tuyên 
truyền nâng cao sự quan tâm đến đầu tư giáo dục 
cho con cái. Khi giáo dục có tính hội tụ do thu nhập 
tăng, vậy thì người nghèo có thực sự quan tâm cho 
tương lai của con cái hay là học phí (chi phí) đã 
đang là gánh nặng của người nghèo.u 
Tài liệu tham khảo: 
1. Aslam, M. & Kingdon, G. G., (2008), Gender 
and Household Education Expenditure in Pakistan, 
Applied Economics, Taylor & Francis Journals, 
40(20), 2573 – 2591. 
2. Becker, S. & Ichino, A., (2002), Estimation of 
average treatment effects based on propensity 
scores, Stata Journal, 2(4), 358 - 377. 
3. Becker, G. S. & Tomes, N., (1986), Human 
Capital and the Rise and Fall of Families, Journal of 
Labor Economics, 4(3), 1-39. 
4. Brown, P. & Lauder, H., (2006), 
Globalisation, knowledge and the myth of the mag-
net economy, Oxford University Press, UK. pp. 
317-340. 
5. Chevalier, A. &Lanot, G., (2002), The 
Relative Effect of Family and Financial 
Characteristics on Educational Achievement, 
Education Economics, 10(2), 165 - 181. 
6. Fafchamps, M., (2003), Rural Poverty, Risk 
and Development, Edward Elgar Publishing, 
Cheltenham, UK. 
7. Gertler, P., Martinez, S., Levine, D., Bertozzi, 
S., (2003), Losing the Presence and Presents of 
Parent: How Parental Death Affects Children, 
University of California. 
8. Glick, P. J., Sahn, D. E., Walker, T. F., (2014), 
Household Shocks and Education Investment in 
Madagascar, Oxford Bullentin of Economics and 
Statistics, 78(6), 792 - 813. 
9. Hussin, M. Y. M, Muhammad, F., Hussin, M. 
F. A., Razak, A. A., (2012), Education Expenditure 
and Economic Growth: A Causal Analysis for 
Malaysia, Journal of Economics and Sustainable 
Development, 3(7),71-81. 
10. Thomas, D., (1990), Intra-Household 
Resource Allocation: An Inferential Approach, 
Journal of Human Resources, 25(4), 635 - 664. 
11. Tilak, J. B. G., (2002), Determinants of 
household expenditure on education in rural India, 
National Council of Applied Economic Research. 
Summary 
The paper applies the comparative method with 
the PSM trendy point on the data taken from the 
survey “The 2015 residence situation” to assess the 
difference in household’s education investment in 5 
provinces and cities in Vietnam, including Hanoi, 
Hochiminh City, Da Nang, Binh Duong and 
DakNong. The results of the study show that there 
is a big difference in the rate of poor households' 
education investment compared to the non-poor 
households; in particular, poor households have a 
higher investment than non-poor households. In 
addition, the level of spending on education by 
urban households is higher than those living in rural 
areas. The paper also shows that different income 
groups have different investment levels; house-
holds with lower incomes spend more on educa-
tionthan high income group. 
Sè 131/201972
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfsu_khac_biet_trong_dau_tu_cho_giao_duc_cua_ho_gia_dinh_o_vie.pdf