Sức sống của tư tưởng Xã hội chủ nghĩa và sự kiên định con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Mác và Ăngghen đã đã xây dựng trên cơ sở

nghiên cứu quy luật phát triển khách quan của lịch sử về xã hội mà trong đó con

người được giải phóng, được phát triển toàn diện, xã hội không còn áp bức, bóc

lột, bất công là mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta.

Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại

hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đến nay đã hơn 30 năm.

Thành tựu của 30 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn phát

triển đất nước và những bài học kinh nghiệm qua chặng đường đổi mới cho thấy,

đường lối đổi mới của Đảng ta trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo, chứng tỏ con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội của cách mạng nước ta là phù hợp với thực tế Việt Nam và phù

hợp với quy luật phát triển của lịch sử.

pdf 11 trang yennguyen 4180
Bạn đang xem tài liệu "Sức sống của tư tưởng Xã hội chủ nghĩa và sự kiên định con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sức sống của tư tưởng Xã hội chủ nghĩa và sự kiên định con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Sức sống của tư tưởng Xã hội chủ nghĩa và sự kiên định con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
16 
SỨC SỐNG CỦA TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ 
SỰ KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA 
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
 NGUYỄN THỊ HIỀN OANH* 
Lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Mác và Ăngghen đã đã xây dựng trên cơ sở 
nghiên cứu quy luật phát triển khách quan của lịch sử về xã hội mà trong đó con 
người được giải phóng, được phát triển toàn diện, xã hội không còn áp bức, bóc 
lột, bất công là mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta. 
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại 
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đến nay đã hơn 30 năm. 
Thành tựu của 30 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn phát 
triển đất nước và những bài học kinh nghiệm qua chặng đường đổi mới cho thấy, 
đường lối đổi mới của Đảng ta trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng 
Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo, chứng tỏ con đường đi lên chủ 
nghĩa xã hội của cách mạng nước ta là phù hợp với thực tế Việt Nam và phù 
hợp với quy luật phát triển của lịch sử. 
Từ khóa: chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa xã hội, tư 
tưởng xã hội chủ nghĩa 
Nhận bài ngày: 12/2/2019; đưa vào biên tập: 20/2/2019; phản biện: 8/3/2019; duyệt 
đăng: 16/4/2019 
1. DẪN NHẬP 
Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô 
và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội 
chủ nghĩa tan rã, nguyên nhân không 
bắt nguồn từ học thuyết mà từ 
nguyên nhân trực tiếp của mỗi quốc 
gia trong tổ chức và điều hành đất 
nước. Tuy nhiên sự kiện này đã ảnh 
hưởng không nhỏ đến các quốc gia 
đang xây dựng đất nước theo chủ 
nghĩa xã hội, trong đó có Việt Nam. 
Hiện nay, lợi dụng những khó khăn, 
những diễn biến phức tạp của tình 
hình thế giới, khu vực, những khó 
khăn của tình hình trong nước, các 
thế lực thù địch ngày càng ra sức 
chống phá cách mạng thế giới, cách 
mạng Việt Nam, xuyên tạc, phủ nhận 
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh, chủ trương đường lối của 
Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh 
đó, cơ chế thị trường, mở cửa, hội 
nhập, với sự tác động từ mặt trái đã 
làm cho một bộ phận cán bộ, đảng 
viên và nhân dân phai nhạt mục tiêu, 
lý tưởng, chạy theo lối sống thực 
dụng, giảm sút niềm tin vào chủ 
*
 Trường Đại học Sài Gòn. 
NGUYỄN THỊ HIỀN OANH – SỨC SỐNG CỦA TƯ TƯỞNG XÃ HỘI... 
17 
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí 
Minh vào công cuộc đổi mới của đất 
nước. 
Vì vậy, cùng với nâng cao vai trò lãnh 
đạo của Đảng, năng lực quản lý nhà 
nước, tập trung phát triển kinh tế - xã 
hội, cải thiện từng bước đời sống vật 
chất và tinh thần cho nhân dân, cần 
lưu ý tăng cường sức đề kháng để 
đấu tranh phản bác các quan điểm, 
luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường 
lối chủ trương của Đảng Cộng sản 
Việt Nam. 
2. SỨC SỐNG CỦA TƯ TƯỞNG XÃ 
HỘI CHỦ NGHĨA 
Sự hình thành và phát triển tư tưởng 
xã hội chủ nghĩa là một dòng chảy 
xuyên suốt lịch sử nhân loại. Trước C. 
Mác và Ph. Ăngghen đã có nhiều nhà 
tư tưởng bằng cách này hay cách 
khác ít nhiều đề cập và đã có những 
cống hiến nhất định cho tư tưởng xã 
hội chủ nghĩa. Đến chủ nghĩa Mác, tư 
tưởng xã hội chủ nghĩa không phải 
lần đầu tiên được khám phá, mà lần 
đầu tiên được trình bày một cách 
khoa học. 
Nghiên cứu, tổng kết sự phát triển của 
lịch sử loài người, C. Mác đã chứng 
minh về sự thay thế tất yếu của các 
chế độ từ chế độ cộng sản nguyên 
thủy đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế 
độ phong kiến, chế độ tư bản, chế độ 
cộng sản chủ nghĩa. Đó là lý luận hình 
thái kinh tế - xã hội mà cho đến nay, 
giá trị khoa học và hiện thực của nó 
ngày càng được khẳng định và làm 
sáng tỏ. Với phát minh vĩ đại đó, C. 
Mác được thế giới suy tôn là một 
trong số những nhà khoa học hàng 
đầu không chỉ của thế kỷ XIX mà của 
cả thiên niên kỷ. 
Hơn 170 năm trôi qua, từ khi tác 
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản của C. Mác và Ph. Ăngghen ra 
đời đánh dấu sự xuất hiện của chủ 
nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa xã 
hội đã trải qua những chặng đường 
đầy kịch tính: từ “bóng ma ám ảnh 
Châu Âu” đã trở thành lý luận khoa 
học, rồi trở thành hiện thực ở hàng 
chục quốc gia, với gần một phần tư 
dân số thế giới. Với một lực lượng vật 
chất và tinh thần hùng mạnh, chủ 
nghĩa xã hội đã từng được xem là 
biểu tượng của sự tiến bộ và phát 
triển. Tuy nhiên, bên cạnh những 
thành tựu, đến những năm 80 của thế 
kỷ XX, chủ nghĩa xã hội trên thế giới 
đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, 
tất yếu phải tiến hành cải tổ, cải cách, 
đổi mới, mở cửa. Trong tiến trình đó, 
ở một số nước, mô hình chủ nghĩa xã 
hội đã bị sụp đổ; ở một số nước khác 
đã và đang đổi mới, cải cách để tiếp 
tục tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế 
đó làm không ít người giảm lòng tin, 
thậm chí hoang mang, đồng thời đã 
đặt ra một số vấn đề mới cả về lý luận 
và thực tiễn. 
Trước nay, chúng ta đã từng chứng 
kiến biết bao lần kẻ thù tư tưởng tấn 
công, bác bỏ học thuyết Mác, nhưng 
cứ sau mỗi lần như vậy, học thuyết 
Mác càng tỏ rõ sức sống mạnh mẽ. 
Thắng lợi của học thuyết Mác, thắng 
lợi của tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
18 
đến ngày nay đều thông qua thực 
tiễn đấu tranh và phát triển không 
ngừng. 
Mặc dù chủ nghĩa xã hội đang trải qua 
thời điểm khủng hoảng nghiêm trọng, 
nhưng Tổng thống Nixon cũng đã 
thừa nhận: chủ nghĩa Mác vẫn sống 
trong các trường đại học Mỹ. Có 
không ít các học giả tư sản cho rằng: 
trái với thái độ phản bội, cơ hội và đầu 
hàng của một số người cộng sản, họ 
không phủ định và cũng không thể 
phủ định được những giá trị khoa học 
chứa đựng trong di sản lý luận của C. 
Mác. Nhà triết học hiện đại Pháp - 
Jacques Derrida, người chưa bao giờ 
nhận mình là mácxít cũng khẳng định: 
Thế kỷ XXI rất cần có Mác, tư tưởng 
phê phán xã hội của Mác vẫn là vũ khí 
sắc bén cần thiết đối với cuộc đấu 
tranh chống lại những cái ác của chủ 
nghĩa tư bản (Phạm Quang Nghị, 
2017: 40-41). 
Trong thời đại ngày nay, cuộc đấu 
tranh của chủ nghĩa xã hội trên mặt 
trận tư tưởng diễn ra phức tạp và 
gay gắt. Việc phân biệt ranh giới giữa 
chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ 
nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa 
xã hội giả hiệu, đối địch đang là vấn 
đề hết sức quan trọng. Nếu không 
làm sáng tỏ, không chỉ ra được điều 
này thì sự hoài nghi về thành công 
của chủ nghĩa xã hội có thể vẫn tồn 
tại. 
Nội dung khoa học trong học thuyết 
Mác bao trùm các lĩnh vực từ triết học 
đến kinh tế - chính trị, từ tôn giáo đến 
lịch sử Đơn cử như: con người 
trước hết cần phải ăn, mặc, ở rồi 
mới có thể làm chính trị, tôn giáo, 
nghệ thuật Với những vấn đề cơ 
bản mang tính quy luật này làm cho 
học thuyết Mác trở nên bất diệt. C. 
Mác và Ph. Ăngghen đã khám phá 
quá trình phát triển xã hội mang tính 
lịch sử - tự nhiên, nhưng không phải 
là sự phát triển hỗn độn, ngẫu nhiên 
mà có tính quy luật, nó là một quá 
trình phủ định biện chứng trong lĩnh 
vực xã hội, nó thể hiện bằng việc 
thay thế của các phương thức sản 
xuất. Với học thuyết của mình, bằng 
quan niệm duy vật lịch sử, các ông là 
người đầu tiên giải thích đúng đắn 
những gì loài người đã trải qua, đồng 
thời còn dự báo về tương lai trên cơ 
sở nắm được qui luật của sự vận 
động và phát triển của xã hội. Các ông 
đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa cộng sản là 
sự vận động của hiện thực, với ý 
nghĩa đó, tư tưởng xã hội chủ nghĩa 
của các ông cũng là sản phẩm khách 
quan của sự vận động của lịch sử. 
Quan niệm đó được C. Mác thể hiện 
với tinh thần biện chứng sâu sắc về 
mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và lý 
luận chủ nghĩa xã hội khoa học: giai 
cấp vô sản tìm thấy vũ khí lý luận của 
mình là chủ nghĩa xã hội khoa học, 
còn chủ nghĩa xã hội khoa học tìm 
thấy vũ khí vật chất của mình là giai 
cấp vô sản. Đó cũng chính là nguồn 
gốc của tính khoa học, tính khách 
quan và tính cách mạng của học 
thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội. Các 
thuộc tính và đặc điểm này các nhà tư 
tưởng trước Mác chưa khái quát 
được. 
NGUYỄN THỊ HIỀN OANH – SỨC SỐNG CỦA TƯ TƯỞNG XÃ HỘI... 
19 
V.I. Lênin đã chỉ rõ sự khác biệt rất 
căn bản giữa chủ nghĩa xã hội khoa 
học với tư tưởng xã hội chủ nghĩa 
trước, như: “Chủ nghĩa xã hội nguyên 
thủy là một chủ nghĩa xã hội không 
tưởng. Nó phê phán, kết tội và nguyền 
rủa chế độ người bóc lột người, nó 
mơ ước xóa bỏ xã hội này và tưởng 
tượng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn; 
nó tìm cách thuyết phục những người 
giàu để thấy rằng, bóc lột là không 
đạo đức. Nhưng chủ nghĩa xã hội 
không tưởng không thể vạch ra được 
một lối thoát thực sự. Nó không giải 
thích được bản chất của chế độ nô lệ 
làm thuê và cũng không tìm thấy 
được lực lượng có khả năng trở thành 
người sáng tạo ra xã hội mới” (V.I. 
Lênin, 1980: 56). 
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản khác so 
với thời Mác: Thứ nhất, cuộc cách 
mạng khoa học - kỹ thuật mới đang 
phát triển rất nhanh và khác rất nhiều 
so với hai cuộc cách mạng kỹ thuật 
trước về quy mô, tốc độ, chiều sâu. 
Cuộc cách mạng mới này là nhân tố 
chủ yếu làm cho kinh tế tăng trưởng 
và nâng cao năng suất lao động, nâng 
cao vai trò tầng lớp trí thức; Thứ hai, 
chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước 
có sự phát triển lớn; tư bản được 
quốc tế hóa, toàn cầu hóa, vai trò của 
các công ty xuyên quốc gia không 
ngừng mở rộng và tăng cường trong 
nền kinh tế thế giới. Trong điều kiện 
lực lượng sản xuất phát triển, năng 
suất lao động cao thì thu nhập của 
người lao động, điều kiện lao động và 
đời sống được cải thiện rõ rệt; Thứ 
ba, chủ nghĩa thực dân cũ bị phá sản, 
chủ nghĩa thực dân mới bề ngoài thừa 
nhận sự độc lập về chính trị của các 
nước vốn là thuộc địa và phụ thuộc 
nhưng trên thực tế dùng mọi thủ đoạn 
trực tiếp và gián tiếp để bóc lột, kiểm 
soát, khống chế những nước này về 
kinh tế và chính trị. Vì vậy, mâu thuẫn 
giữa các nước này ngày càng sâu 
sắc, khoảng cách giữa các nước phát 
triển và đang phát triển, nước giàu và 
nước nghèo càng tăng lên, các nước 
đang phát triển đang đấu tranh đòi các 
nước phát triển phải giảm nợ, xóa nợ; 
Thứ tư, hình thành các tổ chức quốc 
tế và khu vực về kinh tế và chính trị. 
Tiêu biểu nhất là Liên hiệp quốc và 
các tổ chức như UNDP, UNFPA, 
PAO, UNICEF, UNHCR, UNESCO 
Ngoài ra, còn những tổ chức khác 
như IMF, WB, WTO Các tổ chức 
khu vực như EU, ASEAN, ASEM, 
APEC, AFTA, MERCOSUR các tổ 
chức này vừa phản ánh xu thế toàn 
cầu hóa, khu vực hóa, vừa phản ánh 
sự điều hòa quốc tế và những mâu 
thuẫn của thời đại (Lê Hữu Nghĩa, 
2017: 60-61). 
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời 
trong thời đại máy hơi nước, thời đại 
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, 
còn bây giờ là thời đại cách mạng 
khoa học và công nghệ, thời đại điện 
tử và tin học, thời đại toàn cầu hóa. 
Tuy nhiên, cuộc cách mạng khoa học 
và công nghệ diễn ra trên mọi phương 
diện, tăng tốc với những công nghệ 
cao (vật liệu mới, sinh học, thông tin, 
vũ trụ) càng cho thấy tính hợp lý 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
20 
của nguyên lý mácxít về sự thay thế 
hành thái kinh tế - xã hội mà tương lai 
là xã hội xã hội chủ nghĩa. Bởi vì: Một 
là, sự phát triển cao độ của lực lượng 
sản xuất làm tăng lên tính chất xã hội 
hóa trên phạm vi quốc gia và quốc tế, 
tạo điều kiện cho việc xóa bỏ chế độ 
tư hữu và đối kháng giai cấp; Hai là, 
lực lượng sản xuất phát triển cao sẽ 
đặt cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc 
thực hiện nguyên tắc phân phối xã hội 
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; Ba 
là, việc phát triển cao độ lực lượng 
sản xuất và khoa học - kỹ thuật chuẩn 
bị tiền đề cho việc nâng cao phẩm 
chất và phát triển tự do, toàn diện con 
người; Bốn là, sự phát triển của lực 
lượng sản xuất và khoa học kỹ thuật 
không xóa bỏ được mâu thuẫn cố hữu 
của chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn giữa 
tư sản và người lao động tiếp tục tồn 
tại, khoảng cách giàu nghèo càng mở 
rộng, phân phối của cải bất hợp lý, 
nạn thất nghiệp tăng lên, nhiều vấn đề 
xã hội trở nên trầm trọng hơn (Lê Hữu 
Nghĩa, 2017: 59-60). 
Có nghĩa là, trong chủ nghĩa tư bản 
hiện đại, lực lượng sản xuất ngày 
càng phát triển cao, áp dụng rộng rãi 
kỹ thuật tự động hóa với những 
phương tiện hiện đại như máy tính 
điện tử, trí tuệ nhân tạo, rôbốt; có 
sự thay đổi hình thức của quan hệ sản 
xuất cả về sở hữu, quản lý và phân 
phối; có sự biến đổi của các hình thức 
dân chủ, áp dụng chính sách xã hội; 
có sự phát triển tầng lớp trung lưu; có 
sự xuất hiện kinh tế tri thức và sự tăng 
lên về vai trò của tầng lớp trí thức và 
“lao động trí tuệ”; có sự thay đổi của 
giai cấp công nhân về số lượng, chất 
lượng, mức sống, học vấn, trình độ kỹ 
thuật và cơ cấu nghề nghiệp; Không 
thấy những thay đổi đó thì sẽ không 
hiểu đầy đủ về chủ nghĩa tư bản hiện 
đại, song những thay đổi đó không 
làm mất đi bản chất của chủ nghĩa tư 
bản với tư cách là một chế độ xã hội 
dựa trên sự áp bức bất công, sự 
thống trị và bóc lột giá trị thặng dư đối 
với nhân dân lao động Chừng nào 
chủ nghĩa tư bản cùng với mâu thuẫn, 
quy luật khách quan vốn có của nó 
còn tồn tại thì chừng đó chủ nghĩa 
Mác - Lênin - lý luận giải phóng giai 
cấp công nhân và nhân dân lao động 
vẫn còn giá trị thực tiễn (Lê Hữu 
Nghĩa, 2017: 59-62). 
Chính vì vậy, hiện nay trong công 
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã 
hội chủ nghĩa, chúng ta cần tuyệt đối 
trung thành và sáng tạo trong vận 
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, cần quán 
triệt nghiên cứu không chỉ là nền tảng 
lý luận chính trị về phương diện chính 
trị - xã hội, một cương lĩnh chính trị - 
khoa học về mặt hành động cách 
mạng, một chỉnh thể toàn vẹn về mặt 
cấu trúc hệ thống, một thực thể vận 
động và thống nhất trên bình diện 
khoa học - thực tiễn, mà còn là một lý 
thuyết thực tiễn mở về một phương 
diện xã hội - lịch sử và là một tổng thể 
phương pháp luận khoa học và cách 
mạng, như chính bản thân học thuyết 
Mác - Lênin chứa đựng và thể hiện 
(Học viện Chính trị Công an nhân dân, 
2017: 41). 
NGUYỄN THỊ HIỀN OANH – SỨC SỐNG CỦA TƯ TƯỞNG XÃ HỘI... 
21 
3. KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN 
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA 
HIỆN NAY 
Sự kiên định con đường đi lên chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam xuất phát từ 
những cơ sở chủ yếu sau đây: 
Thứ nhất, con đường đi lên chủ nghĩa 
xã hội là con đường đúng mà lịch sử 
dân tộc, nhân dân ta, Đảng Cộng sản 
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 
lựa chọn 
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã 
hình thành một hệ thống quan điểm 
hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở 
Việt Nam. Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu 
chung của chủ nghĩa xã hội và mục 
tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh là một. 
“Chủ nghĩa xã hội là trước hết nhằm 
làm cho nhân dân lao động thoát nạn 
bần cùng, làm cho mọi người có công 
ăn việc làm, được ấm no và sống một 
đời hạnh phúc” (Hồ Chí Minh, 2011, 
tập 10: 17); “Chủ nghĩa xã hội là mọi 
người dân được áo ấm cơm no, nhà 
ở tử tế, được học hành” (Hồ Chí Minh, 
2011, tập 10: 375). 
Ở Việt Nam, nhận thức về chủ nghĩa 
xã hội bắt đầu từ những năm 20 của 
thế kỷ XX, khi Nguyễn Ái Quốc tiếp 
thu chủ nghĩa Mác - Lênin và xác định 
con đường đấu tranh giải phóng dân 
tộc Việt Nam theo con đường cách 
mạng vô sản. Thực  ... đường giành độc lập, tự 
do cho dân tộc và đem lại hạnh phúc 
cho nhân dân. Điểm lại lịch sử cách 
mạng nước ta từ cuối thế kỷ XIX đầu 
thế kỷ XX có thể thấy rất rõ điều này. 
Chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí 
Minh tiếp cận được chủ nghĩa Mác - 
Lênin và truyền bá tư tưởng đó vào 
Việt Nam, gắn với sự ra đời của Đảng 
Cộng sản Việt Nam thì bước ngoặt 
căn bản trong phong trào yêu nước 
của dân tộc ta mới được xác lập; 
đánh dấu sự kết thúc thời kỳ khủng 
hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước 
của dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam 
tiến lên. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã 
khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, 
chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa 
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách 
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (Hồ 
Chí Minh, 2011, tập 2: 289). 
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên 
của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 
1930) đã xác định rõ con đường đấu 
tranh làm cho nước Nam hoàn toàn 
độc lập để đi tới xã hội cộng sản. 
Luận cương chính trị tháng 10/1930 
đã xác định cách mạng Việt Nam “bỏ 
qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng 
lên con đường xã hội chủ nghĩa” 
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005: 94). 
Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng 
sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái 
Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập đã lãnh 
đạo toàn dân tộc Việt Nam thực hiện 
mục tiêu, con đường đã lựa chọn và 
đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi 
khác. Thắng lợi của Cách mạng tháng 
Tám 1945 chấm dứt chế độ phong 
kiến, thuộc địa, mở ra thời đại độc lập 
của dân tộc. Thắng lợi của cuộc kháng 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
22 
chiến chống thực dân, đế quốc, giải 
phóng dân tộc, thống nhất đất nước. 
Thắng lợi của công cuộc đổi mới đưa 
đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội 
với những thành tựu to lớn và ý nghĩa 
lịch sử của ngày hôm nay. 
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội đã 
được khẳng định qua thực tiễn lịch sử 
cách mạng Việt Nam. Hiện nay, đất 
nước ta đang vững bước đi trên con 
đường ấy, ra sức đẩy mạnh sự nghiệp 
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước với một vị thế và tư thế 
mới. Vị thế và tư thế mới của những 
người là chủ và làm chủ vận mệnh 
của mình. Đảng khẳng định: chỉ có 
chủ nghĩa xã hội mới đem lại cuộc 
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và địa 
vị làm chủ chân chính cho nhân dân, 
nâng tầm cao uy tín, vị thế của dân 
tộc Việt Nam trên trường quốc tế. 
Thứ hai, kiên định con đường đi lên 
chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy 
luật phát triển của lịch sử 
Hiện nay, một số nước vẫn đang xây 
dựng chủ nghĩa xã hội với những 
thành tựu đáng trân trọng và tự hào 
với sự dõi theo của nhân dân nhiều 
nước trên thế giới. Dù còn nhiều khó 
khăn, thách thức, phức tạp nhưng sự 
phát triển của các nước xã hội chủ 
nghĩa còn lại đã minh chứng một cách 
rõ ràng: chủ nghĩa xã hội là hiện thực, 
đã và đang cải cách, đổi mới, được 
xây dựng, phát triển trên cơ sở những 
bài học kinh nghiệm rút ra trong quá 
khứ; từ sự nhận thức đầy đủ và phát 
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin 
trong điều kiện mới, dựa trên cơ sở 
“hiện thực khách quan” mới, căn cứ 
vào đặc điểm, đặc thù của từng quốc 
gia - dân tộc. Điều đó cho thấy sức 
sống mới của chủ nghĩa xã hội trong 
bối cảnh lịch sử mới. 
Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã 
hội ở Liên Xô và Đông Âu không đồng 
nghĩa với sự sụp đổ chủ nghĩa Mác - 
Lênin, bởi không có nguyên nhân từ 
bản thân học thuyết này. Đây là điều 
mà nhiều nhà lãnh đạo Liên Xô thời kỳ 
đó thừa nhận qua phát biểu và hồi ký. 
Theo đó, nguyên nhân chủ yếu và trực 
tiếp của sự sụp đổ bắt nguồn từ chủ 
nghĩa giáo điều và xét lại trong đường 
lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của 
đảng cầm quyền, cùng sự phản bội 
của một số người lãnh đạo cao nhất ở 
đó đối với những nguyên tắc cơ bản 
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do vậy, 
đây là sự sụp đổ của một mô hình chủ 
nghĩa xã hội cụ thể, không đồng nghĩa 
với “sự cáo chung chủ nghĩa Mác - 
Lênin”. Sự sụp đổ đó chứng tỏ: Đảng 
nào xa rời những nguyên tắc cơ bản 
của chủ nghĩa Mác - Lênin, thì đảng 
đó không còn là Đảng Mácxít - 
Lêninnít chân chính, công cuộc xây 
dựng chủ nghĩa xã hội ở đó khó đi 
đến thành công. Từ sự sụp đổ chế độ 
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông 
Âu, chúng ta có thể nhận rõ hơn 
những khuyết tật của mô hình chủ 
nghĩa xã hội “Xô-viết” và nhiều bài học 
quan trọng về đấu tranh để giữ vững 
chính quyền cách mạng, nhất là về sự 
kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin. 
Nhận thức đúng nguyên nhân của 
những sai lầm, khuyết điểm trong thời 
NGUYỄN THỊ HIỀN OANH – SỨC SỐNG CỦA TƯ TƯỞNG XÃ HỘI... 
23 
kỳ mới giành độc lập, thống nhất đất 
nước, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã 
hội, tại Đại hội VI (năm 1986) Đảng ta 
khởi xướng công cuộc đổi mới, đề ra 
đường lối phát triển nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
và đạt được những thành tựu to lớn 
có ý nghĩa lịch sử, được thế giới ghi 
nhận, đánh giá cao. Những thành tựu 
to lớn đó có nguyên nhân cơ bản là 
Đảng và nhân dân ta tiến hành công 
cuộc đổi mới trên cơ sở kiên định và 
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực 
tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là minh 
chứng sinh động cho sức sống mãnh 
liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc sống 
ngày nay. 
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII 
của Đảng khẳng định: “Đường lối đổi 
mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; 
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở 
nước ta là phù hợp với thực tiễn của 
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch 
sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016: 
66). 
Thứ ba, kiên định con đường đi lên 
chủ nghĩa xã hội là trung thành với 
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh, đi tiếp con đường đã lựa 
chọn và hiện thực hóa con đường đó 
Đảng ta kiên định chủ nghĩa Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có cơ sở 
lý luận và thực tiễn khách quan. 
Trước hết, về phương diện lý luận, đó 
là sự phụ thuộc về bản chất chính trị 
của một đảng. Trong thực tiễn, bất cứ 
đảng chính trị nào cũng đều lựa chọn 
một hệ tư tưởng nhất định làm cơ sở 
tập hợp lực lượng, thống nhất hành 
động. Nếu không có hệ tư tưởng, lý 
luận dẫn đường, đảng chính trị chỉ là 
một tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu 
thống nhất và không có sức mạnh. 
Ngay từ năm 1927, quá trình vận 
động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc 
đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải 
có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai 
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ 
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ 
nghĩa cũng như người không có trí 
khôn, tàu không có bàn chỉ nam” (Hồ 
Chí Minh, 2011, tập 2: 289). Các 
chính đảng theo khuynh hướng tư sản 
bao giờ cũng chọn hệ tư tưởng tư 
sản, còn các chính đảng mác-xít thì 
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, làm nền 
tảng tư tưởng của mình. 
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa 
xã hội là sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ 
Chí Minh, của Đảng và nhân dân ta. 
Sự lựa chọn đúng đắn đã giúp cách 
mạng Việt Nam giành được chính 
quyền, làm nên những thắng lợi vĩ đại 
trong các cuộc kháng chiến chống 
xâm lược, hoàn thành cách mạng dân 
tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước 
tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện 
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo 
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đạt được 
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa 
lịch sử. Việt Nam từ một nước bị xóa 
tên trên bản đồ chính trị thế giới đã trở 
thành một nước độc lập, có chủ 
quyền. Nhân dân Việt Nam từ thân 
phận người nô lệ trở thành người làm 
chủ đất nước (Nguyễn Thị Hiền Oanh, 
2017: 97). 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
24 
Đảng và nhân dân ta tiếp tục đưa đất 
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đẩy 
mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng 
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội 
chủ nghĩa. Đó là quá trình làm cho đất 
nước phồn vinh, nhân dân được ấm 
no, hạnh phúc, quyền làm chủ của 
nhân dân được đảm bảo, thực hiện 
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Đó chính là quá trình hiện thực hóa 
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, 
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa 
xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới. 
Thứ tư, kiên định con đường đi lên 
chủ nghĩa xã hội, chúng ta kiên quyết 
bảo vệ con đường đó 
Quá trình đổi mới theo con đường xã 
hội chủ nghĩa đã tạo ra những chuyển 
biến căn bản và sâu sắc diện mạo của 
đất nước, xã hội và đời sống nhân 
dân. Một là, đã chuyển đổi từ nền kinh 
tế kế hoạch hóa tập trung, khép kín, 
kinh tế hiện vật, công hữu, bao cấp 
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều 
thành phần, đa sở hữu, vận hành theo 
cơ chế thị trường có sự quản lý của 
nhà nước, nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa; Hai là, về 
chính trị, từ thực hiện những chức 
năng, nhiệm vụ của chuyên chính vô 
sản sang xây dựng, hoàn thiện hệ 
thống chính trị, xây dựng nhà nước 
pháp quyền, không ngừng hoàn thiện 
hệ thống pháp luật, phát huy dân chủ 
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền 
công dân, quyền con người. Đổi mới 
và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng 
lực cầm quyền của Đảng; Ba là, thực 
hiện tốt hơn những vấn đề xã hội và 
chính sách xã hội, củng cố đoàn kết 
và đồng thuận xã hội, bảo đảm an 
sinh xã hội, không ngừng cải thiện đời 
sống vật chất và văn hóa, tinh thần 
của nhân dân, từng bước thực hiện 
tiến bộ, công bằng xã hội; Bốn là, tích 
cực chủ động hội nhập quốc tế, thực 
hiện đường lối đối ngoại, tự chủ, đa 
phương hóa, đa dạng hóa các quan 
hệ. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, 
thành viên có trách nhiệm của cộng 
đồng quốc tế, khẳng định vị thế của 
Việt Nam trên trường quốc tế; tăng 
cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ 
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống 
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của 
Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân 
tộc. 
Với những thành tựu bước đầu trong 
lĩnh vực kinh tế chính trị, xã hội ở 
nước ta đã nói lên tầm quan trọng to 
lớn của vấn đề đổi mới và phát triển lý 
luận ở Việt Nam hiện nay. Đây là một 
quá trình hết sức khó khăn, nhưng chỉ 
bằng cách đó chúng ta mới bảo vệ 
được những tư tưởng của chủ nghĩa 
xã hội khoa học, mới bảo vệ được sự 
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở 
nước ta. Nhờ có những kết quả thực 
tiễn vừa qua mà niềm tin vào con 
đường xã hội chủ nghĩa ở nhiều 
người, vốn có lúc bị lung lay, đã tự 
nhận thức lại. Những đổi mới và phát 
triển về lý luận, cùng với những thành 
công bước đầu trong thực tiễn đổi mới 
đã tiếp thêm sức sống cho tư tưởng 
xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, một lần 
NGUYỄN THỊ HIỀN OANH – SỨC SỐNG CỦA TƯ TƯỞNG XÃ HỘI... 
25 
nữa vai trò quan trọng của lý luận lại 
được khẳng định trong thực tế đổi mới 
ở nước ta. 
Việt Nam là một dân tộc đã từng là 
nạn nhân của chủ nghĩa tư bản, chủ 
nghĩa đế quốc xâm lược, mỗi người 
dân Việt Nam, hơn ai hết thấu hiểu 
bản chất thực tế của chế độ tư bản 
chủ nghĩa là bất công, nô dịch, bần 
cùng hóa đối với nhân dân lao động. 
Chủ nghĩa tư bản là mới đối với Việt 
Nam nhưng người Việt Nam không xa 
lạ với bản chất bóc lột, bất công của 
chủ nghĩa tư bản. Vì thế, “khước từ” 
con đường phát triển tư bản chủ 
nghĩa, kiên định con đường xã hội chủ 
nghĩa đã là lựa chọn tất yếu đối với 
dân tộc Việt Nam. 
Dưới sự lãnh đạo Chủ tịch Hồ Chí 
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, 
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, nắm vững ngọn cờ độc lập dân 
tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta 
đã giành lại độc lập, tự do cho dân 
tộc; thống nhất non sông và ngày nay 
cả nước đang trên con đường xây 
dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cũng 
nhận thấy trong công cuộc xây dựng 
xã hội mới, Đảng ta cũng có lúc phạm 
phải sai lầm, khuyết điểm. Nguyên 
nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết 
điểm đã được Đảng ta chỉ rõ. Do vậy, 
không thể dựa vào những khuyết 
điểm trong công tác lãnh đạo của 
Đảng thời gian qua để bác bỏ vai trò 
của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với 
cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch 
sử cách mạng dưới sự lãnh đạo của 
Đảng Cộng sản Việt Nam là minh 
chứng làm “phá sản” những quan 
điểm thù địch, sai trái; đồng thời làm 
cho nhân dân ta nhận thức đầy đủ, rõ 
ràng hơn, vững tin hơn vào sự lãnh 
đạo của Đảng và con đường mà dân 
tộc ta đang đi, cái đích chúng ta sẽ 
đến (Học viện Chính trị Công an nhân 
dân, 2017: 270). Đi lên chủ nghĩa xã 
hội là tất yếu khách quan, phù hợp với 
xu thế lịch sử, chúng ta tiếp tục kiên 
định và hiện thực hóa lý luận chủ 
nghĩa xã hội. Kiên định chủ nghĩa 
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa 
xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp 
đổi mới. Đó chính là câu trả lời rõ 
ràng, đanh thép của chúng ta, là vũ 
khí sắc bén làm thất bại mọi âm mưu, 
thủ đoạn chống phá của các thế lực 
thù địch, cơ hội chính trị, bảo vệ vững 
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn 
lãnh thổ của Tổ quốc. Đó vừa là niềm 
vinh dự, tự hào, là lương tâm, trách 
nhiệm, là quyền và nghĩa vụ của mỗi 
công dân Việt Nam. 
4. KẾT LUẬN 
Từ đường lối cách mạng xã hội chủ 
nghĩa trong văn kiện Đại hội III (tháng 
9/1960), Đại hội IV (tháng12/1976), 
đến đường lối đổi mới của Đại hội VI 
(tháng 12/1986) là bước phát triển rất 
quan trọng về tư duy lý luận của 
Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ 
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới 
toàn diện do Đại hội VI khởi xướng là 
kết tinh của tư duy lý luận mới, nhận 
thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
26 
thực tiễn Việt Nam, khắc phục tư duy 
chủ quan, nóng vội, giáo điều. Đó 
cũng là kết quả của sự tổng kết và 
khảo nghiệm thực tiễn rất phong phú 
và sinh động. Trên cơ sở đổi mới tư 
duy lý luận và trả lời những vấn đề do 
thực tiễn đặt ra mà Đại hội VII của 
Đảng (tháng 6/1991) thông qua 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và 
Cương lĩnh này đã được bổ sung, 
phát triển tại Đại hội XI của Đảng 
(tháng 1/2011). 
Với cái nhìn khoa học và biện chứng, 
chúng ta tin tưởng rằng với một Đảng 
Cộng sản kiên định lấy chủ nghĩa 
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 
làm kim chỉ nam cho mọi hành động, 
Đảng ta nhất định sẽ lãnh đạo thành 
công sự nghiệp đổi mới và giữ vững 
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với 
chủ nghĩa xã hội.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà 
Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2005. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2. Hà Nội: Nxb. Chính 
trị Quốc gia. 
3. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập, tập 2. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
4. Học viện Chính trị Công an nhân dân. 2017. Đấu tranh chống các quan điểm, luận 
điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hà Nội: Nxb. Chính trị 
Quốc gia - Sự thật. 
5. Lê Hữu Nghĩa. 2017. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với công cuộc đổi 
mới của Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
6. Lênin, V.I. 1980. Toàn tập , tập 23. Mátxcơva: Nxb. Tiến bộ. 
7. Nguyễn Thị Hiền Oanh. 2017. Nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của sinh viên các 
trường đại học tại TPHCM qua dạy và học các môn lý luận chính trị hiện nay. Hà Nội: 
Nxb. Lý luận Chính trị. 
8. Phạm Quang Nghị (chủ biên). 2017. Một số vấn đề lý luận về nghiệp vụ công tác tư 
tưởng. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. 

File đính kèm:

  • pdfsuc_song_cua_tu_tuong_xa_hoi_chu_nghia_va_su_kien_dinh_con_d.pdf