Tác dụng kháng khuẩn của Loxain trên invitro và điều trị bỏng trên mô hình bỏng ở chuột cống trắng
Chế phẩm Loxain được dùng đánh giá tác dụng kháng khuẩn trên Invitro và tác dụng điều trị bỏng trên
mô hình gây bỏng nhiệt thực nghiệm.Tác dụng kháng khuẩn của Loxain được tiến hành trên Invitro, thử
trên 4 chủng quốc tế là Pseudomonas aeruginosa (ATCC 27853), Staphylococcus aureus (ATCC 25913),
Escherichia coli (ATCC 25922), Klebsiella pneumoniae (ATCCBAA - 1705). Chuột cống trắng chủng
Wistar cả hai giốngđược chia thành 5 nhóm, nhóm 1 không tác động gì, nhóm 2 - 5 được gây bỏng nhiệt
phía trước đùi với kích thước tương tự nhau, sau đó nhóm 2 được bôi dầu cọ 4 lần/ngày, lô 3
bôisulfadiazin - bạc 4 lần/ngày, lô 4 và 5 được bôi tương ứng Loxain 4 lần/ngày và 6 lần/ngày liên tục
trong 21 ngày. Sau đó giết chuột, lấy mẫu da tại vết bỏng để làm giải phẫu bệnh. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: Loxain nồng độ từ 0,025 - 0,4g/ml không ức chế 4 chủng vi khuẩn được thử. Trên mô hình gây bỏng
nhiệt thực nghiệm: Ở các lô dùng Loxain thời gian liền khỏi vết thương bỏng diễn ra nhanh, hiệu quả điều
trị vết thương bỏng của Loxain bôi 4 lần/ngày và 6 lần/ngày là tương đương nhau và tương đương với lô
dùng sulfadiazin - bạc trong 21 ngày điều trị liên tục.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác dụng kháng khuẩn của Loxain trên invitro và điều trị bỏng trên mô hình bỏng ở chuột cống trắng
TCNCYH 107 (2) - 2017 7 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TÁC DỤNG KHÁNG KHUẨN CỦA LOXAIN TRÊN INVITRO VÀ ĐIỀU TRỊ BỎNG TRÊN MÔ HÌNH BỎNG Ở CHUỘT CỐNG TRẮNG Trần Thanh Tùng1, Phạm Thị Vân Anh1, Nguyễn Trọng Thông1, Đào Kim Long2 1Bộ môn Dược lý – Trường Đại học Y Hà Nội 2Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Nam Y Aurvini Chế phẩm Loxain được dùng đánh giá tác dụng kháng khuẩn trên Invitro và tác dụng điều trị bỏng trên mô hình gây bỏng nhiệt thực nghiệm.Tác dụng kháng khuẩn của Loxain được tiến hành trên Invitro, thử trên 4 chủng quốc tế là Pseudomonas aeruginosa (ATCC 27853), Staphylococcus aureus (ATCC 25913), Escherichia coli (ATCC 25922), Klebsiella pneumoniae (ATCCBAA - 1705). Chuột cống trắng chủng Wistar cả hai giốngđược chia thành 5 nhóm, nhóm 1 không tác động gì, nhóm 2 - 5 được gây bỏng nhiệt phía trước đùi với kích thước tương tự nhau, sau đó nhóm 2 được bôi dầu cọ 4 lần/ngày, lô 3 bôisulfadiazin - bạc 4 lần/ngày, lô 4 và 5 được bôi tương ứng Loxain 4 lần/ngày và 6 lần/ngày liên tục trong 21 ngày. Sau đó giết chuột, lấy mẫu da tại vết bỏng để làm giải phẫu bệnh. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Loxain nồng độ từ 0,025 - 0,4g/ml không ức chế 4 chủng vi khuẩn được thử. Trên mô hình gây bỏng nhiệt thực nghiệm: Ở các lô dùng Loxain thời gian liền khỏi vết thương bỏng diễn ra nhanh, hiệu quả điều trị vết thương bỏng của Loxain bôi 4 lần/ngày và 6 lần/ngày là tương đương nhau và tương đương với lô dùng sulfadiazin - bạc trong 21 ngày điều trị liên tục. Từ khóa: Loxain, tác dụng kháng khuẩn, chuột cống chủng Wistar, bỏng nhiệt trên da, liền sẹo I. ĐẶT VẤN ĐỀ Bỏng là chấn thương thường gặp, có nhiều nguyên nhân gây ra như nhiệt, hoá chất, phóng xạ..., trong đó bỏng do nhiệt hay gặp nhất, chiếm tới 84 - 94% tổng số nạn nhân bỏng [1]. Tuỳ mức độ bỏng mà bệnh nhân phải chịu những ảnh hưởng với những mức độ khác nhau, bệnh nhân bỏng thường phải điều trị dài ngày, tốn kém. Nếu điều trị không tốt có thể sẽ để lại những di chứng lâu dài cho người bệnh làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ, khả năng lao động, sinh hoạt, thậm chí gây tử vong cho người bệnh. Hiện nay, có nhiều loại thuốc dùng để điều trị tại chỗ vết thương bỏng được sản xuất ở trong nước hoặc nhập từ nước ngoài. Ở trong nước, một số thuốc y học cổ truyền đã được nghiên cứu, kế thừa, dựa trên cơ sở khoa học và được ứng dụng trong lâm sàng như: cao và mỡ Maduxin từ cây sến, mật ong, Chitosan [2 - 6]. Bên cạnh các thuốc y học cổ truyền, các chất kháng khuẩn, kháng sinh đang được sử dụng phổ biến trong điều trị tại chỗ vết thương bỏng ở nước ta và trên thế giới như kem sulfadiazine - bạc 1% [7]. Các thuốc của nước ngoài có tác dụng tương đối tốt nhưng chi phí cao không phù hợp với đại bộ phận bệnh nhân ở nước ta nói chung và bệnh nhân bỏng nói riêng. Việc nghiên cứu tìm kiếm các thuốc mới từ nguồn nguyên liệu trong nước, có trữ lượng dồi dào, giá thành không cao, tác dụng điều trị tại chỗ Địa chỉ liên hệ: Trần Thanh Tùng, Bộ môn Dược lý, Trường Đại học Y Hà Nội Email: tranthanhtung@hmu.edu.vn Ngày nhận: 02/3/2017 Ngày được chấp thuận: 25/4/2017 8 TCNCYH 107 (2) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC vết thương bỏng tốt vẫn luôn được đặt ra trong công tác điều trị bỏng. Loxain có thành phần chủ yếu là curcumin và β-caroten, đây là hai hoạt chất có nhiều trong củ nghệ và quả gấc, những loại củ, quả rất phổ biến ở nước ta. β-caroten có tác dụng tăng sức đề kháng của cơ thể, kích thích biệt hoá tế bào biểu mô, sinh tiết nhầy [8]. Curcu- min đã được chứng minh có tác dụng kháng khuẩn và nhanh liền sẹo. Theo nghiên cứu của Mehrabani và cộng sự đã chỉ ra curcumin dạng kem 2% có tác dụng làm giảm diện tích vết bỏng và nhanh liền sẹo trên mô hình gây bỏng nhiệt trên chuột cống chủng Sprague- Dawley [9]. Dựa trên cơ sở đó, đề tài được tiến hành nhằm nghiên cứu tính kháng khuẩn của sản phẩm Loxain trên Invitro, đánh giá tác dụng điều trị bỏng của chế phẩm Loxain trên mô hình gây bỏng nhiệt thực nghiệm ở chuột cống trắng. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng 1.1. Thuốc và chất liệu nghiên cứu - Thuốc nghiên cứu: Loxain ở dạng dung dịch 500ml chất lỏng trong suốt, màu đỏ cam đồng nhất. Nồng độ 1,6g dược liệu/ml, được Công ty Cổ phần sản xuất và thương mại Nam Y Aurvini sản xuất, đạt tiêu chuẩn cơ sở. Loxain được pha loãng trong dung môi là dầu cọ. - Thuốc dùng trong nghiên cứu: Sulfadiazin- bạc (biệt dược Silvadene®) dạng kem bôi 1% sản phẩm của Công ty cổ phần Dược Trung Ương Huế (Medipharco). 1.2. Chủng vi khuẩn mẫu quốc tế Bốn chủng vi khuẩn quốc tế: Pseudomonas aeruginosa (ATCC 27853), Staphylococcus aureus (ATCC 25913), Escherichia coli (ATCC 25922), Klebsiella pneumoniae(ATCCBAA- 1705) được nhập, bảo quản và nuôi cấy và nghiên cứu tại Khoa Vi sinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. 1.3. Động vật nghiên cứu Chuột cống chủng Wistar cả hai giống, khoẻ mạnh, cân nặng 285 ± 30g do Trung tâm động vật thí nghiệm Đan Phượng - Hà Tây cung cấp. Động vật được nuôi trong phòng thí nghiệm 7 ngày trước khi nghiên cứu và trong suốt thời gian nghiên cứu trong điều kiện phòng thí nghiệm với đầy đủ thức ăn và nước uống tại Bộ môn Dược lý - Trường Đại học Y Hà Nội. 2. Phương pháp 2.1. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của Loxain trên Invitro * Chuẩn bị thuốc thử: Pha loãng bậc 2 các dung dịch thử nghiệm vào các ống tube (1, 2, 4, 8, 16, 32) bằng dầu cọ. Dung dịch gốc có độ đậm đặc cao nên nồng độ pha loãng từ 1/2 - 1/32 được chọn để đánh giá hoạt tính kháng khuẩn. * Chuẩn bị huyền dịch: Chủng vi khuẩn cần thử được nuôi cấy thuần, qua đêm. Lấy 3 - 5 khuẩn lạc hòa tan vào nước muối 0,9%, điều chỉnh để đạt huyền dịch có nồng độ 0,5 Mac Farland (tương đương 108 CFU/1ml). - Trong vòng 15 phút sau, pha loãng huyền dịch trên bằng canh thang Muller-Hinton vô trùng (đối với vi khuẩn dễ mọc) hoặc canh thang Muller - Hinton có 2,5-5 % máu cừu, để đạt nồng độ 5 x 105 CFU/1ml. Pha loãng huyền dịch với dung dịch chứa vi khuẩn để có TCNCYH 107 (2) - 2017 9 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Loxain với các nồng độ từ 0,025 - 0,4g dược liệu/ml. - Ủ các ống tube ở 370C/18 - 24 giờ. Sau thời gian ủ ấm trên, lấy dịch ở mỗi tube cấy vào thạch máu. Ủ các đĩa thạch ở 370C/18-24 giờ, có hoặc không có CO2 tùy thuộc vào chủng vi khuẩn cần thử. Kiểm tra các đĩa thạch máu xem sự mọc của vi khuẩn: đạt khi ở đĩa chứng, vi khuẩn mọc tốt và ở tất cả các đĩa vi khuẩn mọc thuần nhất, khi đó xác định nồng độ ức chế tối thiểu. Trong nghiên cứu với mỗi chủng vi khuẩn đều pha loãng 5 nồng độ: 1/2, 1/4, 1/8, 1/16 và 1/32 so với dung dịch gốc. Mỗi nồng độ được thử 5 mẫu với mỗi chủng vi khuẩn. Nhận định kết quả: tìm nồng độ ức chế tối thiểu. 2.2. Đánh giá tác dụng của Loxain trên mô hình gây bỏng thực nghiệm Chuột được chia thành 5 lô, mỗi lô 13 con: - Lô 1 (chứng sinh học): không gây tổn thương bỏng. - Lô 2 (mô hình): gây bỏng trên da. Bôi dầu cọ 4 lần/ngày. - Lô 3 (chứng dương): gây bỏng trên da. Bôi sulfadiazin - bạc 4 lần/ngày. - Lô 4 (Loxain liều thấp): gây bỏng trên da. Bôi Loxain 4 lần/ngày. - Lô 5 (Loxain liều cao): gây bỏng trên da. Bôi Loxain 6 lần/ngày. 2.3. Sơ đồ nghiên cứu quy trình gây bỏng nhiệt Chuột ở các lô được gây tổn thương bỏng trên da theo mô hình gây bỏng nhiệt bằng dụng cụ kim loại theo mô tả của Durmus AS và cộng sự, Vũ Thị Ngọc Thanh [6; 10]. * Cạo lông chuột và gây bỏng Cạo lông chuột tại vị trí ngang mào chậu với diện tích 2 bên là 6 x 6cm.Vật gây bỏng kim loại (nặng 200g, đường kính 2,5 cm) được nhúng trong nước sôi 1000C cho tới khi đạt nhiệt độ hằng định, đặt vuông góc lên vị trí cạo lôngchuột 35 giây và không được tác động thêm lực từ bên ngoài. * Cách thức bôi thuốc Dầu cọ, sulfadiazine - bạc và Loxain được nhỏ 0,1 ml/1vết bỏng, sau đó xoa đều 5 lần/1 vết bỏng trong 15 giây, đảm bảo phủ kín vết bỏng. Khoảng cách giữa các lần bôi cách nhau 2 giờ. 2.4. Chỉ số nghiên cứu * Tỷ lệ chết của chuột sau khi gây bỏng Sau khi gây bỏng, chuột được nuôi trong các chuồng riêng biệt cho ăn và uống nước hàng ngày như nhau giữa các chuồng. Đồng thời tiến hành quan sát, ghi lại ngày chết của chuột và lô tương ứng (nếu có). Bôi thuốc hoặc dầu cọ Gây bỏng Đo diện tích vết bỏng Đo diện tích vết bỏng, giải phẫu bệnh vết bỏng N0 N7 N14 N21 10 TCNCYH 107 (2) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC * Chỉ số hình thái đại thể Tình trạng tổn thương tại vết bỏng: sưng, nóng, đỏ, phù nề quan sát bằng mắt thường và ghi lại bằng máy ảnh kỹ thuật số. Vết bỏng khỏi là lúc bề mặt khô, mép vết bỏng tiến gần nhau, quan sát thấy không còn hiện tượng sưng tấy trên vết bỏng. Đo diện tích vết bỏng tại các ngày 7, 14, 21 sau khi gây bỏng. Tính phần trăm phục hồi tổn thương. Cách đo: áp giấy trong lên vùng tổn thương, dùng bút lông ghi lại theo viền tổn thương, sau đó scan lại hình ảnh đó, đo diện tích bằng phần mềm ImageJ Basics ver 1.38 đã được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận là phần mềm để đo diện tích cho các nghiên cứu y sinh học. * Chỉ số hình thái vi thể Tại thời điểm 21 ngày, lúc các vết bỏng đã bong hết vẩy và đang hồi phục hoặc đã khỏi, chuột được gây mê, lấy mô bệnh học ngẫu nhiên 3 chuột ở mỗi lô tại vị trí trung tâm tổn thương. Đánh giá sự tăng sinh tế bào sợi, tăng sinh mạch máu, tăng sinh sợi collagen, tỷ lệ biểu mô hóa vết thương. Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý theo thuật toán thống kê Microsoft Office Excel 2007. Kiểm định sự khác biệt của 2 giá trị trung bình bằng thuật toán χ2, sử dụng t-test Student. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. III. KẾT QUẢ 1. Đánh giá tác dụng của Loxain trên In vitro Loxain với nồng độ từ 0,025 - 0,4g dược liệu/ml được thử trên 4 chủng vi khuẩn Quốc tế là P.aeruginosa, S.aureus, E.coli, K.pneumoniae đều cho kết quả vi khuẩn mọc bình thường, không có khác biệt giữa nhóm chứng và nhóm dùng thuốc thử. Nên chúng tôi chưa xác định được nồng độ ức chế tối thiểu của Loxain. 2. Tác dụng của Loxain trên mô hình bỏng nhiệt thực nghiệm Tỷ lệ chết của các lô chuột Thời gian sau khi gây bỏng tỷ lệ chuột chết được ghi lại theo bảng sau: Bảng 1. Tỷ lệ chuột chết ở các lô chuột sau gây bỏng Lô Mô hình Chứng dương Loxain liều thấp Loxain liều cao Tỷ lệ chuột chết 2/13 0/13 1/13 1/13 Theo dõi nghiên cứu cho thấy: chuột chết trong thời gian từ ngày 4 đến ngày 7 sau khi gây bỏng, ban đầu nhận thấy chuột giảm vận động, ăn ít đi dần bỏ ăn và bỏ uống nước sau đó tử vong, tỷ lệ chết của lô bôi dầu cọ là cao nhất (2/13), Loxain cả 2 liều có tỷ lệ chết như nhau (1/13), lô bôi sulfadiazine - bạc là thấp nhất (0/13). TCNCYH 107 (2) - 2017 11 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2.2. Diễn biến đại thể tại vết bỏng Ngay sau khi dùng nhiệt để gây bỏng: vết bỏng có màu trắng ngà, không phồng rộp, có ranh giới rõ với vùng da lành. Khoảng 1 - 2 giờ sau, rìa xung quanh vết bỏng nhìn rõ quầng sung huyết. Ảnh minh hoạ: chuột số 13 sau khi gây bỏng Ảnh 2. Da chuột sau khi gây bỏng 1 giờẢnh 1. Da chuột ngay sau khi gây bỏng Các vết bỏng bôi dầu cọ - Sau 3 ngày, 100% các vết bỏng có loét. Vết bỏng ở trong tình trạng hoại tử, trên bề mặt có nhiều ổ loét. Các vết loét rộng dần, chiếm khoảng 50 - 55% diện tích bề mặt vết bỏng, chứa nhiều dịch tiết mầu đục. Vùng xung quanh vết bỏng phù nề, nhưng vẫn có ranh giới với vùng da lành. - Sau 7 ngày, đa số vết loét vẫn chảy dịch, một số vết loét đã khô và bắt đầu hình thành vảy tiết. Vùng da xung quanh vết bỏng vẫn sung huyết. - Sau 13 - 14 ngày, tất cả các vết bỏng đều đã hình thành vảy tiết và 14/22 vết bỏng bắt đầu bong vảy để lộ vùng tổn thương phía dưới đang phục hồi, các vết bỏng khô. Vùng da xung quanh tổn thương không còn sung huyết. - Ngày thứ 21, tất cả các vết bỏng đã bong vảy, 5/22 vết bỏng vẫn còn ướt, số còn lại đã khô, vùng da tổn thương thu hẹp. * Các vết bỏng bôi sulfadiazin-bạc 1%, Loxain liều thấp và Loxain liều cao - Ngày thứ 14, các vết bỏng bong vảy tiết nhanh, vết bỏng khô, hình thành sẹo sớm, vùng tổn thương còn rất nhỏ. - Ngày thứ 21, hầu hết các vết bỏng hồi phục, tạo thành sẹo nhỏ phẳng so với mặt da. 3. Mức độ thu hẹp diện tích bỏng Sau 7 ngày dùng thuốc, diện tích bỏng không có sự khác biệt ở tất cả các lô nghiên cứu. Từ ngày thứ 14 sau dùng thuốc, diện tích các vết bỏng đã bắt đầu thu hẹp rõ rệt. Kết quả được trình bày trong bảng 2. Loxain ở cả 2 liều có tác dụng làm thu hẹp diện tích bỏng nhanh hơn lô chứng bôi dầu cọ vào các ngày 14 và 21 sau dùng thuốc, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Mức độ thu hẹp diện tích bỏng ở lô bôi Loxain so với lô bôi sulfadiazine - bạc 1% tương đương nhau ở hầu hết các thời điểm (p > 0,05). Loxain liều thấp và liều cao có tác dụng làm thu hẹp diện tích vết bỏng tương đương nhau tại các thời điểm 14 và 21 ngày (p > 0,05) bảng 2. 12 TCNCYH 107 (2) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 2. Phần trăm thu hẹp diện tích vết bỏng trên da chuột Lô Thời điểm Thu hẹp diện tích vếtbỏng (%) ± SD p 2 (mô hình) N14 79,24 ± 8,95 N21 87,36 ± 2,83 3 (chứng dương) N14 87,12 ± 5,24 p3-2 < 0,05 N21 95,84 ± 1,79 p3-2 < 0,05 4 (loxain liều thấp) N14 88,90 ± 5,08 p4-2 0,05 N21 94,20 ± 2,61 p4-2 0,05 5 (loxain liều cao) N14 89,19 ± 5,45 p5-2 0,05 p5-4 > 0,05 N21 94,33 ± 3,33 p5-2 0,05 p5-4 > 0,05 X 4. Giải phẫu bệnh vi thể da tại vết bỏng Cấu trúc vi thể da chuột tại vị trí tổn thương bỏng được tiến hành tại thời điểm 21 ngày sau gây bỏng, mỗi lô lấy ngẫu nhiên 3 chuột, kết quả được tóm tắt như sau. Bảng 3. Giải phẫu bệnh da chuột sau 21 ngày Lô Mã chuột Kết quả Chứng sinh học 1, 2, 3 Da chuột bình thường. Các lớp thượng bì, trung bì, hạ bìnguyên vẹn Dầu cọ 15, 21, 22 Thượng bì tổn thương nhiều, bắt đầu có hiện tượng tăng sinh xơ và các tổ chức xung quanh. Viêm và xung huyết mức độ vừa lớp dưới thượng bì. Sulfdiazin - bạc 1% 25, 26, 33 Thượng bì tổn thương ít, đã có hiện tượng tăng sinh xơ và có hiện tượng liền sẹo, vẫn còn hiện tượng xung huyết ở vùng lớp dưới thượng bì. Loxain liều thấp 37, 44, 45 Thượng bì tổn thương ít, đã có hiện tượng tăng sinh xơ mạnh và liền sẹo, vẫn còn hiện tượng xung huyết ở vùng lớp dưới thượng bì. Loxain liều cao 50, 53, 56 Thượng bì tổn thương ít, đã có hiện tượng tăng sinh xơ mạnh và có hiện tượng liền sẹo, vẫn còn hiện tượng xung huyết ở vùng lớp dưới thượng bì. TCNCYH 107 (2) - 2017 13 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Ảnh 3. Chuột số 1 (chứng sinh học) (HE x 10) Da chuột bình thường 1: Tuyến bã, tuyến tiết mồ hôi 2: Lớp biểu bì bị tổn thương 3: Chân bì Ảnh 4. Chuột số 22 (bôi dầu cọ) (HE x 100) 1: Tổn thương dạng bọng nước 2: Biểu bì Tổn thương bỏng dạng bọng nước, các tổ chức đang bắt đầu được tái tạo mới: các tế bào lympho, tương bào xen lẫn tăng sinh các tổ chức hạt và mao mạch. Ảnh 5. Chuột số 25 (bôi sulfadiazine - bạc 1%) (HE x 100) 1: Xung huyết; 2: Chân bì Còn tổn thương nhẹ, các tổ chức đã được tái tạo mới. Ảnh 6. Chuột số 37 (bôi Loxain liều thấp) (HE x 400) 1: Xung huyết; 2: Bọng nước; 3: Biểu bì; 4: Tế bào viêm. Tổn thương bỏng còn ít, bỏng nước nhỏ hình thành, các tổ chức đã được tái tạo mới: tăng sinh các tổ chức hạt và tân mạch. Ảnh 7. Chuột số 53 (bôi Loxain liều cao) (HE x 10) 1: Sẹo hình thành; 2: Vùng không có tuyến dưới da; 3: Tuyến dưới da; 4: Biểu bì. Da chuột đã hình thành sẹo. 14 TCNCYH 107 (2) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Có sự khác biệt rõ về cấu trúc hình thái vi thể của da vùng bỏng giữa lô bôi dầu cọ và các lô bôi thuốc. - Tại vết bỏng bôi dầu cọ: vùng vết bỏng biểu bì che phủ ít. Chưa thấy có hiện tượng tăng sinh tế bào lớp đáy cũng như chưa thấy có hiện tượng tăng sinh xơ ở lớp dưới thượng bì nhưng đã có hiện tượng xâm nhập của các tế bào thực bào và các lympho bào. - Tại vết bỏng bôi thuốc: vùng vết bỏng biểu bì che phủ rộng, còn ít tổn thương. Có hiện tượng tăng sinh tế bào lớp đáy và các tổ chức xơ ở lớp dưới thượng bì. Một số chuột đã có hiện tượng hình thành sẹo rõ rệt (vùng da không có tổ chức tuyến dưới da). Tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng sung huyết ở một số vết bỏng. IV. BÀN LUẬN Loxain là sản phẩm đã từ lâu được dùng cho các trường hợp bỏng do napan trong chiến tranh và vết thương do nguyên nhân khác như zona, vết thương hở, đều cho kết quả liền da nhanh, an toàn và được người bệnh đánh giá cao, mục đích của nghiên này nhằm chứng minh hiệu quả và tính an toàn nhằm phát triển Loxain trở thành thuốc chữa bỏng.Thành phần chủ yếu là curcumin và β- caroten được chiết xuất từ củ nghệ và tinh dầu gấc - hai nguyên liệu rất phổ biến ở nước ta. Đã có những nghiên cứu khoa học chứng minh tác dụng curcumin và β - caroten trên vết thương nói chung và vết bỏng nói riêng, cũng như vai trò tăng cường khả năng miễn dịch[8]. Curcumin là thành phần chủ yếu của củ nghệ, một loại củ rất phổ biến ở nước ta. Củ nghệ được biết đến từ lâu như một loại củ có tác dụng nhanh liền sẹo, rút ngắn thời gian liền vết thương và được sử dụng rộng rãi. β - caroten là một trong ba tiền chất của vitamin A, có nhiều trong các loại củ có màu như: gấc, cà rốt hoặc rau xanh. Vitamin A có vai trò quan trọng không thể thiếu cho hoạt động của một số cơ quan trong cơ thể: mắt, da và tổ chức da, hệ thống miễn dịch. Đã có nhiều nghiên cứu trong nước và trên thế giới tìm hiểu và chứng minh tác dụng của curcumin và β - caroten trong Y học [8]. Dựa vào các cơ sở khoa học như trên, chúng tôi chọn Loxain làm nguyên liệu nghiên cứu trên mô hình gây bỏng nhiệt ở chuột cống chủng Wistar nhằm tìm ra loại thuốc điều trị tại chỗ vết thương bỏng được sản xuất từ những nguyên liệu có sẵn trong nước nhằm thay thế cho những thuốc nhập ngoại đắt tiền hiện nay. Nghiên cứu tác dụng kháng khuẩn của Loxain được tiến hành tại Khoa Vi sinh – Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức do tại cơ sở này có đầy đủ trang thiết bị cần thiết như: chủng vi khuẩn mẫu quốc tế, dụng cụ nuôi cấy, cán bộ tham gia nghiên cứu là những người có kinh nghiệm. Sau khi nuôi cấy và tìm được nồng độ ức chế tối thiểu lên 4 chủng vi khuẩn của Loxain trên invitro thì sẽ lấy mẫu bệnh phẩm trên vết thương bỏng để nuôi cấy và đánh giá tác dụng kháng khuẩn của Loxain. Với mỗi chủng vi khuẩn đều pha loãng 5 nồng độ: 1/2, 1/4, 1/8, 1/16, 1/32 so với dung dịch gốc, với mỗi một nồng độ được hoà với Loxain tương ứng với các nồng độ 0,025 - 0,4g dược liệu/ml. Kết quả cho thấy tất cả các nồng độ pha loãng như trên chưa tìm được nồng độ Loxain tối thiểu ức chế được các TCNCYH 107 (2) - 2017 15 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC chủng vi khuẩn trên. Do đó chúng tôi không tiến hành lấy mẫu bệnh phẩm trên vết thương để nuôi cấy và đánh giá tác dụng kháng khuẩn. Đối tượng nghiên cứu là chuột cống sẽ dễ dàng tạo ra tình trạng vết thương với các tiêu chuẩn của loại, kích thước, độ sâu vết thương một cách phù hợp [10]. Chuột cống là loài có sức chịu đựng cao, sức đề kháng tốt rất phù hợp trong việc gây mô hình vết thương da. Bên cạnh đó, chuột cống trắng là loài động vật phổ biến, phù hợp với điều kiện của nhiều phòng thí nghiệm, do vậy chúng tôi đã lựa chọn chuột cống trắng để gây mô hình bỏng. Bỏng do rất nhiều nguyên nhân gây ra như: nhiệt, hoá chất, điện, bức xạ nhiệt... Trong đó bỏng do nhiệt là nguyên nhân hay gặp nhất 84 - 94%. Đã có nhiều mô hình gây bỏng nhiệt được xây dựng và thực hiện bởi các tác giả trong nước và nước ngoài sử dụng thỏ làm động vật thực nghiệm [6; 11]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã gây bỏng thử nghiệm trên chuột với dụng cụ kim loại có nhiệt độ 100˚C, trong các khoảng thời gian 35 giây để gây được tổn thương bỏng phù hợp (tương ứng tổn thương bỏng độ III). Tổn thương bỏng gây nên phản ứng viêm tại chỗ, tiếp đó tình trạng nhiễm khuẩn vết bỏng đã làm ảnh hưởng đến tình trạng toàn thân. Chính vì vậy, sau khi bị bỏng, chuột ở trạng thái mệt, ít hoạt động, thường nằm yên. Tình trạng ăn uống kém, cộng với sự mất nước, mất protein qua vết bỏng làm chuột bị suy kiệt, kèm theo đó là sự nhiễm khuẩn tại vết bỏng có thể làm chuột bị tử vong [4]. Nghiên cứu cho thấy chuột chết trong khoảng từ ngày 4 đến ngày 7 sau khi gây bỏng. Kết quả này phù hợp với khoảng thời gian hay gây tử vong nhất của bỏng (giai đoạn nhiễm trùng, nhiễm độc từ ngày 4 đến ngày 20). Kết quả cho thấy, lô bôi sulfadiazine -bạc không bị tử vong do sulfadiazine -bạc có tính kháng khuẩn làm giảm quá trình nhiễm khuẩn vết bỏng. Cả 3 lô bôi tá dược và Loxain đều có chuột bị tử vong, tuy nhiên 2 lô bôi Loxain liều thấp và liều cao có tỷ lệ chết cao hơn so với lô chứng dương (Bảng 1). Loxain làm giảm số chuột chết so với lô mô hình (bôi dầu cọ) có thể do sản phẩm này có tác dụng tạo ra hàng rào bảo vệ chống sự xâm nhập của vi khuẩn vào vết bỏng hoặc Loxain có tác dụng kháng khuẩn trực tiếp trên vết bỏng. Mặc dù trên Invitro, Loxain với nồng độ khá cao (0,4g dược liệu/ml) không cho thấy khả năng kháng khuẩn trên 4 chủng vi khuẩn quốc tế thường gặp, điều này có thể do vi khuẩn thực tế trên vết bỏng và mẫu vi khuẩn quốc tế có thể có sự khác biệt về chủng và khả năng nhạy cảm với Loxain. Để khẳng định về sự liên quan giữa tỷ lệ chết và tính kháng khuẩn của Loxain trên vết bỏng thì cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn, đồng thời tiến hành lấy mẫu vi khuẩn trực tiếp trên vết thương bỏng ở các giai đoạn khác nhau, sau đó nuôi cấy, định danh và đánh giá khả năng kháng khuẩn của Loxain trên các chủng vi khuẩn này. Ở lô chuột bôi dầu cọ, những ngày đầu sau bỏng tất cả các vết bỏng đều có loét, các vết loét rộng dần chảy nhiều dịch tiết và có mùi khó chịu, những ngày sau các vết loét khô dần, thu hẹp diện tích tổn thương, tuy nhiên đến khi kết thúc nghiên cứu ở lô này vẫn còn một số vết bỏng còn chảy dịch tiết. Tại chỗ vết bỏng được bôi dầu cọ không có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm chính vì vậy làm cho phản ứng viêm càng mạnh và kéo dài 16 TCNCYH 107 (2) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC cộng với tình trạng nhiễm khuẩn làm vết thương lâu liền. Quá trình tái tạo hồi phục vết thương cả trên đại thể và vi thể đều tiến triển rất chậm, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của một nghiên cứu được tiến hành trước đây [6]. Ở 2 lô bôi Loxain, thời gian liền vết thương bỏng tương tự như lô bôi sulfadiazine - bạc, sau 7 ngày các vết bỏng khô và bắt đầu hình thành vảy tiết đến ngày thứ 21 đa số các vết bỏng đã tạo sẹo. Mức độ thu hẹp diện tích vết bỏng nhanh hơn so với lô mô hình (p < 0,05) và tương tự như lô chứng dương (p > 0,05). Từ kết quả trên cho thấy Loxain có tác dụng điều trị tại chỗ vết thương bỏng tương tự sulfadiazine - bạc. Trên hình ảnh vi thể vết bỏng cũng có sự tăng sinh xơ mạnh, có thể do Loxain có tác dụng kích thích tăng sinh xơ tại mô tổn thương. Phân tích kết quả cho thấy mức độ thu hẹp diện tích vết bỏng ở 2 lô bôi Loxain liều thấp và liều cao là không có sự khác biệt. Từ kết quả nghiên cứu sự khác biệt về tình trạng toàn thân, tác dụng liền vết thương bỏng của 2 liều Loxain thấp và cao không có khác biệt rõ rệt, chúng tôi kiến nghị sử dụng Loxain liều thấp vì số lần bôi thuốc trong ngày là 4 lần sẽ dễ áp dụng trên thực tế. V. KẾT LUẬN Từ kết quả nghiên cứu về tính kháng khuẩn và tác dụng điều trị tại chỗ vết thương do bỏng nhiệt của Loxain trên chuột cống trắng, kết quả cho thấy: - Với các nồng độ Loxain từ 0,025 - 0,4g/ ml chưa xác định nồng độ tối thiểu ức chế 4 chủng vi khuẩn là: P.aeruginosa, S.aureus, E.coli và K.pneumoniae trên Invitro. - Loxain có tác dụng điều trị tại chỗ vết thương bỏng nhiệt thực nghiệm trên chuột cống trắng thể hiện ở: thời gian liền khỏi vết thương bỏng diễn ra nhanh, tăng tốc độ thu hẹp vết thương bỏng. Hiệu quả điều trị vết thương bỏng của Loxain bôi 4 lần/ngày và 6 lần/ngày là tương đương nhau. Lời cảm ơn Nhóm nghiên cứu trân trọng cám ơn Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Nam Y Aurvini đã tài trợ cho chúng tôi thực hiện đề tài. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thế Trung (1997). Những điều cần biết về bỏng. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 2. Lê Thế Trung (1997). Bỏng - Những kiến thức chuyên ngành. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 3. Nguyễn Gia Tiến, Phạm Gia Khánh, Phạm Đình Bảng(1997).Tác dụng điều trị tại chỗ vết bỏng do nhiệt bằng thuốc mỡ Maduxin. Tạp chí Y học thực hành, 11 (342), 36 - 41. 4. Lê Thế Trung, Trần Xuân Vận, Nguyễn Liêm, Nguyễn Đình Bảng, Đào Xuân Vinh (1991). Nghiên cứu thuốc Maduxin oil điều trị tại chỗ nhiễm khuẩn mủ xanh vết bỏng, Tạp chí Y học thực hành, 5, 23 - 26. 5. Phạm Phan Địch, Nguyễn Văn Ngọc (1986). Ảnh hưởng của mật ong đến sự tái tạo hồi phục vết bỏng da chuột cống trắng. Tạp chí Y học Việt Nam (chuyên đề hình thái học), 2, 43 - 47. 6. Vũ Thị Ngọc Thanh, Lê Văn Phủng, Lê Huy Chính, Hoàng Tích Huyền (2001). Nghiên cứu tính kháng khuẩn của chitosan trên bỏng nhiệt thực nghiệm. Tạp chí Dược học, 229, 19. TCNCYH 107 (2) - 2017 17 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 7. Phạm Toàn Thắng (1993). Thuốc Sil- vadence cream 1% (Silver sulfadiazin 1%), Thông tin bỏng, 3, 15 - 17. 8. Bộ môn Dược lý (2011). Trường đại học Y Hà Nội, Dược lý học tập 2. Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 203 - 213. 9. Mehrabani et al (2015). The Healing Effect of Curcumin on Burn Wounds in Rat, World J Plast Surg, 4(1), 29 - 35. 10. Wanda A. Dorsett-Martin, Annette B. Wysocki (2008). Rat Models of Skin Wound Healing, Sourcebook of Models for Biomedical Research, 6, 6631 - 6638. 11. Durmus AS, Han MC, Yaman I. (2009). Comperative evaluation of collagenase and silver sulfadiazine on burned wound heal- ing in rats, Firat Universitesi Saglik Bilimleri Veteriner Dergisi, 23, 135 - 139. Summary STUDY ON ANTIBACTERIAL ACTIVITY IN VITRO AND HEALING EFFECT ON BURN WOUND IN RAT OF LOXAIN Loxain was used to investigate the antibacterial activity in In vitro and healing effect on heat burn wounds in rat. Antibacterial activity of Loxain was evaluated in 4 international bacteria strains Pseudomonas aeruginosa, Staphylococcus aureus, Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae in In vitro. In burn wound model in rat, Wistar rats were divided in to 5 groups, group 1 was served as control, similar burn ulcers were produced on anterior surface of thigh of 50 rats in groups 2 to 5. Then group 2 served as control was treated with palm oil 4 times per day, group 3 served as positive control were treated with silver sulfadiazine ointment, group 4 and 5 were treated with Loxain ointment 4 and 6 times per day in 21 consecutive days. The result showed that In vitro study, the concentration of Loxain from 0.025 g/ml to 0.4g/ml do not have antibacterial activity against 4 tested bacteria strains. In vivo study, groups treated with Loxain oitment achieved reduced healing time, wound healing effect in 2 groups treated with Loxain ointment 4 and 6 times per day were the same as in 21 consecutive days. Keyword: Loxain, antibacterial activity, Wistar rat, heat burn wound, healing effect
File đính kèm:
- tac_dung_khang_khuan_cua_loxain_tren_invitro_va_dieu_tri_bon.pdf