Thái độ học tập của sinh viên tiếng Trung thương mại và vấn đề chất lượng giảng dạy
TÓM TẮT
Thái độ học tập của người học là một trong những yếu tố đảm bảo chất lượng giảng dạy. Thực tế
giảng dạy đại học cho thấy, nhiều sinh viên còn chưa có thái độ học tập đúng đắn trong quá trình
học tập. Trong bài viết này, chúng tôi làm rõ các vấn đề chất lượng giảng dạy, thái độ học tập và
mối quan hệ của thái độ học tập với chất lượng giảng dạy, đồng thời đưa ra kết quả nghiên cứu
về thái độ học tập của sinh viên chuyên ngành tiếng Trung thương mại tại trường Đại học Ngoại
thương thông qua phương pháp điều tra cơ bản.
Bạn đang xem tài liệu "Thái độ học tập của sinh viên tiếng Trung thương mại và vấn đề chất lượng giảng dạy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thái độ học tập của sinh viên tiếng Trung thương mại và vấn đề chất lượng giảng dạy
93KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v HOÀNG THANH HƯƠNG* *Đại học Ngoại thương, ✉ thanhhuongk12@yahoo.com Ngày nhận bài: 28/8/2017; ngày hoàn thiện: 5/10/2017; ngày duyệt đăng: 15/11/2017 THÁI ĐỘ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TIẾNG TRUNG THƯƠNG MẠI VÀ VẤN ĐỀ CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY 1. KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY Bàn đến khái niệm “chất lượng”, chúng ta không thể nói đến chất lượng như một khái niệm đơn lập vì cơ bản chất lượng luôn gắn với một sự vật, sự việc cụ thể nhằm phản ánh các đặc tính vốn có của nó so với yêu cầu đặt ra. Do vậy, “chất lượng” là một khái niệm tương đối rộng và đa chiều. Tùy thuộc vào góc độ tiếp cận cũng như sự phản ánh yêu cầu của từng lĩnh vực hoặc các bên liên quan mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về “chất lượng”. Chẳng hạn, từ vấn đề đo lường chất lượng, Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã định nghĩa “chất lượng là mức độ mà một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng yêu cầu” (ISO 9000: 2000), nhưng dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì “Chất lượng: Cái tạo nên phẩm chất, giá TÓM TẮT Thái độ học tập của người học là một trong những yếu tố đảm bảo chất lượng giảng dạy. Thực tế giảng dạy đại học cho thấy, nhiều sinh viên còn chưa có thái độ học tập đúng đắn trong quá trình học tập. Trong bài viết này, chúng tôi làm rõ các vấn đề chất lượng giảng dạy, thái độ học tập và mối quan hệ của thái độ học tập với chất lượng giảng dạy, đồng thời đưa ra kết quả nghiên cứu về thái độ học tập của sinh viên chuyên ngành tiếng Trung thương mại tại trường Đại học Ngoại thương thông qua phương pháp điều tra cơ bản. Từ khóa: chất lượng giảng dạy, thái độ học tập, tiếng Trung thương mại trị của một con người, một sự vật, sự việc” (Viện Ngôn ngữ học, 2010, tr.144). Còn khái niệm giảng dạy, được Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang giải thích là sự điều khiển quá trình học tập của người học nhằm giúp người học tự chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc tăng cường tình cảm, thái độ (Nguyễn Ngọc Quang, 1998, tr.57). Trong nghiên cứu này, bài viết tìm hiểu vấn đề chất lượng giảng dạy đại học từ quan niệm của các nhà giáo dục học về chất lượng giáo dục và chất lượng đào tạo. Về bản chất, giảng dạy đại học chủ yếu là dạy nhận thức, dạy kỹ năng và dạy cảm nhận. Từ quan niệm của các nhà giáo dục học về chất lượng giáo dục, khái niệm chất lượng giảng dạy hình thành và được hiểu là “giá trị gia tăng” về kiến thức, kỹ năng, thái độ ở người học trong quá trình dạy học 94 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI và các giá trị gia tăng đó góp phần phát triển năng lực, phẩm chất cho người học khi học một môn học, bài học cụ thể (Đặng Xuân Hải, 2009, tr. 64). Theo quan điểm này, chất lượng giảng dạy chính là sự tác động tích cực đến người học và tạo ra sự khác biệt trong phát triển trí tuệ và cá nhân của người học. Từ quan niệm của các nhà giáo dục học về chất lượng đào tạo, chất lượng giảng dạy với đối tượng là “người học” được hiểu là kết quả của quá trình giảng dạy và được thể hiện ở các kiến thức, kỹ năng, thái độ, phẩm chất nghề nghiệp, năng lực hành nghề mà người học đạt được như mục tiêu đặt ra trong quá trình giảng dạy (Đặng Bá Lãm, 2005, tr.93-97). Theo quan điểm này, chất lượng giảng dạy được hiểu ngắn gọn là hiệu quả của việc đạt được các mục đích giảng dạy, Tuy nhiên, muốn có chất lượng giảng dạy cần phải xây dựng các chuẩn mực cho hoạt động giảng dạy và hoạt động học tập. Trong đó, chuẩn mực hoạt động dạy học gắn liền với các yếu tố cấu thành hoạt động dạy học như môi trường dạy học, nội dung dạy học, phương thức dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả dạy học và các yếu tố liên quan đến cá nhân người học. Điều đó có nghĩa, chất lượng giảng dạy chỉ có thể được đảm bảo trong các điều kiện nhất định về chương trình giảng dạy, đội ngũ giảng viên, giáo trình, cơ sở vật chất trang thiết bị, thái độ học tập, động cơ học tập và phương pháp học tập của người học 2. THÁI ĐỘ HỌC TẬP CỦA NGƯỜI HỌC VÀ VẤN ĐỀ CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY Theo tác giả Đào Lan Hương: “Thái độ học tập là một bộ phận cấu thành đồng thời là một thuộc tính cơ bản toàn vẹn của ý thức học tập của chủ thể, là yếu tố quy định tính tự giác, tích cực học tập và thể hiện bằng những cảm xúc, hành động tương ứng” (Đào Lan Hương, 1998, tr. 7-8). Làm rõ các nội dung cơ bản trong khái niệm trên chúng ta thấy rằng, ý thức học tập, tính tự giác tích cực học tập, cảm xúc và hành động trong thái độ học tập của người học được thể hiện qua các hành vi cụ thể như: học bài làm bài đầy đủ, đảm bảo kỷ luật, tập trung chú ý nghe giảng trên lớp, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập, hăng hái nhiệt tình trong giờ học, tự đặt ra các yêu cầu về thành tích học tập, cố gắng đạt thành tích học tập tốt và có phản ứng vui buồn đối với những thành công hay thất bại trong học tập. Thái độ học tập của người học có vai trò quan trọng trong việc tiếp thu kiến thức, nâng cao hiệu quả học tập. Dưới góc độ giảng dạy đại học, thái độ học tập là một trong những nhân tố quan trọng quyết định việc hình thành kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp của người học và là một trong những yếu tố đảm bảo chất lượng giảng dạy. Bởi, trong cách tiếp cận hiện đại “giảng dạy” và “học tập” thực chất là mối quan hệ tác động hai chiều giữa người dạy và người học để đạt đến các mục tiêu đặt ra trong quá trình dạy học. Trong đó: Hoạt động giảng dạy (mà người dạy đóng vai trò cố vấn học tập) là quá trình hỗ trợ người học chiếm lĩnh nội dung môn học, tạo điều kiện cho người học chủ động tìm kiếm và xử lý thông tin thông qua sự điều khiển hoạt động học. Ngược lại, hoạt động học tập (mà người học đóng vai trò chủ thể) là một quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học (tức là nội dung học) dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên (Nguyễn Ngọc Quang, 1998, tr.57). Khác với nhà trường phổ thông, hoạt động học tập ở đại học mang tính độc lập cao, đòi hỏi người học luôn phải là người chủ động trong việc lập kế hoạch học tập và thực hiện các kế hoạch đặt ra, tích cực trao đổi với giảng viên và bạn bè về các vấn đề học tập. Trong quá trình trao đổi người học phải có óc phê phán và chính kiến riêng. Hoạt động học tập ở đại học còn đòi hỏi người học phải có năng lực nghiên cứu tài liệu nhằm phát huy tối ưu tư duy sáng tạo và khả năng nghiên cứu khoa học. Do đó, nếu người học tiếp nhận các tác động sư phạm một cách thụ động, thiếu ý thức tự giác và tính tính cực, điều này sẽ khiến cho hoạt động giảng dạy khó đạt được các hiệu quả như mong muốn. 95KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v Thực tế cho thấy, nhiều sinh viên có thái độ học tập chỉ để đối phó với môn học có trong chương trình giảng dạy. Các em không nhận thức được sự cần thiết của môn học đối với bản thân và công việc nên học tập trong trạng thái không có mục đích, không chủ động tích cực và không có động lực thúc đẩy. Trong thực tế giảng dạy, những hành vi như đi học muộn, bỏ học, không nộp bài tập đúng hạn, không ôn bài cũ, không chuẩn bị bài mới, không tham gia vào các hoạt động trên lớp cũng không còn là hiện tượng hiếm gặp. Đây đều là những biểu hiện cụ thể của việc không có thái độ học tập đúng đắn. Chính vì vậy, muốn không ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy, ngoài sự cố gắng của người dạy qua các tác động sư phạm, người học cần phải chú trọng rèn luyện và hình thành cho mình một thái độ học tập nghiêm túc và động cơ học tập rõ ràng. Một thái độ học tập tích cực sẽ giúp sinh viên dễ dàng làm chủ kiến thức và có thể vận dụng thành thạo các kiến thức đó vào trong thực tế. Hơn thế, một thái độ học tập tích cực cũng sẽ giúp sinh viên phát huy tối đa các thế mạnh của bản thân trong học tập cũng như trong công việc. 3. THỰC TẾ KHẢO SÁT THÁI ĐỘ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TIẾNG TRUNG THƯƠNG MẠI TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG Với cách hiểu về thái độ học tập của người học như trên, chúng tôi đã dựa vào các biểu hiện thái độ học tập của người học trên lớp và các biểu hiện thái độ học tập của người học ở nhà để tìm hiểu thái độ học tập của 83 sinh viên chuyên ngành tiếng Trung thương mại. 3.1. Thái độ học tập trên lớp của sinh viên Khi tìm hiểu thái độ học tập trên lớp của sinh viên, phiếu khảo sát của chúng tôi đã đưa ra các câu hỏi xoay quanh các biểu hiện về thái độ học tập của người học trên lớp như: đi học đầy đủ và đúng giờ, tập trung chú ý nghe giảng, ghi chép bài giảng và chủ động tương tác với giảng viên để giải quyết bài học. Kết quả khảo sát chúng tôi thu thập được phản ánh ở bảng 1. Kết quả tại bảng 1 cho thấy, với nội dung khảo sát tình hình “đi học đầy đủ và đúng giờ” thì có 83,1% sinh viên đáp ứng được yêu cầu, còn 16,9% sinh viên thi thoảng nghỉ học một hai buổi hoặc thường xuyên đi học muộn với nhiều lý do khác nhau. Số liệu này phản ánh, sinh viên có ý thức cao đối với việc đi học đầy đủ và đúng giờ. Việc sinh viên đi học chuyên cần không chỉ thể hiện thái độ yêu thích, sự tôn trọng của sinh viên đối với môn học mà còn phản ánh mức độ hiểu bài của sinh viên qua các buổi học. Thông thường, dưới sự dẫn dắt của giảng viên, những sinh viên đi học chăm chỉ và đầy đủ sẽ dễ dàng nắm được nội dung bài giảng trong sách và những kiến thức được mở rộng trên lớp. Ngược lại, với những sinh viên chưa thực sự tích cực trong việc đến lớp thì thời gian sinh viên bỏ ra để tự tìm hiểu bài học trên lớp và những nội dung kiến thức nâng cao sẽ nhiều hơn so với những bạn đã bỏ công đi học. Bảng 1: Kết quả khảo sát sinh viên về thái độ học tập trên lớp Nội dung khảo sát Ý kiến sinh viên Có Không Đi học đầy đủ và đúng giờ 69/83 83,1% 14/83 16,9% Tập trung chú ý nghe giảng 47/83 56,6% 36/83 43,4% Chăm chỉ ghi chép bài giảng 50/83 60,2% 33/83 39,8% Chủ động tương tác giải quyết bài học 41/83 49,4% 42/83 50,6% 96 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Việc “tập trung chú ý nghe giảng” trên lớp cũng thể hiện thái độ học tập của sinh viên đối với môn học. Theo kết quả khảo sát, có 56,6% (tức là hơn một nửa số sinh viên) chăm chú lắng nghe bài giảng, nhưng cũng có đến 43,4% sinh viên thiếu tập trung trên lớp. Khi được hỏi về lý do khiến sinh viên thiếu tập trung trên lớp, chúng tôi tập hợp được các ý kiến như sau: sự tập trung của các em sinh viên còn tùy thuộc vào từng chương, từng bài trong nội dung môn học. Đối với một số môn học có nội dung khó hiểu, khô khan, sinh viên thường không hoàn toàn chú tâm vào bài giảng mà sẽ làm việc riêng trong giờ học. Có lúc môn học vốn đã kém hấp dẫn, lại thêm phương pháp giảng dạy của giảng viên tẻ nhạt, không truyền được cảm hứng học tập, không thu hút được sự chú ý của sinh viên, vì thế mà các em lên lớp thiếu đi sự hứng khởi, chỉ chờ điểm danh và mong cho giờ học qua nhanh. Tuy nhiên, bên cạnh các lý do khách quan, bảng khảo sát cũng thu thập được một số lý do chủ quan. Nhiều em sinh viên do ngày đi học kết hợp đi làm thêm, tối về muộn học bài khuya nên thường đến lớp với trạng thái thiếu ngủ, vì vậy sự tập trung cho bài giảng cũng bị giảm sút. Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng, mặc dù sinh viên có ý thức học tập tốt, nhưng nhiều bạn vốn có tính “lơ đãng” nên không thể tập trung quá lâu trong thời gian học ở trên lớp. Vì thế mà nhiều bạn có lúc chăm chú lắng nghe bài giảng, nhưng có lúc lại bị hấp dẫn bởi những âm thanh hoặc sự việc khác xung quanh. Theo kết quả khảo sát, số sinh viên chưa thực sự nghiêm túc trong việc lắng nghe bài giảng trên lớp còn khá cao (43,4%). Sự thiếu tập trung sẽ có những ảnh hưởng không tốt đối với kết quả học tập môn học, nhất là những môn học đòi hỏi có sự tập trung cao, mà sinh viên chỉ lơ là một chút thôi sẽ có thể bỏ lỡ rất nhiều thông tin quan trọng. Cũng từ các ý kiến nói trên của các em sinh viên, chúng tôi thấy rằng ngoài ý thức học tập của bản thân sinh viên thì tỷ lệ sinh viên tập trung chú ý nghe bài giảng cao hay thấp còn phụ thuộc vào nội dung bài học và khả năng truyền nhiệt của giảng viên. Điều đó cho thấy, giảng viên có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thu hút sự tập trung chú ý của người học, đặc biệt khi sinh viên không tìm thấy sự hứng thú ở môn học. Song song với việc chú ý nghe giảng thì ghi chép bài giảng là một việc không thể thiếu đối với những người đi học. Đây là cách giúp người học lưu giữ thông tin và kiến thức cần thiết của môn học. Chính vì ngay tại buổi học, người học không thể nhớ hết những nội dung giảng viên trình bày ở trên lớp, do đó người học cần ghi chép lại để về nhà có thể xem, ôn lại những kiến thức đó và cũng để nắm chắc hơn về bài học. Tuy nhiên, việc ghi chép cần phải có phương pháp và nó phụ thuộc vào sự lựa chọn của từng người học, nhưng yêu cầu chung của việc ghi chép là phải chú ý đến tính khoa học, tính rõ ràng thì mới đạt đến các hiệu quả học tập. Đối với nội dung “chăm chỉ ghi chép bài giảng”, số liệu khảo sát của chúng tôi cho biết, có 60,2% sinh viên chăm chỉ ghi chép bài học. Nhưng 39,8% sinh viên cho ý kiến ngược lại, các em không chăm chỉ ghi chép lại những nội dung đã có trong giáo trình và tài liệu mà chỉ ghi chép những nội dung mới, những phần cần chú ý hoặc những vấn đề các em quan tâm. Đây là một cách ghi chép ngắn gọn và tiết kiệm thời gian. Đồng thời, nó cũng giúp các em sinh viên chưa có thói quen vừa ghi chép vừa nghe giảng có nhiều thời gian lắng nghe bài giảng mà khi ghi chép cũng không bỏ sót những kiến thức quan trọng. Bên cạnh việc nghe giảng và ghi chép nội dung bài giảng, việc tương tác với giảng viên không chỉ tạo không khí sôi nổi cho lớp học mà còn giải đáp được rất nhiều vấn đề liên quan đến nội dung bài học. Kết quả khảo sát cho thấy, 49.4% số sinh viên có tinh thần hợp tác với giảng viên. Sự hợp tác của sinh viên thể hiện ở việc chủ động giơ tay phát biểu, đưa ra các ý kiến xây dựng bài học, đưa ra các câu hỏi thắc mắc xung quanh nội dung bài học. Tuy nhiên, vẫn còn nửa số sinh viên (50.6%) chưa thực sự chủ động và tích cực trong việc xây dựng bài học trên lớp cùng giảng viên. Khi được phỏng vấn về vấn đề này, nhiều sinh viên đã đưa ra lý do không hợp tác là vì: Thứ nhất, thái độ học tập hăng hái và tích cực của sinh viên còn phụ 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v thuộc vào mức độ yêu thích môn học, mức độ tập trung trong giờ học, độ khó và số lượng các câu hỏi mà giảng viên đưa ra; Thứ hai, một bộ phận sinh viên có tâm lý ngại phát biểu ý kiến, cũng có trường hợp sinh viên không biết cách biểu đạt và thể hiện ý nghĩ của mình hoặc còn sợ sai nên chưa mạnh dạn, tự tin khi đưa ra ý kiến xây dựng bài học. Có lẽ, đây là vấn đề mà giảng viên cần hết sức chú ý khi lên lớp dạy học. Giảng viên với vai trò là “người tổ chức”, “người điều khiển” trong lớp học nên khuyến khích sinh viên phát biểu ý kiến bằng nhiều hình thức khác nhau để tăng sự hứng thú đối với việc học và cũng để sinh viên cảm thấy thoải mái, tự tin khi đưa ra quan điểm trước thầy cô giáo và bạn học. Từ kết quả khảo sát thái độ học tập trên lớp của sinh viên, chúng tôi có thể đánh giá như sau: Phần lớn sinh viên (83,1%) đã nghiêm túc trong việc “đi học đầy đủ và đúng giờ” Đối với việc “tập trung chú ý nghe giảng” (56,6%) và “chăm chỉ ghi chép bài giảng” (60,2%), mặc dù đã có hơn ½ số sinh viên được khảo sát đạt yêu cầu nhưng con số đạt được chưa thực sự cao, mới chỉ dừng ở mức trung bình. Ngoài ra, số sinh viên tích cực tương tác với giảng viên qua việc giơ tay phát biểu xây dựng bài cũng chỉ đạt 49.4%, tức là chưa vượt qua con số 50%. Tổng hợp các số liệu trên cho thấy, sinh viên chưa hoàn toàn có thái độ học tập tích cực trên lớp. Điều này ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến chất lượng học tập và giảng dạy trên lớp cho sinh viên. 3.2. Thái độ học tập ở nhà của sinh viên Cùng với việc học trên lớp, việc học ở nhà có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ sinh viên học tập tốt các môn học. Vì thời gian học trên lớp cho một môn học không nhiều nên việc sinh viên tự giác học ở nhà cũng là một trong những yếu tố quyết định lượng kiến thức sinh viên nắm được và nhớ được sau khi nghe giảng. Tuy nhiên, không phải sinh viên nào cũng có ý thức học bài ở nhà, ngay cả khi các em biết rằng việc học ở nhà là rất cần thiết. Để hiểu hơn về thái độ học tập của sinh viên khi ở nhà, chúng tôi đã tiến hành khảo sát sinh viên về các nội dung chuẩn bị bài mới, ôn bài, làm bài tập và tự học. Khi được hỏi về các nội dung trên, 83 sinh viên được khảo sát cho kết quả điều tra như sau (xem bảng 2). “Chuẩn bị bài mới” (ví dụ như xem trước nội dung bài học, tìm hiểu các vấn đề liên quan, tự giải đáp câu hỏi, xem trước phần bài tập...) thường là công việc sinh viên phải làm trước ở nhà. Để khi đến lớp, các em có thể tận dụng tối đa thời gian trên lớp nắm bắt nội dung bài học, tự tin tham gia các hoạt động phát biểu ý kiến xây dựng bài, đưa ra các câu hỏi thảo luận, yêu cầu giải đáp những chỗ chưa rõ ràng và tương tác được với giảng viên nhiều hơn. Với ý nghĩa như vậy, đối với bất kỳ môn học nào thì việc chuẩn bị bài mới cũng là một công việc có vai trò quan trọng và có ảnh hưởng đến hiệu quả học tập trên lớp của sinh viên. Theo như kết quả khảo sát tại bảng 2, chỉ 44,6% sinh viên có chuẩn bị bài trước khi đến lớp, nhưng có Bảng 2: Kết quả khảo sát sinh viên về thái độ học tập ở nhà Nội dung khảo sát Ý kiến sinh viên Có Không Chuẩn bị bài mới 37/83 44,6% 46/83 55,4% Ôn bài 49/83 59% 34/83 41% Làm bài tập 48/83 57,8% 35/83 42,2% Tự học 47/83 56,6% 36/83 43,4% 98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI tới 55,4% sinh viên không chuẩn bị bài. Giải thích về việc không chuẩn bị bài: Một số sinh viên nêu lý do (khi được phỏng vấn) là không chắc chắn về nội dung sẽ học; nhiều sinh viên lấy lý do không có thời gian hoặc ngại chuẩn bị bài; còn lại một số ít sinh viên mức độ chuẩn bị không thường xuyên, có bài chuẩn bị có bài không, tùy vào thời gian rảnh rỗi của bản thân hay là nội dung của bài học. Những con số trên cho thấy, ý thức chuẩn bị bài ở nhà của đa số sinh viên vẫn còn chưa tốt, điều đó có nghĩa sinh viên chưa có sự chủ động và tích cực trong việc học ở nhà, chưa biến việc chuẩn bị bài ở nhà thành một công việc đương nhiên phải làm trước khi lên lớp. Điều này sẽ hạn chế việc giảng viên cung cấp thêm các kiến thức mới và các kiến thức nâng cao đối với một bài giảng trong khuôn khổ số tiết và thời lượng cho phép của một môn học trên lớp. Đối với sinh viên, một công việc quan trọng không kém việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp đó là ôn lại những nội dung đã học. Việc ôn lại những nội dung đã học sẽ giúp sinh viên củng cố kiến thức và vận dụng thành thạo những kiến thức đó vào thực tế. Mặc dù việc ôn bài có ý nghĩa như vậy, nhưng khi được hỏi về việc “ôn bài” trước khi đến lớp, thì vẫn còn 41% sinh viên chưa có thói quen giành một khoảng thời gian nhất định trong ngày để thực hiện công việc ôn bài. Số 59% sinh viên còn lại, tuy trả lời có ôn bài, nhưng khi được hỏi thêm chúng tôi biết rằng, việc ôn bài của các em có lúc là sự ngẫu hứng, có lúc là sát ngày thi chứ không phải là công việc đều đặn hàng ngày. Trong con số 59% này, số sinh viên ôn bài với mức độ thường xuyên chỉ đạt 25%. Kết quả điều tra cho thấy bên cạnh những sinh viên có ý thức trong việc ôn bài ở nhà thì vẫn còn nhiều sinh viên chưa ý thức được tầm quan trọng của việc ôn bài. “Học đi đôi với hành”, trong đó “học” là quá trình tiếp nhận kiến thức, còn “hành” là quá trình áp dụng kiến thức vào thực tế. Như vậy, “làm bài tập” chính là sự cụ thể hóa kiến thức lý thuyết thông qua các dạng bài tập thực hành từ đơn giản đến nâng cao. Thông qua việc làm bài tập, sinh viên sẽ hiểu rõ bản thân đã nắm được kiến thức bài học như thế nào, khả năng vận dụng kiến thức ra sao, từ đó có thể củng cố ôn lại các kiến thức lý thuyết mà các em cảm thấy chưa chắc chắn trong quá trình thực hành. Xét ở góc độ ý nghĩa của việc làm bài tập thì như vậy, song kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, bên cạnh 57,8% sinh viên chăm chỉ làm bài tập, cũng có tới 42,2% sinh viên chưa nhiệt tình với công việc này. Mặc dù các em sinh viên ý thức được vai trò của việc làm bài tập trên lớp cũng như ở nhà, nhưng nhiều em thực tế lên lớp vẫn chưa làm bài hoặc có làm thì cũng làm với thái độ miễn cưỡng, làm lấy lệ cho đủ để không bị giảng viên trừ điểm chuyên cần. Tự học vốn là quá trình người học tự giác và tích cực chiếm lĩnh tri thức. Trong nhà trường đại học, tự học là một trong những kỹ năng quyết định chất lượng học tập và giảng dạy. Thực tế giảng dạy cho thấy, nếu người dạy có giỏi đến mấy mà người học không chịu khó học tập và tự mình nghiên cứu mở rộng kiến thức thì người học khó đạt được kết quả học tập tốt hơn và cũng khó tránh khỏi việc bị lạc hậu so với sự phát triển của xã hội. Trong cùng một điều kiện môi trường học như nhau, sự khác biệt giữa các sinh viên thể hiện ở năng lực tự học. Đối với vấn đề “tự học”, kết quả khảo sát sinh viên cho biết, có 47 sinh viên (tức là 56,6%) có kỹ năng tự học. Việc tự học của các em thể hiện ở sự sắp xếp một cách hợp lý thời gian và không gian học tập trong ngày, tham gia nghiên cứu khoa học, tìm kiếm tài liệu, chuẩn bị bài học, tự đặt tình huống và tìm cách giải quyết các vấn đề đặt ra Số 43,4% sinh viên còn lại, các em vẫn phụ thuộc vào sự truyền thụ tài liệu của giảng viên mà chưa rèn luyện được cho bản thân ý thức tự học. Con số này sẽ là cơ sở để giảng viên đại học chú ý điều chỉnh phương pháp dạy học hướng đến “dạy tự học” nhằm dẫn dắt sinh viên ra khỏi cách học thụ động và kém hiệu quả. Từ kết quả khảo sát thái độ học tập ở nhà của sinh viên (thể hiện ở bảng 2), chúng tôi có thể đánh giá tổng hợp như sau: Hơn một nửa số sinh viên được khảo sát (khoảng 56,6% ~ 59%) 99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v đã có ý thức trong việc ôn bài, làm bài tập và tự học. Mức độ tập trung cho các công việc trên chưa phải là cao nhưng tương đối đồng đều, do đó mức chênh giữa việc ôn bài, làm bài tập và tự học không nhiều. Số liệu khảo sát cho thấy, sinh viên rất có ý thức trong việc ôn bài (đạt mức cao nhất 59% trong toàn bộ kết quả khảo sát thái độ học tập ở nhà của sinh viên). Ngoài ra, bảng số liệu cũng cho thấy, sinh viên không thích nhất là việc chuẩn bị bài mới nên cũng có quá nửa số sinh viên được khảo sát không làm việc này (55,4% ). Điều này càng làm rõ hơn tâm lý học thụ động của sinh viên. Các em cho rằng những kiến thức mới trong bài học dù gì cũng sẽ được giảng viên truyền thụ trong các buổi lên lớp, vì thế các em không cần mất thêm thời gian chuẩn bị và lâu dần với cách nghĩ này sẽ khiến sinh viên nảy sinh tâm lý ỷ lại và phụ thuộc vào người dạy. 4. KẾT LUẬN Thái độ học tập là những suy nghĩ, việc làm, cảm xúc của người học đối với việc học tập. Biểu hiện của thái độ học tập sẽ phản ánh người học đối với việc học tập có nghiêm túc hay không và là yếu tố quyết định không nhỏ đối với kết quả học tập của sinh viên và chất lượng giảng dạy của một nhà trường đại học. Từ lý luận đến thực tế nghiên cứu, số liệu của bài viết cho thấy ý thức tự giác học tập của sinh viên vẫn chưa đạt 100%. Đối với nội dung mang tính bắt buộc, có kiểm tra thường xuyên như đi học đầy đủ và đúng giờ thì số sinh viên nghiêm túc thực hiện đạt mức cao nhất 83,1%. Còn ở những nội dung khác như tập trung nghe giảng, ghi chép bài giảng, tương tác với giảng viên, ôn bài, làm bài tập và tự học, tuy số sinh viên có ý thức thực hiện không quá thấp, nhưng số liệu bài viết thu thập được cũng chỉ đạt ở mức trung bình (50%~60%). Kết quả nghiên cứu này phản ánh, một bộ phận sinh viên vẫn thích cách dạy áp đặt và tiếp thu kiến thức một cách bị động qua việc truyền đạt của giảng viên mà không có bước đối chiếu, so sánh với những kiến thức lẽ ra sinh viên cần tìm hiểu và chuẩn bị trước đó. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, bên cạnh những sinh viên có ý thức tích cực chủ động chiếm lĩnh kiến thức, thì vẫn còn nhiều sinh viên ngại học, hoặc học theo cảm hứng và học để đối phó, thậm chí sinh viên còn tranh thủ giờ học để làm việc riêng. Sở dĩ còn hiện tượng như vậy là do sinh viên chưa nghiêm túc trong học tập và chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của việc học trên lớp cũng như việc học ở nhà./. Tài liệu tham khảo: 1. Đặng Xuân Hải (2002), “Lý luận và phương pháp dạy học đại học”, Tài liệu tham khảo cho học viên cao học, Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Đặng Xuân Hải (2009), “Quản lý chất lượng”, Tài liệu bồi dưỡng Cán bộ quản lý nhà trường các cấp, Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Đào Lan Hương (1998), “Tự đánh giá thái độ học tập môn Toán của sinh viên”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 3. 4. Đặng Bá Lãm (2005), “Quản lý nhà nước về giáo dục - lý luận và thực tiễn”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Nguyễn Ngọc Quang (1998), “Nguyễn Ngọc Quang - Nhà sư phạm, Người góp phần đổi mới lý luận dạy học”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lí chất lượng (ISO 9000:2000). 7. Viện Ngôn ngữ học (2010), “Từ điển tiếng Việt”, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI LEARNING ATTITUDES OF THE STUDENTS OF BUSINESS CHINESE AND THEIR EVALUATION OF TEACHING QUALITY HOANG THANH HUONG Abtracts: Learners’ learning attitude is one of the important factors that assure teaching quality. The current teaching situation shows that college learners seem not to have the positive attitude to the learning process. This article will clarify the issues of teaching quality, learners’ learning attitudes and their interlock relationships. To do it, the result of a survey on learning attitudes of Business Chinese learners at the Foreign Trade University will be analyzed, which will set a base for the improvement of teaching and learning business Chinese at the Foreign Trade University. Keywords: teaching quality, learning attitude, business Chinese Received: 28/8/2017; Revised: 05/10/2017; Accepted for publication: 15/11/2017
File đính kèm:
- thai_do_hoc_tap_cua_sinh_vien_tieng_trung_thuong_mai_va_van.pdf