Thảo luận được và mất (Dưới góc độ môi trường) khi xây dựng Khu đô thị sinh thái Long Thành ven sông Đồng Nai

TÓM TẮT

Bài báo đề cập đến việc đánh đổi thông qua xem xét cán cân được – mất giữa kinh tế và môi

trường khi xây dựng Khu đô thị Long Thành ven sông Đồng Nai. Sử dụng phương pháp tính trọng

số bước đầu nhận định: đối với chất lượng nước sông, hệ sinh thái, rủi ro sự cố đều có trọng số <>

khi phân tích xung đột lợi ích giữa các ngành có sử dụng tài nguyên nước, cảnh quan trọng số ≈ 0.

Với tổng điểm là <0, cần="" thiết="" xây="" dựng="" các="" biện="" pháp="" giảm="" thiểu:="" tận="" dụng="" tối="" đa="" diện="" tích="">

và đất mặt nước tự nhiên, mật độ xây dựng thấp; xây dựng hệ thống kè ven sông; xử lý triệt để

lượng nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh viện; thu gom đúng quy định chất thải rắn thông thường

và nguy hại là những kiến nghị của bài báo nhằm dịch chuyển cán cân đánh đổi theo chiều hướng

được và hòa (Ki ≥ 0).

pdf 7 trang yennguyen 3720
Bạn đang xem tài liệu "Thảo luận được và mất (Dưới góc độ môi trường) khi xây dựng Khu đô thị sinh thái Long Thành ven sông Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thảo luận được và mất (Dưới góc độ môi trường) khi xây dựng Khu đô thị sinh thái Long Thành ven sông Đồng Nai

Thảo luận được và mất (Dưới góc độ môi trường) khi xây dựng Khu đô thị sinh thái Long Thành ven sông Đồng Nai
Kiều Quốc Lập và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 31 - 37 
31 
THẢO LUẬN ĐƯỢC VÀ MẤT (DƯỚI GÓC ĐỘ MÔI TRƯỜNG) 
KHI XÂY DỰNG KĐT SINH THÁI LONG THÀNH VEN SÔNG ĐỒNG NAI 
Kiều Quốc Lập1, Nguyễn Thị Thúy Hằng2* 
1Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái nguyên 
2Viện Vật lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
TÓM TẮT 
Bài báo đề cập đến việc đánh đổi thông qua xem xét cán cân được – mất giữa kinh tế và môi 
trường khi xây dựng Khu đô thị Long Thành ven sông Đồng Nai. Sử dụng phương pháp tính trọng 
số bước đầu nhận định: đối với chất lượng nước sông, hệ sinh thái, rủi ro sự cố đều có trọng số <0; 
khi phân tích xung đột lợi ích giữa các ngành có sử dụng tài nguyên nước, cảnh quan trọng số ≈ 0. 
Với tổng điểm là <0, cần thiết xây dựng các biện pháp giảm thiểu: tận dụng tối đa diện tích rừng 
và đất mặt nước tự nhiên, mật độ xây dựng thấp; xây dựng hệ thống kè ven sông; xử lý triệt để 
lượng nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh viện; thu gom đúng quy định chất thải rắn thông thường 
và nguy hại là những kiến nghị của bài báo nhằm dịch chuyển cán cân đánh đổi theo chiều hướng 
được và hòa (Ki ≥ 0). 
Từ khóa: đánh đổi, xung đột, khu đô thị, hệ sinh thái, tài nguyên nước 
MỞ ĐẦU* 
Trong quá trình phát triển xung đột về kinh tế 
- xã hội – môi trường đã và sẽ liên tục diễn ra 
ở mọi quốc gia, đặc biệt tại các nước đang 
phát triển, “đánh đổi” là một thuật ngữ xuất 
phát từ thực tiễn này [1, 2]. 
Đồng Nai là sông nội địa dài nhất Việt Nam, 
dài 586 km, lưu vực 38.600 km². Hiện nay có 
2 ngành sử dụng tài nguyên nước nhiều nhất 
là thủy điện và thủy lợi: 12 nhà máy thủy 
điện, công suất 2150 MW, tạo dung tích điều 
tiết 6,3 tỷ m3 nước; về tưới đạt 250 ngàn ha; 
cấp nước sinh hoạt đô thị và công nghiệp 
bước đầu đáp ứng được yêu cầu. Đồng thời 
tận dụng điều kiện địa hình, khí hậu, thổ 
nhưỡng... ven sông, nhiều các khu du lịch, 
KĐT, công nghiệp... đã và đang được hình 
thành gây nên sự xung đột trong sử dụng tài 
nguyên nước. 
“KĐT du lịch sinh thái Long Thành” (KĐT 
Long Thành) được UBND tỉnh Đồng Nai phê 
duyệt quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 
1/2000 tại quyết định số 557/QĐ-UBND ngày 
09/3/2015 có diện tích 843 ha tại xã Tam 
Phước, Phước Tân, TP Biên Hòa và xã Tam 
An, huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai [3]. 
Toàn bộ phía Nam của KĐT bám sát theo sông 
Đồng Nai; các phía còn lại bao quanh bởi 
sông: Bến Gỗ, Trong và sông Giữa đều là phụ 
lưu của sông Đồng Nai (Hình 1). 
*
 Email: nguyenhang214@gmail.com 
Khi KĐT được hình thành sẽ cũng cấp một 
khu phức hợp gồm: biệt thự, nhà phố, khu 
dịch vụ thương mại, trung tâm sinh hoạt cộng 
đồng, đáp ứng quy hoạch của thành phố Biên 
Hòa. Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích 
cực về mặt kinh tế xã hội sẽ có những tác 
động tiêu cực không mong muốn đến hệ sinh 
thái (HST), chất lượng môi trường nước sông 
Đồng Nai... Vì vậy so sánh tiêu cực – tích 
cực, được – mất khi xây dựng KĐT dưới góc 
nhìn về môi trường là nội dung nghiên cứu 
của bài báo. 
Hình 1. Vị trí KĐT trong quy hoạch chung thành 
phố Biên Hòa 
Tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 
Tiếp cận vấn đề trên quan điểm tổng thể và 
liên ngành, xem xét KĐT trong lưu vực sông 
Đồng Nai và thành phố Biên Hòa. Các tiếp 
cận khác dựa trên HST và bảo vệ môi trường. 
Kiều Quốc Lập và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 31 - 37 
32 
Phương pháp nghiên cứu: Trong ngành môi 
trường, kết quả của một vấn đề thường là tổ hợp 
của nhiều cách thức nghiên cứu. Bài báo sử 
dụng chủ yếu là 03 phương pháp cơ bản sau: 
- Khảo sát thực địa: Trong năm 2017 đã tiến 
hành nhiều đợt khảo sát, các điều kiện tự 
nhiên, KT-XH, HST ven sông được thu thập 
đánh giá. 
- Ma trận: Cơ sở xây dựng là việc phân tích 
hoạt động của KĐT, liệt kê và nhận định các 
tác động, phân tích số liệu và xin ý kiến 
chuyên gia. Sau đó xây dựng ma trận tương 
tác đơn giản và không đơn giản: (1) Tại ma 
trận đơn giản: trục hoành ghi các yếu tố 
“được”, trục tung ghi các yếu tố “mất”. (2) 
Ma trận không đơn giản: Trên các ô ghi 
“được” và “mất” tiến hành cho điểm từ (-3) – 
(+3). Việc cho điểm còn mang tính chủ quan, 
để khắc phục, sử dụng công thức trọng số: 
 Ai – Amin 
Ki = ---------------------- x N cấp 
 Amax – Amin 
Trong đó: Ki = Trọng số; Ai = Số lượng mối 
quan hệ của các yếu tố; Amax và Amin = Số 
lượng lớn nhất và nhỏ nhất của mối quan hệ 
trong dãy yếu tố. 
Kết quả nhận được với trọng số = 0 cán cân 
đánh đổi là hòa, 0 là được. 
Phân tích hệ thống: Số liệu được tổng hợp và 
phân tích theo hệ thống, liên quan đến: đánh 
đổi giữa dịch vụ HST, bảo tồn đa dạng sinh 
học và phát triển; nguy cơ xảy ra rủi ro sự cố 
(sạt lở đường bờ, bồi tụ, biến đổi dòng 
chảy...). 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Hiện trạng sử dụng đất của khu vực được 
quy hoạch KĐT: Khu đất chủ yếu là đất nông 
nghiệp, trồng rừng (Bảng 1). Trong đó diện 
tích mặt nước, bán ngập, chiếm tỷ lệ lớn 
khoảng 60%, phần còn lại là giao thông, 
nghĩa trang, đất ở...(Hình 2, 3). 
Hình 2. Đất trồng tràm 
Hình 3. Đất mặt nước
Bảng 1. Hiện trạng sử dụng đất vùng quy hoạch KĐT Long Thành [3] 
TT Loại đất 
Xã Tam 
Phước (m2) 
Xã Phước 
Tân (m
2
) 
Xã Tam An (m
2
) 
Tổng diện 
tích (m
2
) 
1 Đất trồng cây lâu năm 1.785.608,4 346.025,8 175.204,8 2.306.839 
2 Đất trồng lúa 2.831.926,6 567.860,2 287.617,5 3.687.404,3 
3 Đất ở nông thôn 594.385 254.736,4 - 849.121,4 
4 Đất rừng sản xuất (keo lá tràm) 139.799,1 - - 139.799,1 
5 Đất sản xuất kinh doanh 37.634,3 3.722,0 - 41.356,3 
6 Sông rạch mặt nước 784.887,1 245.277,2 196.221,7 1.226.386 
7 Đất giáo dục - 246,4 - 246,4 
8 Đất nghĩa trang 3.528 - - 3.528 
9 Đất chưa sử dụng 58.516,9 - - 58.516,9 
10 Đất giao thông 62.179,6 22.860,1 6.400,8 91.440,5 
11 Đất thủy lợi 17.112,7 8.280,3 2.208,1 27.601,1 
Tổng 6.314.000 1.449.008,6 667.653,1 8.432.239 
Với hiện trạng sử dụng đất (chủ yếu là đất cây xanh, mặt nước - Bảng 1) sẽ được chuyển sang đất 
đô thị (cơ cấu sử dụng đất KĐT - Bảng 2). Toàn bộ phần diện tích có xây dựng công trình sẽ 
được phát quang và dọn dẹp mặt bằng, đây là hoạt động gây nhiều bất lợi nhất đến HST. 
Kiều Quốc Lập và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 31 - 37 
33 
Bảng 2. Cơ cấu sử dụng đất của KĐT Long Thành [3] 
TT Loại đất Diện tích (m2) Diện tích (ha) Tỉ lệ (%) Chỉ tiêu (m2/ng) 
I Đất khu ở 4,710,756 471,08 57,17 32,52 
II Đất công trình công cộng 920,280 92,03 11,17 6,35 
III Đất thương mại dịch vụ 344,228 34,42 4,18 2,38 
IV Cây xanh công cộng 1,054,689 105,47 12,80 7,28 
V Mặt nước 670,762 67,08 8,14 4,63 
VI Giao thông & HTKT 539,674 53,97 6,55 3,72 
VII Đất giao thông đô thị 191,851 19,19 2,33 
Tổng 8,432,239 843,22 100,00 58,20 
Đánh đổi với chất lượng môi trường nước 
sông Đồng Nai: KĐT xây dựng 03 trạm 
XLNT với tổng công suất là 26.600 m3/ngđ. 
Nước thải sinh hoạt có hàm lượng các chất 
hữu cơ cao, dễ bị phân hủy sinh học 
(carbohydrat, mỡ) các chất dinh dưỡng 
(nitơ, photphat), chất lơ lửng, vi trùng và mùi. 
Những hợp chất này sẽ làm gia tăng hàm 
lượng ô nhiễm trong nước và đất, tác động bất 
lợi đến đời sống sinh vật thủy sinh, gia tăng 
hiện tượng phú dưỡng, thúc đẩy sự phát triển 
của các vi sinh vật như vi khuẩn, nấm, tảo. 
Hậu quả là sự tăng trưởng đáng kể của hệ 
phiêu sinh, các loại tảo que, tảo xanh, tảo độc. 
Cùng với đó là giảm hàm lượng oxy hòa tan, 
giảm khả năng tự làm sạch nguồn nước, giảm 
độ trong, cùng với sự phân hủy hữu cơ làm 
nước bị nhiễm bẩn có mùi hôi, thối, khó chịu, 
pH giảm. 
Khi mưa, nước mưa chảy tràn cuốn theo đất, 
cát, cặn bã, dầu mỡ xuống cống và thoát ra 
sông Nước Lạnh, sông Giữa, rạch Ông Trung. 
Lượng nước mưa chảy tràn được tính toán 
theo công thức thủy văn dựa vào lượng mưa 
khu vực tỉnh Đồng Nai, diện tích thu nước... 
là 32,65 m
3/s tương ứng với tải lượng ô nhiễm 
trong 15 phút đầu 321,5 (kg) [3]. Thông qua 
34 cửa xả, lượng nước mưa này được xả ra 
phụ lưu và sông chính Đồng Nai cũng là một 
nguồn chính làm giảm chất lượng nước mặt 
kéo theo sự suy giảm của yếu tố khác: đánh 
bắt – nuôi trồng thủy hải sản, cấp nước sinh 
hoạt, tưới tiêu... 
Như vậy chấp nhận xây dựng KĐT Long 
Thành, một mặt sẽ góp phần: Xây dựng KĐT 
sinh thái hiện đại, tạo dấu ấn đô thị dọc sông 
Đồng Nai; cung cấp hệ thống kết cấu hạ tầng 
hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh 
Đồng Nai và vùng TP Hồ Chí Minh. Mặt 
khác là gia tăng áp lực tiếp nhận và xử lý 
nước mưa – nước thải cho sông Đồng Nai và 
phụ lưu. Đưa vào ma trận tính trọng số, kết quả 
cho Ki = -2, như vậy sự đánh đổi là được và 
mất. Cần xử lý triệt để lượng nước thải này 
dịch chuyển cán cân này về trạng thái được và 
hòa, đảm bảo phát triển bền vững chung cho 
vùng sông Đồng Nai. 
Đánh đổi với việc suy giảm đa dạng sinh 
học: Khi diện tích thảm thực vật, chất lượng 
nước sông suy giảm (do nước thải – nước mưa, 
rác thải) tương ứng là giảm đa dạng sinh học. 
Với hiện trạng khoảng 90% đất cây xanh và 
mặt nước có hệ động thực vật khá phong phú: 
Hệ thực vật có 65 loài thuộc 19 chi của 7 họ 
thực vật có mạch và được phân bổ trong 2 
ngành thực vật bậc cao. 
Động vật được chia theo từng nhóm: Nhóm 
Thú: chủ đạo lài thú nhỏ như chuột, chồn, 
nhím, cầy,...; Nhóm Chim: 32 loài chim với 
thành phần loài là các loài chim điển hình cho 
vùng Nam Bộ. Nhóm Bò sát và Lưỡng cư 
tương đối đa dạng; Nhóm Cá nước ngọt.. 
Khi phần lớn đất cây xanh mặt nước chuyển 
sang đất công trình, chỉ giữ lại ≈ 21% nguyên 
trạng sẽ tác động đến HST và ĐDSH khu vực 
đất ngập nước, HST rừng ngập mặn Long 
Thành – Nhơn Trạch,...., 
Giảm đa dạng thực vật: Giảm diện tích rừng 
cũng là làm giảm diện tích nơi sinh cư của 
hầu hết các nhóm động vật hoang dại. Trong 
quá trình triển khai, các hoạt động của con 
người, máy móc sẽ tác động bất lợi đến sinh 
vật như: di chuyển máy móc làm gẫy đổ cành, 
Kiều Quốc Lập và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 31 - 37 
34 
cây; phát sinh bụi và khí thải làm giảm khả 
năng quang hợp; dầu mỡ, chất thải sinh hoạt 
rơi vãi làm giảm chất lượng đất... 
Giảm đa dạng động vật: Khi triển khai thi 
công, các loài động vật sẽ tự tìm cách di 
chuyển lên cao và xa hơn. Quá trình di chuyển 
dẫn đến chia cắt quần thể, ảnh hưởng đến số 
lượng, khả năng tiếp cận nhau không dễ do các 
chướng ngại sinh học hoặc do các tác nhân 
sinh thái gây ra. Đối với thú nhỏ như Chuột, 
Chồn, Nhím, Cầy,... vùng hoạt động hẹp sẽ 
phải trụ lại ở các trảng cây bụi hoặc chết. 
Nói chung, tất cả các loài thú rừng đều rất 
nhạy cảm với sự thay đổi môi trường sống, 
đặc biệt là sự thay đổi trên diện rộng có nhiều 
kiểu sinh cảnh khác nhau như vùng xây dựng 
công trình. Một số loài động vật ở khu vực 
ven sông, rạch sẽ mất nơi kiếm ăn. Chuột, 
Cầy, Sóc... và các loài động vật khác cư trú 
trong hang hốc có thể phải di chuyển lên cao 
trình lớn hơn hoặc đi nơi khác kiếm ăn tạo 
nên sự xáo trộn cuộc sống. Những loài di cư 
đến môi trường khác có thể bị săn bắt, không 
phù hợp với môi trường sống mới hoặc làm 
mồi cho loài động vật ăn thịt khác. 
Thông thường để làm rõ được và mất đối với 
HST trước và sau khi có KĐT, cần đánh giá 
diễn thế. Tuy nhiên nội dung này thường 
được thực hiện sau khi KĐT đi vào hoạt động 
sau một thời gian dài với chuỗi số liệu, kinh 
phí, nhân lực đủ lớn. Vì vậy việc xác định tỷ 
trọng được và mất chỉ mang tính chất ước 
đoán. Khi đưa vào ma trận tính trọng số kết quả 
cho giá trị Ki = -2, như vậy sự đánh đổi giữa 
du lịch và HST là được và mất. 
Đánh đổi với rủi ro sự cố: Đối với các KĐT 
ven sông, biển các rủi ro sự cố đáng lưu tâm 
nhất đều liên quan đến thủy văn như: sạt lở 
đường bờ, biến động dòng chảy, bồi tụ....; 
ngoài ra một sự cố khác cũng khá quan trọng 
liên quan đến 03 trạm XLNT 
- Sự cố xói lở và bồi lắng bờ sông: Quá trình 
xây dựng KĐT tiếp giáp với sông Đồng Nai, 
sông Giữa,.... Với quy mô xây dựng khu nhà 
ở có diện tích 472 ha, khu đất giao thông 54 
ha, đất cây xanh khoảng 105 ha...cùng việc sử 
dụng các thiết bị máy xúc, máy đầm, rung... 
có nguy cơ xảy ra hiện tượng sạt lở bờ sông. 
Kết hợp với việc tồn tại của các biệt thự, liền 
kề, đường giao thông đều làm tăng nguy cơ 
xói lở- bồi lắng làm giảm tiết diện dòng chảy, 
tăng nguy cơ úng ngập vào ngày mưa bão. 
- Các tuyến kè xây dựng có thể ảnh hưởng tới 
việc tiêu thoát nước mặt, nước mưa chảy tràn 
khu vực. Hoạt động xây dựng kè tạo nên hình 
thức bờ sông mới, hoạt động này sẽ làm thay 
đổi ít nhiều động lực cũng như hướng dòng 
chảy và chất lượng bề mặt nền địa hình bờ sông, 
sẽ dẫn tới việc thay đổi hình dạng của các bãi 
bồi, lòng dẫn lòng sông, rạch có thể ảnh hưởng 
đến sự ổn định đường bờ của khu vực. 
- Trong quá trình vận hành trạm XLNT có thể 
xảy sự cố do: Hư hỏng thiết bị máy bơm, máy 
sục khí làm cho hệ thống xử lý ngừng hoạt 
động; Hư hỏng, vỡ đường ống dẫn nước thải; 
Ngập lụt do sự cố thiên tai làm nước thải chưa 
xử lý triệt để thoát ra ngoài. Chất lượng nước 
sau xử lý không đảm bảo tiêu chuẩn thải ra 
nguồn tiếp nhận, gây ảnh hưởng đến hệ thủy 
sinh, phát tán các vi khuẩn gây bệnh, gây ô 
nhiễm môi trường và phát sinh mùi hôi từ 
nước thải chưa được xử lý gây ảnh hưởng đến 
tới sức khỏe cộng đồng dân cư sống trong 
KĐT và khu dân cư xã Tam An, xã Tam 
Phước tiếp giáp với KĐT. 
Về nguyên tắc rủi ro sự cố có thể xảy ra hoặc 
không xảy ra, tần suất xảy ra thấp, tuy nhiên 
nếu xảy ra thì thiệt hại lớn về cả kinh tế và 
môi trường. Đưa vào ma trận tính trọng số kết 
quả Ki ≈ -1, đồng nghĩa với việc cán cân 
nghiêng về mất nhiều hơn được. 
Đánh đổi lợi ích giữa các ngành có sử dụng 
tài nguyên nước 
Nhu cầu sử dụng nước trên lưu vực sông 
Đồng Nai có thể chia làm 02 nhóm chính: Sử 
dụng làm tiêu hao nước như tưới nông 
nghiệp, cấp nước sinh hoạt và công nghiệp; 
Sử dụng không tiêu hao nước như thủy điện, 
giao thông, nuôi trồng thủy sản. 
Kiều Quốc Lập và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 31 - 37 
35 
Thực tế trên lưu vực chủ yếu tiêu hao nguồn 
nước là sử dụng cho tưới cây nông nghiệp và 
cây công nghiệp, nhu cầu nước sinh hoạt 
không lớn với tỷ lệ dân ở đô thị khoảng trên 
30% chủ yếu lấy từ nguồn nước ngầm. Công 
nghiệp trong khu vực với các ngành sử dụng 
nhiều nước là chế biến nông lâm sản, thực 
phẩm, hiện trên địa bàn đã có một số khu 
công nghiệp đáng kể như: Biên Hòa 1, Đồng 
Nai, Sonadezi.... nhưng phần lớn cũng đều sử 
dụng nguồn nước ngầm. 
Đến nay trên hệ thống sông có 16 nhà máy đã 
hoàn thành và đưa vào vận hành (Hình 4) 
Hình 4. Bậc thang thủy điện sông Đồng Nai 
Về tưới đạt 250 ngàn ha, các hồ chứa lớn và 
vừa theo quy hoạch căn bản đã được xây 
dựng, các cánh đồng lớn đều được tưới. 
Thành quả khai thác tài nguyên nước đã góp 
phần quan trọng trong sự phát triển của toàn 
lưu vực. Song nếu XLNT sinh hoạt của KĐT 
Long Thành không triệt để, sẽ đẩy xu thế ô 
nhiễm ngày càng gia tăng, HST thủy sinh sẽ 
bị tác động mạnh. Những xung đột chủ yếu 
khi bổ sung thêm hoạt động của KĐT trên lưu 
vực sông là: 
- Đánh đổi lợi ích đối với cấp nước sinh hoạt, 
nước tưới. Do việc xả thải một lượng lớn 
nước mưa từ 34 cửa xả, 3 trạm XLNT công 
suất 27000m3/ngđ sẽ khiến cho chất lượng bị 
suy giảm, ảnh hưởng đến chất lượng và số 
lượng nước tưới, nước cấp. Theo quyết định 
số 204/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch cấp 
nước Đồng Nai đến năm 2020, tầm nhìn đến 
năm 2050, tiến tới sẽ thay thế dần việc cấp 
nước từ nước ngầm bằng nguồn nước mặt từ 
sông Đồng Nai và các phụ lưu với công suất 
khai thác 1.143.000m
3/ngày (năm 2020). 
Như vậy khi KĐT tiến hành xả thải sẽ làm ô 
nhiễm nguồn nước mặt, giảm chất lượng nước 
cấp cho sinh hoạt và nước tưới tiêu => đánh 
đổi về chất lượng nước sẽ ngày càng tăng. 
- Đánh đổi trong việc xả lũ của các hồ thủy 
điện với vận tải thủy: KĐT quy hoạch các 
công trình văn hóa phía Tây và Tây- Nam 
trong đó có bến thuyền, một mặt phục vụ cho 
hoạt động KĐT một mặt bổ trợ đưa khách đến 
chơi golf tại sân Long Thành kết hợp với du 
lịch vùng sông nước lưu vực sông Đồng Nai. 
Hồ chứa thủy điện luôn hoạt động theo cơ chế 
điều tiết (trữ nước vào hồ và xả nước khỏi hồ) 
bởi nhu cầu tiêu thụ điện năng hàng ngày. 
Như vậy khi hồ thủy điện tích nước, làm giảm 
mực nước ở dòng chính và các nhánh sông 
gây khó khăn cho giao thông thủy, đồng thời 
nếu xả nước từ hồ quá nhiều và quá nhanh gia 
tăng các nguy cơ rủi ro tai nạn đường thủy 
hoặc gián đoạn giao thông. 
Như vậy khi có hoạt động xả lũ từ các nhà 
máy thủy điện, giao thông thủy trên lưu vực 
sẽ tạm dừng; khi có hoạt động xả nước thải 
tương ứng với tăng chi phí xử lý nước cấp, 
giảm năng suất cây trồng. Đánh đổi giữa các 
ngành kinh tế ở đây là tương quan 1-1. 
Đánh đổi về cảnh quan 
Các ngành kinh tế đều dựa vào địa thế sông 
Đồng Nai: Du lịch dựa vào các khu rừng ngập 
mặn, đa dạng HST, điều kiện khí hậu ...; công 
nghiệp dựa vào địa hình – vị trí để khai thác 
và thoát nước; các KĐT dựa vào địa thế để tổ 
chức không gian. Tuy nhiên, khi hình thành 
các KĐT đồng nghĩa với việc giảm diện tích 
đất rừng, giảm đa dạng sinh học, kéo theo 
kìm chế sự phát triển của ngành khác. 
Tồn tại song song với số dân 100.000 người 
các nguồn ô nhiễm môi trường nước thải, rác 
thải rác thải; bụi ồn từ xe cộ, rủi ro sự cố dầu 
tràn từ giao thông thủy, làm phá vỡ cảnh quan 
Kiều Quốc Lập và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 31 - 37 
36 
vùng sông nước thay vào đó là phức hợp nhà ở, 
khu vui chơi giải trí phù hợp cảnh quan đô thị. 
Đưa vào ma trận tính trọng số kết quả Ki = 0, 
như vậy đánh đổi trong nội dung này là hòa. 
Tỷ trọng giữa được và mất ở nội dung này 
không lớn, hay nói chính xác hơn là khá 
tương đồng trong khái niệm đánh đổi, do chấp 
nhận cảnh quan nhân sinh thì sẽ mất cảnh 
quan tự nhiên. 
Kiến nghị giảm thiểu cán cân đánh đổi 
Môi trường, đa dạng sinh học vùng ven sông 
Đồng Nai hiện đang bị suy giảm do nhiều 
nguyên nhân, trong đó phải kể đến quá trình 
phát triển các ngành kinh tế, đô thị chưa hài 
hòa với công tác bảo tồn tài nguyên thiên 
nhiên. Để dịch chuyển được – mất theo chiều 
hướng cân bằng hòa – hòa nhất thiết phải xây 
dựng các biện pháp khống chế và giảm thiểu 
các yếu tố tiêu cực. 
- Giảm thiểu tác động đến môi trường nước: 
KĐT cần xây dựng các biện pháp quản lý 
trạm XLNT, thực hiện việc giám sát chất 
lượng nước thải định kỳ trước khi xả vào 
nguồn tiếp nhận. Xây dựng biện pháp phòng 
ngừa, ứng phó rủi ro trong từng trường hợp 
cụ thể: vỡ đường ống, ngập bể chứa, vượt 
dung tích xử lý... để kịp thời xử lý tình huống. 
- Giảm thiểu tác động đến suy giảm đa dạng 
sinh học: Tăng cường trồng các loài cây bản 
địa trong KĐT, ký quỹ trồng phục hồi phần 
diện tích chuyển đổi mục đích sử dụng. Thu 
gom và xử lý triệt để tất cả các nguồn chất 
thải phát sinh, không để phát tán ra môi 
trường không khí, đất, nước. 
- Giảm thiểu tác động với rủi ro sự cố: Lên kế 
hoạch chi tiết chương trình giảm thiểu rủi ro 
sự cố đối với hệ thống tiêu thoát nước và 
XLNT. Khảo sát chi tiết địa chất khu vực, xây 
dựng các biện pháp kỹ thuật phù hợp với đặc 
thù nền đất yếu ven sông. Tại các vị trí có 
nguy cơ sạt lở, tiến hành gia cố trước khi thi 
công bằng cọc tre, kè rọ đá... 
- Giảm thiểu xung đột lợi ích giữa các ngành 
có sử dụng tài nguyên nước: Kiến nghị Bộ 
Công thương xây dựng và phê duyệt quy trình 
vận hành liên hồ chứa trên sông Đồng Nai. 
Xây dựng kế hoạch xả nước thải, tuyến giao 
thông thủy KĐT căn cứ trên quy trình vận 
hành liên hồ chứa. Giám sát chặt chẽ nước 
thải đầu ra tại 03 trạm XLNT, cam kết chỉ xả 
nước thải khi đã được xử lý đạt chuẩn. 
- Giảm thiểu ảnh hưởng đến cảnh quan: Thực 
hiện tốt công tác bảo vệ môi trường trong 
KĐT: đổ rác thải đúng nơi quy định, khuyến 
khích người dân sử dụng xăng sinh học và 
trồng cây bản địa, tổ chức không gian sống 
theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt. 
Khi KĐT thực hiện tốt các công tác bảo vệ 
môi trường trong quá trình xây dựng và vận 
hành, liên kết tốt giữa các ngành kinh tế thì 
cán cân được và mất sẽ dịch chuyển dần về 
trạng thái cân bằng tự nhiên. 
KẾT LUẬN 
Phát triển, đô thị hóa là một vấn đề tất yếu 
của xã hội, tuy nhiên phải hài hòa với cảnh 
quan thiên nhiên để tạo ra một khối thống 
nhất và bổ trợ cho nhau. Xây dựng KĐT du 
lịch sinh thái Long Thành nhằm phục vụ mục 
đích phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của tỉnh 
Đồng Nai, nâng cao đời sống của người dân 
khu vực nói riêng và tỉnh Đồng Nai nói 
chung. Bài báo bàn luận các vấn đề được mất 
dưới góc độ môi trường của quá trình xây 
dựng KĐT như: Môi trường nước, suy giảm 
đa dạng sinh học, rủi ro sự cố, xung đột lợi 
ích giữ các ngành sử dụng tài nguyên nước và 
ảnh hưởng đến cảnh quan khu vực. 
Dựa trên tính toán trên, cần thiết phải xây 
dựng các biện pháp giảm thiểu nhằm dịch 
chuyển dần cán cân được mất về trạng thái 
hòa – hòa là: kiểm soát và xử lý triệt để các 
nguồn thải, gia cố khu vực bờ sông dễ xói lở, 
lên kế hoạch chi tiết phòng ngừa rủi ro sự cố 
trong quá trình vận hành KĐT, tăng cường 
trồng các loại cây bản địa và ký quỹ trồng 
phục hồi phần diện tích đất cây xanh bị 
chuyển đổi. 
Kiều Quốc Lập và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 189(13): 31 - 37 
37 
Việc hướng tới phát triển bền vững là khó 
khăn, đòi hỏi khu vực cần phải có các nghiên 
cứu chuyên sâu. Thời gian tới nhóm tác giả sẽ 
tiếp tục dành thời gian cho các nội dung này 
để có thể có cái nhìn tổng quan về kinh tế, xã 
hội, môi trường và sinh thái khu vực ven sông 
Đồng Nai. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoàng Văn Thắng, Trần Chí Trung, Thomas 
McShane (2008), “Đánh đổi giữa bảo tồn thiên 
nhiên và phát triển, sự lựa chọn khó khan”, Hội 
thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, tr. 648-658. 
2. Ngô Trà Mai (2016), “Bước đầu phân tích đánh 
đổi môi trường khi nạo vét thông luồng Khu kinh tế 
Vân Phong và đề xuất biện pháp giảm thiểu”, Hội 
nghị địa lý lần thứ 9, tr. 265-272. 
3. Công ty TNHH Đầu tư và Kinh doanh KN 
Long Thành (2017), Thuyết minh tổng hợp Quy 
hoạch phân khu xây dựng đô thị tỷ lệ 1/2000 
Khu đô thị du lịch sinh thái tại xã Phước Tân, 
xã Tam Phước, thành phố Biên Hòa và xã Tam 
An huyện Long Thành. 
ABSTRACT 
DISCUSSIONS ABOUT THE BENEFITS AND LOSSES (UNDER AN 
ENVIRONMENTAL) WHEN BUIDING LONG THANH ECOLOGICAL URBAN 
AREA BY DONG NAI RIVER BANK 
Kieu Quoc Lap
1
, Nguyen Thi Thuy Hang
2*
1University of Sciences - TNU 
2Institute of Physics - Vietnam Academy of Science and Technology 
This article mention the trade off after reviewing the balance gains – losses between economy and 
environment when building Long Thanh ecological urban area by Dong Nai river bank. By using 
initial weighting method, initial assessment show: with river water quality, ecosystem, risks all 
have a weight of less than 0, when analyzing the conflict of interest between different departments 
that uses water the weight is ≈ 0. 
With the total score of <0, it is necessary to build reduction methods: optimize the forest and 
natural land and water surface areas, low construction density, build an embankment, treat waste 
water, hospital waste, collect normal and harmful solid wastes according to regulations, are the 
suggestions of the article to tip the scale of trade balance to gain and balance (Ki ≥ 0). 
Keyword: trade-off, conflict, urban area, ecology, water resources. 
Ngày nhận bài: 19/9/2018; Ngày hoàn thiện: 16/10/2018; Ngày duyệt đăng: 30/11/2018 
*
 Email: nguyenhang214@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfthao_luan_duoc_va_mat_duoi_goc_do_moi_truong_khi_xay_dung_kh.pdf