Thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định

TÓM TẮT

Mục tiêu: Khảo sát thực trạng và đánh

giá thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm

sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm

cho người bệnh đột quỵ sau can thiệp giáo

dục. Phương pháp: Can thiệp giáo dục một

nhóm có so sánh trước sau cho 45 điều

dưỡng lâm sàng trực tiếp chăm sóc người

bệnh đột quỵ tại Bệnh viện đa khoa tỉnh

Nam Định. Nội dung can thiệp dựa trên

khuyến cáo của Bộ Y tế về tiêu chuẩn chất

lượng xử trí đột quỵ não. Sử dụng cùng

phiếu hỏi tự điền để đánh giá nhận thức

của điều dưỡng tại các thời điểm trước

can thiệp, ngay sau can thiệp và sau can21

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01

thiệp 30 ngày. Kết quả: Nhận thức của điều

dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận

động sớm cho người bệnh đột quỵ trước can

thiệp thấp, đạt 7 ± 2,14 điểm trên tổng 20

điểm và được cải thiện rõ rệt với 16,62 ±

1,81 điểm ngay sau can thiệp và duy trì ở

15,13 ± 3,34 điểm sau can thiệp 30 ngày (p

< 0,001).="" trước="" can="" thiệp,="" tỷ="" lệ="" điều="">

nhận thức được đầy đủ các biến chứng có

thể xảy ra sau đột quỵ do kém vận động là

0%, tư thế của người bệnh phù hợp với tình

trạng người bệnh là 2,2%, thời điểm để vận

động sớm là 0% và qui trình vận động sớm

cho người bệnh là 55,5%. Các tỷ lệ này đều

tăng ở các thời điểm ngay sau can thiệp và

sau can thiệp 30 ngày, theo trình tự là 8,9%

và 24,4%; 44% và 40%; 53,3% và 37,8%;

100% và 95,5%. Kết luận: Nhận thức của

điều dưỡng về chăm sóc tư thế và vận động

sớm cho người bệnh đột quỵ trước can thiệp

còn thấp và được cải thiện đáng kể sau can

thiệp giáo dục. Nghiên cứu cho thấy sự cần

thiết của can thiệp giáo dục phù hợp về nội

dung, hình thức và đối tượng tham gia cho

mỗi cho lĩnh vực chăm sóc cụ thể.

pdf 8 trang yennguyen 6220
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định

Thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định
20
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01
trung bình giảm từ 37,1% xuống 15,2% và 
kiến thức yếu giảm từ 30,5% xuống 6,6%. 
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p 
<0,05.
Nhân viên y tế cần phải tăng cường thực 
hiện công tác giáo dục sức khỏe cho bà mẹ 
trước và sau sinh về vàng da sơ sinh, đặc 
biệt chú ý tới đối tượng bà mẹ mang thai, 
cũng như các lớp tư vấn tiền sản, chương 
trình tivi tại phòng khám thai, Nội dung 
giáo dục sức khỏe cần chú trọng kiến thức 
về mức độ, tốc độ vàng da bệnh lý và nhận 
biết màu sắc nước tiểu và phân của trẻ, 
cách nhận biết vàng da, thời gian xuất hiện 
vàng da và theo dõi trẻ vàng da.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ y tế (2011), Thông tư số 07/2011/
TT-BYT – Thông tư hướng dẫn công tác điều 
dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh 
viện, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/
The-thao-Y-te/Thong-tu-07-2011-TT-BYT-
huong-dan-cong-tac-dieu-duong-cham-soc-
nguoi-benh-118433.aspx, xem 15/8/2015.
2. Phạm Diệp Thùy Dương (2013), “Kiến 
thức - thái độ - thực hành về vàng da sơ 
sinh của bà mẹ tại TP. Hồ Chí Minh”, Tạp chí 
Y học TP. Hồ Chí Minh, 17(2), 69-73.
3. Nguyễn Công Khanh (2007), “Vàng da 
sơ sinh”, Tiếp cận chẩn đoán Nhi khoa, Nhà 
xuất bản Y học, tr. 18 - 22 và tr. 70 - 86.
4. Phạm Thị Luya và Trần Tôn Nữ Anh Ty 
(2009), “Khảo sát kiến thức, thái độ, hành 
vi về bệnh vàng da của các bà mẹ có con 
đang nằm điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện 
Nhi Đồng - Đồng Nai”, Hội nghị khoa học 
Điều Dưỡng nhi khoa toàn quốc lần thứ VI - 
Bệnh viện Nhi TW, tr. 167 -172. 
5. Đào Minh Tuyết (2009), Đánh giá kết 
quả điều trị vàng da tăng Bilirubin tự do ở 
trẻ sơ sinh bằng liệu pháp ánh sáng tại khoa 
Nhi bệnh viện đa khoa trung ương Thái 
Nguyên, Luận văn thạc sỹ y học, Đại học 
Y – Dược Thái Nguyên.
6. Ngô Minh Xuân (2001), Phân cấp chẩn 
đoán và điều trị vàng da sơ sinh do tăng 
Bilirubin gián tiếp, Luận án tiến sĩ y học, 
thành phố Hồ Chí Minh. 
THAY ĐỔI NHẬN THỨC CỦA ĐIỀU DƯỠNG LÂM SÀNG VỀ CHĂM SÓC 
TƯ THẾ VÀ VẬN ĐỘNG SỚM CHO NGƯỜI BỆNH ĐỘT QUỴ TẠI BỆNH VIỆN 
ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH
1Ngô Huy Hoàng, 1Phạm Thị Thu Hương 2Hoàng Thị Kim Yến, 2Vũ Thị Phương, 2Phạm Thị Huê
1Trường đại học Điều dưỡng Nam Định, 2Bệnh viên đa khoa tỉnh Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát thực trạng và đánh 
giá thay đổi nhận thức của điều dưỡng lâm 
sàng về chăm sóc tư thế và vận động sớm 
Người chịu trách nhiệm: Ngô Huy Hoàng
Email: ngohoang64@gmail.com 
Ngày phản biện: 20/01/2018
Ngày duyệt bài: 22/02/2018
Ngày xuất bản: 14/03/2018
cho người bệnh đột quỵ sau can thiệp giáo 
dục. Phương pháp: Can thiệp giáo dục một 
nhóm có so sánh trước sau cho 45 điều 
dưỡng lâm sàng trực tiếp chăm sóc người 
bệnh đột quỵ tại Bệnh viện đa khoa tỉnh 
Nam Định. Nội dung can thiệp dựa trên 
khuyến cáo của Bộ Y tế về tiêu chuẩn chất 
lượng xử trí đột quỵ não. Sử dụng cùng 
phiếu hỏi tự điền để đánh giá nhận thức 
của điều dưỡng tại các thời điểm trước 
can thiệp, ngay sau can thiệp và sau can 
21
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01
thiệp 30 ngày. Kết quả: Nhận thức của điều 
dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận 
động sớm cho người bệnh đột quỵ trước can 
thiệp thấp, đạt 7 ± 2,14 điểm trên tổng 20 
điểm và được cải thiện rõ rệt với 16,62 ± 
1,81 điểm ngay sau can thiệp và duy trì ở 
15,13 ± 3,34 điểm sau can thiệp 30 ngày (p 
< 0,001). Trước can thiệp, tỷ lệ điều dưỡng 
nhận thức được đầy đủ các biến chứng có 
thể xảy ra sau đột quỵ do kém vận động là 
0%, tư thế của người bệnh phù hợp với tình 
trạng người bệnh là 2,2%, thời điểm để vận 
động sớm là 0% và qui trình vận động sớm 
cho người bệnh là 55,5%. Các tỷ lệ này đều 
tăng ở các thời điểm ngay sau can thiệp và 
sau can thiệp 30 ngày, theo trình tự là 8,9% 
và 24,4%; 44% và 40%; 53,3% và 37,8%; 
100% và 95,5%. Kết luận: Nhận thức của 
điều dưỡng về chăm sóc tư thế và vận động 
sớm cho người bệnh đột quỵ trước can thiệp 
còn thấp và được cải thiện đáng kể sau can 
thiệp giáo dục. Nghiên cứu cho thấy sự cần 
thiết của can thiệp giáo dục phù hợp về nội 
dung, hình thức và đối tượng tham gia cho 
mỗi cho lĩnh vực chăm sóc cụ thể.
Từ khóa: vận động sớm, đột quỵ.
CHANGES IN THE AWEARNESS OF CLINICAL REGISTERED NURSES 
OF POSITIONING AND EARLY MOBILIZATION CARE FOR STROKE PATIENTS
IN NAM DINH GENERAL HOSPITAL
ABTRACT
Objective: To asssess the awearness 
of clinical registered nurses of positioning 
and early mobilization care for patients with 
stroke before and after the educational in-
tervention. Method: Based on the quality 
criteria guideline by Ministry of Health 2014 
for caring stroke patients, the one group pre-
test and post-test educational intervention 
was conducted among 45 clinical registered 
nurses in Nam Dinh general hospital. Using 
the same self-completed questionnaire to 
measure nurses’ knowledge before, right af-
ter the completion of the intervention and 30 
days later. Result: The mean score of nurs-
es’ awareness of positioning and early mo-
bilization care for patients with stroke was 7 
± 2,14 of the total 20 points before the inter-
vention, then went up to 16,62 ± 1,81 points 
right after the completion of the intervention 
and remained at 15,13 ± 3,34 points at the 
time of 30 days later (p values of 0.001). The 
percentages of clinical nurses perceived ad-
equately the complications caused by poor 
positioning and early mobilization care; pa-
tients’ positions in accordance with specific 
stroke conditions; the time and required clin-
ical signs and symptoms allowing a nurses 
to begin mobilization care for a stroke pa-
tient; and the right process of early mobi-
lization before the intervention were 0%, 
2.2%, 0%, and 55,5%. These percentages 
increased immediately after the intervention 
and retained at high levels at 30 days later, 
equal to 8.9% and 24.4%, 44% and 40%, 
53.3% and 37.8%, 100% and 95.5%, re-
spectively. Conclusion: The awareness of 
clinical nurses of positioning and early mo-
bilization care for stroke patients within the 
study was low before the intervention, then 
improved significantly after completing the 
educational programme. The research re-
sults revealed the necessity to conduct ed-
ucational programmes which have to be ap-
propriate in contents, learning method, and 
especially in target participants for specific 
nursing care.
Key word: early mobilization, stroke. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới [12], đột quỵ 
não hiện là nguyên nhân phổ biến đứng 
thứ hai và dự báo đến năm 2030 sẽ trở 
thành một trong những nguyên nhân hàng 
đầu gây tử vong trên phạm vi toàn thế giới. 
Những người sống sót sau đột quỵ thường 
gánh chịu những di chứng suy giảm hoặc 
mất chức năng não tùy theo mức độ và vị trí 
của tổn thương não sau đột quỵ [11]. 
Những hiệu quả rõ rệt không những 
giảm tàn phế về mặt cơ thể mà còn cải thiện 
trạng thái tâm lý của chăm sóc tư thế và vận 
22
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01
động sớm cho người bệnh đột quỵ đã được 
khẳng định. Nhưng các quan sát thực tế lại 
cho thấy một thực trạng là người bệnh sau 
đột quỵ thường nằm bất động [2], [4]. Việc 
bắt đầu thay đổi tư thế cho người bệnh đột 
quỵ trên giường bệnh và vận động sớm cho 
người bệnh thường bị hạn chế do hệ quả 
từ yêu cầu bất động người bệnh của bác sỹ 
điều trị trong những giờ đầu khởi phát đột 
quỵ, sự e ngại từ phía người bệnh và người 
nhà đối với việc thay đổi tư thế và vận động 
cho người bệnh [2], và từ chính người điều 
dưỡng [4]. Vai trò đặc biệt quan trọng và duy 
nhất của người điều dưỡng trong cải thiện 
tình trạng này thông qua việc chăm sóc liên 
tục người bệnh đột quỵ cũng đã được khẳng 
định [4], [5].
Tại Việt Nam, rất ít công bố về hiệu 
quả của can thiệp giáo dục nhằm thay đổi 
nhận thức về đột quỵ hướng tới vận động 
sớm cho người bệnh. Xuất phát từ thực tế 
chăm sóc người bệnh đột quỵ và nhằm mục 
đích tăng cường nhận thức cho người điều 
dưỡng trực tiếp chăm sóc người bệnh đột 
quỵ đặc biệt là trong giai đoạn cấp, chúng 
tôi tiến hành đề tài “Thay đổi nhận thức của 
điều dưỡng lâm sàng về chăm sóc tư thế và 
vận động sớm cho người bệnh đột quỵ” với 
mục tiêu: Khảo sát thực trạng nhận thức và 
đánh giá thay đổi nhận thức của điều dưỡng 
lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động 
sớm cho người bệnh đột quỵ sau can thiệp 
giáo dục.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 4 
đến tháng 6 năm 2017, với sự tham gia của 
toàn bộ 45 điều dưỡng lâm sàng trực tiếp 
chăm sóc người bệnh đột quỵ tại các khoa 
Nội A, Tim Mạch, Hồi sức cấp cứu và Thần 
kinh thuộc Bệnh viện ĐK tỉnh Nam Định.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp giáo dục một nhóm 
có so sánh trước – sau. Các nội dung về 
chăm sóc tư thế và vận động sớm cho người 
bệnh đột quỵ dựa trên khuyến cáo của Bộ 
Y tế về tiêu chuẩn chất lượng xử trí đột quỵ 
não [1], được cụ thể hóa với nhận thức về 
phòng ngừa các biến chứng, tư thế người 
bệnh phù hợp, thời điểm bắt đầu vận động 
sớm và qui trình vận động sớm cho người 
bệnh đột quỵ. Mô hình “Modified Kolb’s 
Model for Vietnam” [10] được áp dụng để 
chuyển tải kiến thức, trong đó người điều 
dưỡng lâm sàng từ thực tiễn chăm sóc, 
chia sẻ những trải nghiệm và các vấn đề 
gặp phải, cùng nhau thảo luận với những 
ý kiến tương đồng hoặc trái chiều, đi đến 
công nhận cái đúng và thừa nhận kiến thức, 
để từ đó áp dụng trở lại thực tiễn chăm sóc 
một cách tốt hơn. Sử dụng cùng một bộ câu 
hỏi tự điền với tổng điểm là 20 để đánh giá 
nhận thức của điều dưỡng tại 3 thời điểm 
trước can thiệp (T1), ngay sau can thiệp 
(T2) và 30 ngày can thiệp (T3).
2.3. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm 
SPSS 22.0, t-test được sử dụng để so sánh 
2 giá trị trung bình.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1.Thông tin chung về đối tượng 
tham gia nghiên cứu
Trong số 45 điều dưỡng tham gia nghiên 
cứu, có 40 nữ điều dưỡng. Tuổi trung bình 
của điều dưỡng trong nghiên cứu là 33 ± 
8,7 với người ít tuổi nhất là 24 và người 
nhiều tuổi nhất là 53. Trình độ chuyên môn 
được đào tạo ở bậc trung cấp là 44,4%, bậc 
đại học là 37,8% còn lại 17,8% là cao đẳng. 
Hầu hết điều dưỡng có thời gian trực tiếp 
làm công tác chăm sóc người bệnh đột quỵ 
trên 1 năm. Đa số điều dưỡng (84,6%) trả 
lời rằng họ chưa được tiếp cận thêm nguồn 
thông tin chính thức nào về chăm sóc người 
bệnh đột quỵ kể từ sau khi tốt nghiệp ra 
trường.
3.2. Nhận thức của điều dưỡng về 
chăm sóc tư thế và vận động sớm cho 
người bệnh đột quỵ
3.2.1. Kết quả chung nhận thức về 
chăm sóc tư thế và vận động sớm cho 
người bệnh đột quỵ
Kết quả chung nhận thức của điều dưỡng 
lâm sàng về chăm sóc tư thế và vận động 
sớm cho người bệnh đột quỵ dựa trên điểm 
trả lời bộ câu hỏi trước và sau can thiệp 
được thể hiện trong Bảng 1.
23
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01
Bảng 1. Điểm trả lời bộ câu hỏi trước và sau can thiệp (n = 45)
Thời điểm đánh giá
Điểm đạt
p (t-test)
Thấp nhất Cao nhất Trung bình
Trước can thiệp (T1) 2 10 7,00 ±2,14
Ngay sau can thiệp (T2) 12 19 16,62 ±1,81 p(2-1) < 0,001
Sau can thiệp 30 ngày (T3) 8 20 15,13 ±3,34 p(3-1) < 0,001
Trước can thiệp điểm nhận thức đạt 7,00 ± 2,14 điểm trên tổng số 20 điểm. Ngay sau 
can thiệp điểm số này là 16,62 ± 1,81 điểm và giữ ở 15,13 ± 3,34 điểm sau khi kết thúc 
can thiệp 30 ngày, sự khác biệt so với trước can thiệp có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
3.2.2. Kết quả nhận thức theo các nội dung can thiệp
Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng cho từng nội dung liên quan đến chăm sóc tư thế và 
vận động sớm cho người bệnh đột quỵ tại các thời điểm trước can thiệp (T1), ngay sau can 
thiệp (T2) và 30 ngày sau can thiệp (T3) được thể hiện trong các bảng và Hình dưới đây.
Bảng 2. Tỷ lệ điều dưỡng nhận thức được các biến chứng do kém vận động
Biến chứng 
T1 T2 T3
Số 
lượng Tỷ lệ %
Số 
lượng Tỷ lệ %
Số 
lượng Tỷ lệ %
1. Loét ép 39 86,7 44 97,8 45 100,0
2. Nhiễm khuẩn hô hấp 33 73,3 45 100,0 42 93,3
3. Cứng khớp 27 60,0 45 100,0 41 91,9
4. Teo cơ 26 57,8 44 97,0 42 93,3
5. Nhiễm khuẩn tiết niệu 9 20,0 44 97,0 40 88,9
6. Giảm tầm vận động 6 13,3 40 88,9 27 60,0
7. Phù nề 1 2,2 37 82,2 38 84,4
8. Tắc mạch phổi 1 2,2 31 68,9 28 62,2
9. Giảm bão hòa ô xy máu 0 0,0 27 60,0 26 57,8
10. Giảm huyết áp tư thế đứng 0 0,0 19 42,2 18 40,0
11. Táo bón 0 0,0 42 93,3 40 88,9
12. Các vấn đề về tâm lý 0 0,0 22 48,9 16 35,6
Đúng cả 12 biến chứng 0 0,0 4 8,9 11 24,4
Trước can thiệp, 4 biến chứng gồm loét ép, nhiễm khuẩn hô hấp, cứng khớp và teo cơ 
được nhận thức đúng với các tỷ lệ cao theo thứ tự là 86,7%; 73,3%; 60% và 57,8%. Tuy 
nhiên, không có điều dưỡng nào nhận thức đầy đủ 12 biến chứng. Sau can thiệp tỷ lệ nhận 
thức đúng các biến chứng đều cao hơn so với trước can thiệp và có 4 và 11 điều dưỡng 
nhận thức được đầy đủ 12 biến chứng ngay sau can thiệp và sau can thiệp 30 ngày.
Trước can thiệp, đa số điều dưỡng (86,7%; 88,9% và 97,8%) nhận thức được các tư thế 
phù hợp với tình trạng người bệnh, nhưng hầu hết không giải thích được tác dụng của hai 
tư thế đầu và chỉ có một người trả lời và giải thích đúng cả ba chăm sóc tư thế. Sau can 
thiệp, tại 2 thời điểm đánh giá, tỷ lệ nhận thức đúng cho các chăm sóc tư thế đều cao hơn 
so với trước can thiệp (Bảng 3).
24
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01
Bảng 3. Tỷ lệ điều dưỡng xác định được các tư thế chăm sóc phù hợp (n = 45)
Tư thế cho người bệnh
T1 T2 T3
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
1. Nằm phẳng khi KHÔNG biểu hiện 
tăng áp lực nội sọ
39 86,7 44 97,8 42 93,3
Tác dụng: Tạo thuận lợi cho tưới 
máu và ô xy tới não
1 2,2 31 68,9 22 48,9
2. Nằm đầu cao từ 20 đến 30 độ khi 
CÓ biểu hiện tăng áp lực nội sọ
40 88,9 45 100 43 95,6
Tác dụng: Cải thiện dẫn lưu tuần 
hoàn não giúp giảm áp lực nội sọ
2 4,4 30 66,7 22 48,9
3. Thay đổi vị trí cơ thể tiếp xúc với 
giường bệnh mỗi 2 giờ
44 97,8 45 100 45 100,0
Tác dụng: Tránh đè ép quá lâu ngăn 
ngừa biến chứng loét ép
22 48,9 44 97,8 44 97,8
Trả lời và giải thích đúng cả 3 tư thế 1 2,2 20 44,4 18 40,0
Thời điểm phù hợp để có thể bắt đầu vận động sớm cho người bệnh là khi tình trạng lâm 
sàng của người bệnh cho phép với các điều kiện gồm ý thức tỉnh, huyết áp tâm thu ổn định 
và phải ≥ 120mmHg, mạch ổn định và trong khoảng 60 - 100 lần/phút, không xuất hiện thêm 
tổn thương thần kinh. Kết quả đánh giá nội dung này được thể hiện ở Hình 1. 
53,3%
37,8%
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100%
T1
T2
T3
Đúng Sai
55,5%
100%
95,5%
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100%
T1
T2
T3
Đúng SaiHình 1. Tỷ lệ điều dưỡng xác định được thời điểm cho người bệnh vận động 
Trước can thiệp, không ai xác định đầy đủ các điều kiện để có thể bắt đầu vận động sớm 
cho người bệnh. Sau can thiệp, có 53,3% điều dưỡng đã nhận thức được nội dung này và 
còn 37,8% sau can thiệp 30 ngày.
Khi tình trạng người bệnh cho phép để vận động sớm, các vận động cho người bệnh 
phải theo trình tự đảm bảo cho người bệnh thích ứng và phục hồi, bao gồm: hỗ trợ ngồi tại 
giường bệnh, hỗ trợ ngồi ngoài giường bệnh, di chuyển chỗ bằng phương tiện, lăn nghiêng 
để ngồi dậy, ngồi không cần hỗ trợ, và hỗ trợ di chuyển bằng chân trên sàn nhà. Kết quả 
đánh giá nội dung nhạn thức này của điều dưỡng được thể hiện trong Hình 2.
Trước can thiệp, có 25 điều dưỡng (55,5%) nhận thức đúng qui trình vận động sớm cho 
người bệnh. Ngay sau can thiệp và 30 ngày sau can thiệp số điều dưỡng nhận thức đúng 
về qui trình này theo thứ tự là 45 người (100%) và 43 người (95,5%).
25
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01
Hình 2. Tỷ lệ điều dưỡng xác định đúng qui trình vận động sớm (n = 45)
53,3%
37,8%
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100%
T1
T2
T3
Đúng Sai
55,5%
100%
95,5%
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100%
T1
T2
T3
Đúng Sai
4. BÀN LUẬN
Trong tổng số 45 điều dưỡng, nữ điều 
dưỡng chiếm đa số (40 người), phù hợp với 
thực tế về nghề nghiệp điều dưỡng là nữ 
chiếm đa số. Với tuổi trung bình là 33 ± 8,7 
tuổi và hầu hết có thời gian trực tiếp làm 
công tác chăm sóc người bệnh đột quỵ trên 
1 năm, có thể thấy các điều dưỡng tham gia 
nghiên cứu đã có một khoảng thời gian đủ 
lâu để trải nghiệm với thực tiễn chăm sóc 
người bệnh đột quỵ. 
Tuy không có nghiên cứu tương tự để so 
sánh nhưng kết quả ở Bảng 1 cho thấy, trước 
can thiệp, nhận thức về chăm sóc tư thế và 
vận động sớm cho người bệnh đột quỵ của 
điều dưỡng đạt 7 ± 2,14 điểm trên tổng 20 
điểm là khá thấp. Mặc dù, tuổi đời và thời 
gian có trực tiếp chăm sóc người bệnh đột 
quỵ khá lâu, nhưng những yếu tố này là chưa 
đủ cho điều dưỡng và cần có những tác động 
cụ thể và trọng tâm vào chăm sóc tư thế và 
vận động sớm cho người bệnh đột quỵ.
Xét trên phương diện thời gian, trong khi 
khuyến cáo về vận động sớm cho người 
bệnh đột quỵ có thời điểm ban hành là ngày 
15/7/2014 [1], nhận thức thấp trước can 
thiệp cho thấy tồn tại một khoảng cách lớn 
từ văn bản hướng dẫn đến thực tiễn chăm 
sóc. Sau can thiệp, có sự tăng điểm đáng 
kể lên tới 16,62 ± 1,81 điểm và còn duy trì ở 
15,13 ± 3,34 điểm. Khả năng nhớ và lưu giữ 
kiến thức được chứng minh là giảm dần theo 
thời gian [6], thông thường người học nhớ 
được 75% những gì đã học vào lúc kết thúc 
việc học và lưu giữ được không quá 10% ở 
30 ngày sau, nghĩa là hơn 90% những gì đã 
học sẽ bị quên đi sau 30 ngày. Mặt khác, khả 
năng lưu giữ kiến thức phụ thuộc nhiều yếu 
tố, trong đó phương pháp học có vai trò quan 
trọng, người học có thể nhớ được 75% kiến 
thức đã học nếu kiến thức được áp dụng 
vào thực hành và nhớ được 90% nếu kiến 
thức đó được dạy lại cho người khác [6]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nếu xem 
mức chênh điểm ngay sau can thiệp (T2-
T1≈16-7≈9 điểm) tương đương với 100% 
kiến thức đã học được của điều dưỡng, thì 
ở thời điểm 30 ngày sau khi can thiệp kết 
thúc, với mức lưu giữ kiến thức (T3-T1≈15-
7≈8 điểm) tương đương với 88,9% kiến thức 
được người điều dưỡng lưu giữ thì đây là 
một kết quả vượt xa so với mong đợi. Kết 
quả này có thể do kiến thức trong can thiệp 
giáo dục của nghiên cứu khá cô đọng, có 
liên quan trực tiếp đến hoạt động chăm sóc 
của người điều dưỡng và có thể đã được 
người điều dưỡng áp dụng luôn vào chăm 
sóc người bệnh đột quỵ. Hiển nhiên cần có 
thêm nghiên cứu để khẳng định, song kết 
quả cải thiện nhận thức của điều dưỡng 
trong nghiên cứu có giá trị thực tiễn hơn là 
ý nghĩa thống kê, góp phần chứng minh cho 
sự phù hợp về nội dung, phương pháp, đối 
tượng cũng như khả năng áp dụng vào thực 
tiễn chăm sóc [3].
26
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01
Các biến chứng do kém thay đổi tư thế 
và vận động phục hồi chức năng sớm cho 
người bệnh đột quỵ đã được chứng minh bởi 
nhiều nghiên cứu [4], [7], [8]. Nhận thức đầy 
đủ các biến chứng có thể xảy ra cho người 
bệnh sẽ giúp người điều dưỡng ý thức được 
tầm quan trọng và chủ động hơn trong các 
hoạt động chăm sóc để phòng ngừa và hạn 
chế tối đa các biến chứng cho người bệnh 
[11]. Trước can thiệp, nhiều điều dưỡng đã 
nhận thức được các biến chứng như loét 
ép, nhiễm khuẩn hô hấp, cứng khớp và 
teo cơ, theo thứ tự là 86,7%; 73,3%, 60% 
và 57,8%. Tuy chưa có thống kê cụ thể tại 
địa bàn nghiên cứu, song có thể do đây là 
những biến chứng mà người điều dưỡng 
thường phải đối mặt trong chăm sóc người 
bệnh đột quỵ. Các biến chứng còn lại như 
các vấn đề về tâm lý; giảm huyết áp tư thế 
đứng; giảm bão hòa ô xy máu; táo bón; tắc 
mạch phổi; phù nề hầu như không được 
điều dưỡng nhận biết, có thể đây là những 
biến chứng ít gặp hơn tại địa bàn nghiên cứu 
hoặc chưa được quan tâm đúng mức. Lý do 
này được củng cố bởi sau can thiệp 30 ngày 
những biến chứng được nhận thức với tỷ lệ 
cao trước can thiệp thì được duy trì với tỷ lệ 
cao và ngược lại. Trước can thiệp, từ chỗ 
không có người nào nhận thức được đầy đủ 
12 biến chứng thì ngay sau can thiệp, con 
số này là 4 người và lên tới 11 người ở 30 
ngày sau can thiệp. Sự cải thiện này cũng 
có giá trị thực tiễn hơn là ý nghĩa thống kê, 
bởi lẽ thêm một điều dưỡng nhận thức tốt 
thì nhiều người bệnh do điều dưỡng chăm 
sóc sẽ nhận được những chăm sóc tốt hơn.
Nhận thức được tác dụng của tư thế 
người bệnh phải phù hợp với tình trạng 
người bệnh trong giai đoạn cấp của đột 
quỵ đóng vai trò quan trọng trong củng cố 
hành vi chăm sóc đúng đắn của điều dưỡng 
cho người bệnh [9]. Trước can thiệp, mặc 
dù gặp khó khăn trong giải thích tác dụng, 
song đa số điều dưỡng nhận thức đúng về 
tư thế người bệnh theo tình trạng có hay 
không có phù não và 44 trên 45 người nhận 
thức được phải thay đổi tư thế cho người 
bệnh 2 giờ/1 lần. Đây là những con số tích 
cực cho thấy thực hành chăm sóc người 
bệnh của điều dưỡng tại địa bàn nghiên 
cứu đã hướng tới chuẩn mực. Với tỷ lệ điều 
dưỡng giải thích được tác dụng của các tư 
thế không cao, xét trên khía cạnh chăm sóc 
dựa trên năng lực, cho thấy sự cần thiết của 
đào tạo liên tục đối với những lĩnh vực chăm 
sóc cụ thể.
Trong những giờ đầu của đột quỵ, do 
yêu cầu của chẩn đoán và điều trị từ bác sỹ, 
người bệnh phải nằm bất động và đây là một 
chỉ định điều trị được chấp nhận. Tuy nhiên, 
việc bắt đầu vận động sớm cho người bệnh 
thường bị hạn chế, ngoài việc do yêu cầu của 
bác sỹ từ lúc ban đầu, còn do sự e ngại từ 
phía người bệnh và người nhà, và từ chính 
nhận thức của người điều dưỡng trực tiếp 
chăm sóc người bệnh [5]. Đây có lẽ chính là 
lý do cho kết quả trước can thiệp không có 
điều dưỡng nào nhận thức được khi nào thì 
có thể cho người bệnh vận động. Cải thiện 
nhận thức của điều dưỡng về nội dung này 
sẽ có giá trị thực tiễn lớn và ngay sau can 
thiệp hơn một nửa số điều dưỡng (53,3%) đã 
nhận thức được nội dung này. Sau 30 ngày 
tỷ lệ này giảm đi và còn 37,8% cho thấy đây 
vẫn là một nội dung nhận thức khó khăn và 
cần thường xuyên được củng cố.
Nhận thức đúng về qui trình vận động 
sớm có kết quả khả quan, ngay từ trước 
can thiệp đã có tới 55,5% điều dưỡng nhận 
thức đúng, ngay sau can thiệp tỷ lệ này là 
100% và sau can thiệp 30 ngày tỷ lệ này 
vẫn giữ được ở mức rất cao tới 95,5%. Kết 
quả này có thể do hoạt động chăm sóc điều 
dưỡng thường gắn với các qui trình giúp họ 
dễ dàng tiếp thu, và có thể qui trình đã được 
điều dưỡng áp dụng vào chăm sóc nên duy 
trì với tỷ lệ cao sau 30 ngày. Tuy nhiên, cần 
có đánh giá khách quan để khẳng định.
5. KẾT LUẬN
Nhận thức về chăm sóc tư thế và vận 
động sớm cho người bệnh đột quỵ của điều 
dưỡng tham gia nghiên cứu trước can thiệp 
giáo dục thấp, chỉ đạt 7 ± 2,14 trên tổng số 
27
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 01
20 điểm. Can thiệp đã cải thiện đáng kể 
nhận thức của điều dưỡng với 16,62 ± 1,81 
điểm ngay sau can thiệp và duy trì ở 15,13 
± 3,34 điểm sau can thiệp 30 ngày. Tỷ lệ 
điều dưỡng nhận thức đúng mỗi nội dung 
kiến thức cũng tăng sau can thiệp và còn 
duy trì ở mức cao sau can thiệp 30 ngày. 
Tuy nhiên, nhận thức về thời điểm có thể 
vận động sớm cho người bệnh vẫn còn hạn 
chế và cần được củng cố. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy sự cần thiết của việc củng 
cố và cập nhật kiến thức có trọng tâm cho 
những lĩnh vực chăm sóc riêng biệt và cần 
có thêm nghiên cứu để đảm bảo rằng kiến 
thức được áp dụng vào thực tiễn chăm sóc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2014). Tiêu chuẩn chất lượng 
về xử trí đột quỵ não áp dụng thí điểm trong 
bệnh viện ở Việt Nam. Quyết định số 86/
QĐ-KCB ngày 15/7/2014, Cục Quản lý 
Khám, Chữa bệnh
2. Lê Văn Thính và cộng sự (2008). Tình 
hình và thực trạng chăm sóc đột quỵ trong 
các bệnh viện đa khoa từ tuyến tỉnh trở lên 
ở Việt Nam.  
Truy cập ngày 02/03/2017
3. Ngô Huy Hoàng (2015). Nâng cao 
nhận thức và khả năng thực hành sử dụng 
hợp lý kháng sinh của cán bộ y tế tuyến xã 
tỉnh Nam Định. Tạp chí Y học cộng đồng. Số 
23 tháng 09/2015, trang: 47-53
4. Askim T et al (2012) Stroke patients do 
not need to be inactive in the first two weeks 
after a stroke: results from a stroke unit fo-
cused on early rehabilitation. International 
Journal of Stroke; 7:1,25-31
5. Bernahardt J et al (2007). Little thera-
py, little physical activity: rehabilitation with-
in the first 14 days of organised stroke unit 
care. J Rehabil Med 2007; 39: 43-48
6. Kåre Letrud (2012). A rebuttal of NTL 
Institute’s learning pyramid. Education Vol. 
133 No. 1 January 2012, pp. 117-124
7. Keating M el al. (2012) Positioning and 
early mobilization in stroke. Nursing Times; 
Vol 108, No 47, pp. 16-18
8. Kilbride C and Kneafsey R. (2010) 
Management of physical impairments post 
stroke: In William J et al (eds). Acute Stroke 
Nursing. Oxford: Wiley Blackwell
9. Muñoz-Venturelli et al (2015). Head 
Position in Stroke Trial (Head Post)-sit-
ting up vs lying-flat positioning of patients 
with acute stroke: study protocol for a 
cluster randomized controlled trial. Trials 
16:256doi.10.1186/s13063-015-0767-1
10. Ngo Huy Hoang (2016). The devel-
opment of a conceptual framework and 
model for information, education and com-
munication (IEC) to reduce antibiotic misuse 
among the Vietnamese population in Nam 
Dinh province. Hanoi: Vietnam National Uni-
versity Press
11. Royal College of Physicians (2016). 
National clinical guideline for stroke. Pre-
pared by the Intercollegiate Stroke Working 
Party. Fifth edition 2016. NICE accredited 
12. World Health Organization (2008), 
World Health Statistics 2008. Geneva, Swit-
zerland, WHO, 2008

File đính kèm:

  • pdfthay_doi_nhan_thuc_cua_dieu_duong_lam_sang_ve_cham_soc_tu_th.pdf