Thư viện Vatican và dự án bảo tồn bộ sưu tập cổ quý hiếm

Thư viện Tòa thánh Vatican, thường gọi là

Thư viện Vatican, được thành lập năm 1475

và được xem là một trong số những thư viện

cổ xưa nhất thế giới cho đến nay. Trước đó,

năm 1451, giáo hoàng Nicholas V đã thành

lập thư viện của riêng mình với số tài liệu ban

đầu gồm 350 bản bằng tiếng Hy Lạp, tiếng

Hebrew và tiếng Latin cổ. Đến năm 1455, thư

viện đã có 1.200 tài liệu, trong đó có 400 cuốn

bằng tiếng Hy Lạp cổ đại. Cũng năm đó, Giáo

hoàng Nicholas V mất. Việc tiếp tục sưu tầm

và tích lũy tư liệu bị gián đoạn. Giáo hoàng

Sixtus đệ IV đã tiếp tục công việc của người

tiền nhiệm. Năm 1475, ngài chính thức thành

lập Thư viện Tòa thánh Vatican với tên ban

đầu là Thư viện Palatine. Giáo hoàng Sixtus

đệ IV đã cử Batolomeo Platina, một nhà văn

và thiên văn học nổi tiếng thời kỳ Phục Hưng

người Italia, làm quản thủ thư viện đầu tiên.

Công việc đầu tiên Batolomeo tiến hành là lập

danh mục toàn bộ tài liệu của thư viện. Trong

năm 1475, ông đã hoàn thành bản danh mục

của mình với 3.500 thủ bản, bao gồm tài liệu

chép tay, các tài liệu thuộc nhiều lĩnh vực khác

nhau. Vào thời điểm bấy giờ, bộ sưu tập này

được xem là bộ sưu tập lớn nhất Châu Âu.

Tiếp sau đó, Giáo hoàng Julius II đã cho mở

rộng thêm toà nhà của Thư viện và tiếp tục

phát triển thư viện. Năm 1587, Giáo hoàng

Situs đệ V đã chỉ định kiến trúc sư Domenico

Fontana xây một toà nhà mới cho thư viện, đặt

ngay tại Thánh đường Vatican. Toà nhà ấy vẫn

được sử dụng cho đến ngày nay và chính là

Thư viện Vatican bây giờ. Trong suốt thời kỳ

Chấn hưng Công giáo, Thư viện Vatican đã

giới hạn việc khai thác tài liệu và lập ra danh

mục sách cấm, đặc biệt đối với những người

theo đạo Tin Lành. Đến năm 1883, khi Giáo

hoàng Leo XIII tại vị, lệnh cấm này mới chấm

dứt và Thư viện được mở cửa phục vụ đại trà

cho đến nay.

pdf 5 trang yennguyen 4340
Bạn đang xem tài liệu "Thư viện Vatican và dự án bảo tồn bộ sưu tập cổ quý hiếm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thư viện Vatican và dự án bảo tồn bộ sưu tập cổ quý hiếm

Thư viện Vatican và dự án bảo tồn bộ sưu tập cổ quý hiếm
NHÌN RA THẾ GIỚI
37THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2017
Trần Thị Kiều Nga
Viện Thông tin Khoa học xã hội
THƯ VIỆN VATICAN VÀ DỰ ÁN BẢO TỒN BỘ SƯU TẬP CỔ QUÝ HIẾM 
1. Lịch sử và nguồn tư liệu cổ, quý, hiếm 
của Thư viện Vatican
1.1. Lịch sử Thư viện Vatican
Thư viện Tòa thánh Vatican, thường gọi là 
Thư viện Vatican, được thành lập năm 1475 
và được xem là một trong số những thư viện 
cổ xưa nhất thế giới cho đến nay. Trước đó, 
năm 1451, giáo hoàng Nicholas V đã thành 
lập thư viện của riêng mình với số tài liệu ban 
đầu gồm 350 bản bằng tiếng Hy Lạp, tiếng 
Hebrew và tiếng Latin cổ. Đến năm 1455, thư 
viện đã có 1.200 tài liệu, trong đó có 400 cuốn 
bằng tiếng Hy Lạp cổ đại. Cũng năm đó, Giáo 
hoàng Nicholas V mất. Việc tiếp tục sưu tầm 
và tích lũy tư liệu bị gián đoạn. Giáo hoàng 
Sixtus đệ IV đã tiếp tục công việc của người 
tiền nhiệm. Năm 1475, ngài chính thức thành 
lập Thư viện Tòa thánh Vatican với tên ban 
đầu là Thư viện Palatine. Giáo hoàng Sixtus 
đệ IV đã cử Batolomeo Platina, một nhà văn 
và thiên văn học nổi tiếng thời kỳ Phục Hưng 
người Italia, làm quản thủ thư viện đầu tiên. 
Công việc đầu tiên Batolomeo tiến hành là lập 
danh mục toàn bộ tài liệu của thư viện. Trong 
năm 1475, ông đã hoàn thành bản danh mục 
của mình với 3.500 thủ bản, bao gồm tài liệu 
chép tay, các tài liệu thuộc nhiều lĩnh vực khác 
nhau. Vào thời điểm bấy giờ, bộ sưu tập này 
được xem là bộ sưu tập lớn nhất Châu Âu. 
Tiếp sau đó, Giáo hoàng Julius II đã cho mở 
rộng thêm toà nhà của Thư viện và tiếp tục 
phát triển thư viện. Năm 1587, Giáo hoàng 
Situs đệ V đã chỉ định kiến trúc sư Domenico 
Fontana xây một toà nhà mới cho thư viện, đặt 
ngay tại Thánh đường Vatican. Toà nhà ấy vẫn 
được sử dụng cho đến ngày nay và chính là 
Thư viện Vatican bây giờ. Trong suốt thời kỳ 
Chấn hưng Công giáo, Thư viện Vatican đã 
giới hạn việc khai thác tài liệu và lập ra danh 
mục sách cấm, đặc biệt đối với những người 
theo đạo Tin Lành. Đến năm 1883, khi Giáo 
hoàng Leo XIII tại vị, lệnh cấm này mới chấm 
dứt và Thư viện được mở cửa phục vụ đại trà 
cho đến nay. 
1.2. Bộ sưu tập của Thư viện Vatican
Bộ sưu tập của Thư viện Vatican được xem 
là một trong những bộ sưu tập cổ, quý hiếm 
nhất thế giới hiện nay. Bộ sưu tập có khoảng 
75.000 bản chép tay về tôn giáo; 1,1 triệu 
sách in; 8.500 sách incunabula, 330.000 tài 
liệu khác gồm cả microfilm bằng tiếng La Mã, 
Hy Lạp, tiếng Hebrew, tiếng Ethiopia cùng các 
loại huân chương, huy chương và tiền đồng 
qua các đời giáo hoàng, các tác phẩm nghệ 
thuật. Phần lớn tài liệu trong số đó là các bản 
chép tay. Mỗi năm Thư viện được bổ sung 
khoảng 6.000 tài liệu thông qua việc được 
tặng thừa kế hoặc bổ sung theo diện mua, sưu 
tầm, biếu, tặng... Những tài liệu lâu đời nhất có 
niên đại từ thế kỷ thứ nhất. Tài liệu cổ nổi tiếng 
nhất trong thư viện chính là Bộ luật Codex 
Vaticanus Graecus 1209 của Kinh thánh. Năm 
1623, Thư viện Giáo hoàng nhận được 3.500 
bản chép tay như là quà cảm ơn của Công 
tước xứ Bavaria. Nội dung của bộ sưu tập bao 
gồm các bộ kinh thánh, các sưu tập những bài 
viết về luật lệ và phép tắc tôn giáo và các sách 
thế tục khác. Tổng số mét giá để xếp tài liệu 
của Thư viện Vatican có chiều dài 42km. 
Hằng năm, Thư viện Vatican có 200 học giả 
tiếp cận tài liệu trực tiếp và có từ 4.000-5.000 
học giả tới khai thác tài liệu thông qua các hoạt 
động hợp tác, nghiên cứu. 
NHÌN RA THẾ GIỚI
38 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2017
2. Dự án số hóa tư liệu quý hiếm ở Thư 
viện Vatican 
Mục tiêu của số hóa các tài liệu quý hiếm ở 
Thư viện Vatican là hỗ trợ truy cập mở tới các 
di sản của nhân loại. Số lượng các tài liệu quý 
hiếm được dự kiến số hóa là 80.000 thủ bản 
(codex) từ thời kỳ Trung Cổ đến giai đoạn chủ 
nghĩa nhân văn trong thời kỳ Phục Hưng. 
Tiêu chí để lựa chọn tài liệu ưu tiên số hóa 
như sau:
- Tinh xảo, dễ hỏng, có nguy cơ mất thông 
tin;
- Quan trọng và quý hiếm;
- Lựa chọn theo các dự án và tài trợ;
- Theo nhu cầu của các học giả.
Các nhà thư viện ở Thư viện Vatican đã mất 
rất nhiều năm để phân loại các thủ bản theo 
các tiêu chí trên. Bên cạnh đó, nhiều tài liệu 
trong bộ sưu tập được dát thêm vàng và bạc 
nên chúng sẽ bị phá hủy dưới ánh sáng của 
đèn quét. Vì thế, việc số hóa phải được thực 
hiện thành một quy trình chuyên biệt và có sự 
điều chỉnh ánh sáng một cách cụ thể đối với 
từng tài liệu. Thêm nữa, các thiết bị quét cũng 
phải được điều chỉnh theo đúng những đòi hỏi 
của các nhà lưu trữ ở Vatican, các tài liệu được 
đánh giá về tình trạng lưu giữ rất cẩn trọng 
trước và sau khi số hóa. 
 Ngoài những tiêu chí lựa chọn về tài liệu, 
những tiêu chí về công nghệ cũng quan trọng 
không kém. Việc thiết lập dự án số hóa dựa trên 
những tiêu chuẩn mở về siêu dữ liệu và các 
APIs (Application Programming Interface Set), 
một loại giao diện để các phần mềm và hệ 
điều hành kết nối và làm việc tương thích, cho 
phép các bộ sưu tập số hóa tương tác với nhau. 
Thêm vào đó, việc lựa chọn IIIF (International 
Image Interoperability Framework), thực chất 
gồm một bộ các APIs kết hợp, đưa vào sử 
dụng nhằm mục đích sau:
- Giúp các học giả có thể truy cập tới các 
tài liệu dạng ảnh một cách đồng nhất và hết 
sức đa dạng;
- Xác định giao diện của các chương trình 
ứng dụng thông thường dùng để hỗ trợ tương 
tác giữa các bộ lưu trữ ảnh;
- Phát triển và đi sâu vào các công nghệ 
chia sẻ tài liệu như: kinh nghiệm của người 
dùng tin trên thế giới trong việc xem ảnh, thao 
tác ảnh, chú thích ảnh, so sánh ảnh.
Năm 2012, sau quá trình tìm hiểu, đánh giá 
và lựa chọn, xây dựng quy trình, dự án số hóa 
ở Thư viện Vatican chính thức bắt đầu. Dự án 
số hóa tư liệu quý hiếm được thực hiện trên cơ 
sở hợp tác giữa Thư viện Vatican và Thư viện 
Bodleian, một trong số những thư viện cổ nhất 
Châu Âu thuộc Đại học Oxford. Dự án này 
được Quỹ Polonsky, có trụ sở ở London, tài trợ. 
Dự án này tập trung vào ba nhóm tài liệu chính: 
bản thảo tiếng Hê-bơ-rơ, bản thảo Hy Lạp, 
và tài liệu in thời kỳ ban đầu (inculabula). Các 
nhóm tài liệu được chọn vì tầm quan trọng về 
học thuật của chúng và vì độ dài của bộ sưu 
tập trong cả hai thư viện. Dự án này kéo dài 
trong bốn năm với kết quả số hóa được 1,5 
triệu trang tài liệu được lựa chọn. 
 Vào ngày 20/3/2014, Giáo hoàng đã long 
trọng tuyên bố Dự án số hóa tiếp nối dự án 
đang thực hiện đã được ký kết giữa Vaticant 
với tập đoàn NTT Data Cooporation, Nhật 
Bản. Theo đó, tập đoàn NTT sẽ tài trợ cho Dự 
án các kỹ thuật viên và thiết bị trị giá khoảng 
18 triệu Euro. Đáng chú ý, Dự án có thể số 
hóa lên tới 79.000 tài liệu và giai đoạn 1 của 
Dự án kéo dài trong 4 năm. Các tài liệu số hóa 
sẽ được lưu trữ trong ba máy chủ, mỗi máy 
chủ có dung lượng lên tới Petabyte (1 triệu tỷ 
bytes). Các máy chủ sẽ do tập đoàn Dell EMC 
cung cấp. 
NHÌN RA THẾ GIỚI
39THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2017
3. Một số ứng dụng công nghệ số hóa
Do quy mô và mục tiêu của các nhà quản 
thủ Thư viện Vatican nên các ứng dụng 
công nghệ cho Dự án số hóa được lựa chọn 
kỹ càng. Thư viện số của Vatican được chia 
thành sáu mục lục như sau: Mục lục tài liệu 
viết tay, Mục lục các tài liệu lưu trữ, Mục lục 
sách in nói chung, Mục lục tài liệu Incunabula, 
Mục lục tài liệu đồ họa, Mục lục về tiền đúc và 
huy chương. Các mục lục tương tác được với 
các biểu ghi theo định dạng MARC 21, EAD 
(Encoded Archival Description) và TEI-P5 
(Text Encoding Initiative_Part 5), siêu dữ liệu 
dành riêng cho thủ bản chữ Ả Rập ở Vatican. 
Do đó, việc tìm kiếm một hệ thống quản trị và 
phổ biến cho các tài liệu ở Thư viện Vatican rất 
phức tạp, có sự liên kết của nhiều dạng siêu 
dữ liệu.
 Hệ thống dịch vụ lưu trữ số dành cho thư 
viện và bảo tàng AMLAD của tập đoàn NTT, 
Nhật Bản được Thư viện Vatican lựa chọn là 
một hệ thống cho phép lưu trữ và phổ biến các 
sách in, tài liệu viết tay, tài liệu đa phương tiện 
có giá trị chuyên biệt cho các tổ chức như thư 
viện, phòng trưng bày, trung tâm lưu trữ, bảo 
tàng. AMLAD lưu trữ siêu dữ liệu theo kiểu sơ 
đồ hóa của riêng hệ thống, kết nối các siêu 
dữ liệu khác lại với nhau. Ví dụ như, AMLAD 
liên kết “Tên sách” từ tài khoản Library Books 
với “Chủ đề” từ tài khoản Archives. Đồng 
thời AMLAD cũng cho phép người dùng tin 
tìm kiếm chính xác các thông tin được lưu trữ 
dưới nhiều định dạng khác nhau nhưng có liên 
quan tới nhau thông qua cơ chế tìm kiếm chéo. 
Thậm chí AMLAD cũng cho phép người dùng 
tin tìm kiếm các tập tin ở nhiều định dạng khác 
nhau theo kiểu thủ công. Thêm vào đó, việc 
sử dụng công nghệ Watermark, công nghệ mã 
hóa kiểm soát bản quyền tài liệu số, giúp ngăn 
chặn người dùng tin thao tác sai mục đích như 
việc sao chép những ảnh đã được giới hạn sử 
dụng. AMLAD cũng hỗ trợ cho việc sử dụng 
các giao diện của những thiết bị hiển thị khác 
nhau như điện thoại thông minh, máy tính 
bảng, máy tính cá nhân, xem phim hoặc ảnh 
có JPEG 2000. Hệ thống này cũng sử dụng 
các ứng dụng đọc tài liệu số giúp người dùng 
tin xem, đọc tài liệu như tài liệu thông thường. 
AMLAD cung cấp cho người dùng tin nhiều 
phương pháp tìm kiếm thông tin khác nhau 
như tìm theo từ khóa, tìm theo phân loại, tìm 
theo tài liệu cụ thể, tìm theo những định hướng 
xác định dưới dạng câu hỏi “What you mean?”. 
Cuối cùng, AMLAD cũng tương thích với các 
tiêu chuẩn quốc tế về lưu trữ tài liệu như: tiêu 
chuẩn Hệ thống thông tin lưu trữ mở (OAIS- 
Open Archival Information System), mô hình 
tham chiếu (ISO 14721:2012) đối với hệ thống 
thông tin lưu trữ mở, chuẩn siêu dữ liệu Dublin 
Core, chuẩn truyền dẫn và mã hóa siêu dữ liệu 
(METs-Metadata Encoding and Transmision 
Standard), giản đồ mô tả thư mục đối tượng 
siêu dữ liệu cho tiêu chuẩn truyền dẫn và mã 
hóa siêu dữ liệu (MODs- Metadata Objects 
Description Schema) dựa trên XML vốn được 
Thư viện Quốc hội Mỹ phát triển từ năm 2002, 
chuẩn mô tả tài liệu lưu trữ (EAD) dưới cú pháp 
XML dành cho việc lưu các trợ giúp tìm kiếm 
thông tin do Hội Lưu trữ Mỹ phát triển. Ngoài 
ra, AMLAD cũng hỗ trợ các giao thức kết 
nối chuẩn như: OAI-PMH (Opening Archive 
Initiative Protocol for Metadata Harvesting) và 
SRU/SRW (Search/Retrieve via URL- Search/
Retrieve Web service). Nhờ những tiện lợi và 
khả năng tạo sự tương thích rộng như đã kể 
trên mà hệ thống AMLAD của tập đoàn NTT 
được lựa chọn sử dụng cho việc tìm kiếm, lưu 
trữ và phổ biến thông tin trong các cơ sở dữ 
liệu số của thư viện Vatican. 
Thư viện số Vatican sử dụng định dạng 
FITS (Flexible Image Transport System) trong 
số hóa các ảnh và các tài liệu có ảnh. FITS là 
NHÌN RA THẾ GIỚI
40 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2017
một hệ thống định dạng dùng cho việc truyền 
dẫn các hình ảnh linh hoạt được Cơ quan hàng 
không vũ trụ Mỹ (NASA) phát triển cho các bức 
ảnh thiên văn của họ. Đây là lần đầu tiên, FITS 
được sử dụng cho số hóa và lưu trữ các thủ bản. 
Hiện nay, FITS đã được NASA phát triển tới 
phiên bản (version) 3.0. Một file FITS được tạo 
nên từ các biểu ghi dung lượng 2880 - bytes, 
còn được gọi là khối FITS. Khối FITS phân 
chia thành 2 phần là phần tiêu đề và phần dữ 
liệu. Đặc trưng chính của định dạng FITS là 
có thể lưu trữ các siêu dữ liệu ảnh theo tiêu 
đề chính mã ASCII (American Standard Code 
for Information Interchange_II/Bộ mã ký tự). 
Điều này giúp cho người dùng tin có thể kiểm 
tra tiêu đề theo nguồn. Mỗi file FITS bao gồm 
một hoặc hơn một tiêu đề có gắn các thẻ của 
ảnh theo dạng mã ASCII 2 chứa đựng các cặp 
từ khóa/giá trị nằm xen kẽ giữa các dữ liệu. 
Các cặp từ khóa/giá trị cung cấp thông tin về 
kích cỡ, nguồn gốc, tọa độ, định dạng hệ nhị 
phân, lịch sử dữ liệu... trong khi đó, nhiều từ 
khóa cùng lúc cũng có thể dùng cho một FITS. 
So với các định dạng file khác, ví dụ như so với 
định dạng TIFF, FITS không bị giới hạn cho 
việc đọc các tập tin theo mọi kích thước và mọi 
loại số hoặc dữ liệu văn bản có thể được lưu: 
Số nguyên hoặc số thực, 32 hoặc 64 bit, hình 
ảnh được xử lý như các ma trận hai chiều trong 
đó màu sắc và mã hóa ảnh được xem là các 
giá trị của ma trận. Mặt khác, các chương trình 
xử lý ảnh như GIMP, Photoshop, XnView và 
IrfanView có thể đọc các hình ảnh FITS đơn 
giản, nhưng thường không thể giải thích các 
bảng phức tạp hơn. Trong dự án số hóa ở Thư 
viện Vatican, việc chọn tệp FITS ở định dạng 
để bảo quản lâu dài cho thấy FITS được lựa 
chọn không chỉ dành cho công chúng đọc mà 
còn dành cho lưu trữ dữ liệu. 
Vì hai CSDL trực tuyến của thư viện Vatican 
là CSDL Thủ bản và CSDL Tài liệu lưu trữ có 
mối liên kết phức tạp giữa các siêu dữ liệu khác 
nhau nên chúng được quản lý theo hai khổ 
mẫu dữ liệu là TEI-P5 và EAD theo cú pháp 
XML. Tuy là hai sưu tập dữ liệu chuyên biệt 
nhưng chúng lại cùng sử dụng một ứng dụng 
là InforMA. InforMA là tên của một ứng dụng 
được thiết lập bởi một công ty phần mềm AG 
của Đức, cung cấp hỗ trợ toàn diện cho CSDL 
theo XML, lưu trữ nội dung theo XML, cung cấp 
các khả năng xử lý hồi cố dựa trên tiêu chuẩn 
XQuery (XML Query) và Xpath (XML Path), 
tiêu chuẩn về ngôn ngữ cho các nội dung đa 
phương tiện có cấu trúc hoặc không có cấu 
trúc, tương thích với Microsoft Office hoặc 
những sản phẩm dựa trên WedDAV (Web-
based Distributed Authoring and Versioning- 
Một dạng giao thức trong môi trường World 
Wide Web). Những đặc trưng của InforMA 
được phần mềm mang tên Tamino hỗ trợ, một 
phần mềm do công ty phần mềm AG của Đức 
cung cấp. 
Một ứng dụng khác được sử dụng trong Dự 
án là V-Smart/Iguana. Ứng dụng này, bao gồm 
hai ứng dụng kết hợp với nhau có tên V-smart 
và Iguana, giúp người dùng tin tham vấn các 
khả năng tìm kiếm thông tin và sử dụng thông 
tin trong CSDL tích hợp chung. Cấu trúc công 
nghệ của ứng dụng này dựa trên giao thức OAI-
PMH và các yếu tố ký tự dành cho truy xuất 
dữ liệu (từ InforMA) tới nhập dữ liệu XML (tới 
V-Smart). Từ mỗi biểu ghi thư mục, V-Link (bộ 
giải URL mở) có thể tìm kiếm hoặc truy cập tới 
các nguồn tin và hồi cố những kết quả tìm có 
liên quan. Ứng dụng này cũng hỗ trợ cho các 
URIs (Uniform Resource Identifier Set/Chuỗi 
ký tự dùng để định danh tên, tài nguyên trên 
Internet) có liên quan tới giao diện trình bày 
Web của các tài liệu inculabula được số hóa. 
Trong khi hai CSDL thư mục trực tuyến 
trong số 06 thư mục CSDL trực tuyến của dự 
án số hóa thư viện Vatican sử dụng dạng mã 
NHÌN RA THẾ GIỚI
41THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2017
hóa các chuyên biệt (CSDL thư mục thủ bản 
sử dụng TEI-P5 và CSDL thư mục tài liệu lưu 
trữ sử dụng EAD) thì bốn CSDL thư mục trực 
tuyến còn lại sử dụng khổ mẫu MARC 21. 
Phần mô tả các thủ bản xác định một yếu tố 
chuyên biệt để cung cấp thông tin mô tả cơ 
bản về tài liệu chép tay. TEI-P5 được phát triển 
nhằm thỏa mãn các yêu cầu của các nhà thư 
mục học và học giả liên quan tới các thủ bản 
Châu Âu theo phong cách truyền thống. Hiện 
nay, TEI-P5 đã được mở rộng dành cho các 
loại tài liệu khác cũng có thể bao gồm các tài 
liệu khắc thạch bản. TEI-P5 cung cấp khung 
thống nhất về xác định ngôn ngữ đánh dấu, 
cách đơn giản để tổ chức các nguồn tin văn 
bản có cấu trúc. Một biểu ghi của TEI-P5 bao 
gồm các thông tin sau: Yếu tố mô tả thủ bản, 
Yếu tố cấp độ nhóm, Định danh tài liệu, Đề 
mục của thủ bản, nội dung thông tin của thủ 
bản, yếu tố mô tả vật lý, Lịch sử tài liệu, Thông 
tin thêm, Các phần của thủ bản, Mảnh của thủ 
bản, Phân đoạn mô tả tài liệu. Các thông tin 
trên được viết theo cú pháp của XML. 
EAD là một chuẩn khổ mẫu mô tả các tài 
liệu lưu trữ trong đó các yếu tố thông tin được 
mã hóa theo cú pháp XML. EAD do Hội Lưu 
trữ Mỹ đưa ra. Phiên bản version 1.0 được bắt 
đầu từ năm 1998. Hiện nay EAD đã phát triển 
thành phiên bản EAD3. EAD được xem là một 
trong số những tiêu chuẩn về siêu dữ liệu cho 
các tài liệu lưu trữ hiện nay. Một biểu ghi theo 
chuẩn EAD3 bao gồm 165 yếu tố thông tin 
được đưa vào so với phiên bản ban đầu chỉ có 
146 yếu tố thông tin. Các yếu tố trên dùng để 
mô tả chung toàn bộ tài liệu cũng như mã hóa 
các bảng kê theo nhiều cấp độ khác nhau. Các 
yếu tố có thể được sắp xếp theo bộ tiêu chuẩn 
nội dung như DACs (Tiêu chuẩn nội dung do 
Hiệp hội Lưu trữ Mỹ đưa ra), ISAD(G) (Tiêu 
chuẩn mô tả lưu trữ quốc tế do Hiệp hội lưu 
trữ quốc tế đưa ra) hoặc theo các tiêu chuẩn 
về cấu trúc thông tin khác như MARC, Dublin 
Core nhằm làm tăng tính linh hoạt cũng như 
sự tương tác của dữ liệu. EAD phiên bản đầu 
tiên được viết dưới dạng cú pháp DTD, phiên 
bản EAD3 hiện nay được viết theo dạng cú 
pháp XML DTD.
Tóm lại, với những ứng dụng về công nghệ 
thông tin hiện đại nhất, quy mô dự án vô lớn 
cùng với sự quý hiếm và có giá trị khoa học 
cao của các thủ bản, dự án thư viện Vatican 
là một dự án về số hóa tài liệu được mong chờ 
nhất thế giới hiện nay. Với quy mô của dự án 
như thế này, các nhà quản thủ thư viện Vatican 
đang trên con đường bảo tồn và phát huy các 
thủ bản quý hiếm của mình có hiệu quả tối ưu. 
___________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bridging between Cutural Heritage Institu-
tions: 9th Italian Research Conference, IRCDL 
2013, Rome/Italia, January 31 - February 1, 2013: 
Revise Selected Papers, Edition Springers, 2013, 
200 p. 
2. Encoding Archival Description Tag Library
https://www2.archivists.org/sites/all/files/TagLi-
brary-VersionEAD3.pdf. Truy cập ngày 14/06/2017.
3. It FITS the Cultural Heritage
h t tp : / /www.unesco .o rg / f i l eadmin /MUL-
TIMEDIA/HQ/CI /CI /pdf /mow/VC_Michet t i_
Manoni_28_C_1110.pdf. Truy cập ngày 14/06/2017
4. TEI-P5 : Guidelines for electronic Text Encod-
ing and Interchande
html/MS.html. Truy cập ngày 15/06/2017.
5. The tech behind digitizing the Vatican Library : 
Open access for all | #EMCWorld
https://siliconangle.com/blog/2014/05/23/the-
tech-behind-digitizing-the-vatican-library-open-ac-
cess-for-all-emcworld/. Truy cập ngày 14/06/2017

File đính kèm:

  • pdfthu_vien_vatican_va_du_an_bao_ton_bo_suu_tap_co_quy_hiem.pdf