Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Đặc trưng hoạt động ngân hàng là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch

vụ ngân hàng với đối tượng chủ yếu là các công cụ tài chính mà giá trị của

chúng thường xuyên biến động theo giá thị trường. Do vậy, để đảm bảo an

toàn trong hoạt động cũng như cung cấp thông tin một cách minh bạch thì

các công cụ tài chính cần được công bố theo giá trị thực của nó. Kế toán

giá trị hợp lý (GTHL) sẽ giải quyết được yêu cầu này. Kế toán GTHL tại

các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cũng đã bước đầu được thực

hiện, tuy nhiên so với chuẩn mực kế toán quốc tế thì vẫn còn nhiều hạn chế

cả về cơ sở pháp lý cũng như thực tế áp dụng. Thông qua khảo sát báo cáo

tài chính (BCTC) của 35 NHTM Việt Nam năm 2018, bài viết đánh giá thực

trạng áp dụng kế toán GTHL của các NHTM Việt Nam, chỉ ra những hạn

chế của vấn đề này, là cơ sở gợi mở cho những khuyến nghị áp dụng kế toán

GTHL tại các NHTM Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế.

pdf 10 trang yennguyen 7980
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
20
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 218- Tháng 7. 2020
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các 
Ngân hàng thương mại Việt Nam
Trịnh Hồng Hạnh
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 26/03/2020 Ngày nhận bản sửa: 28/04/2020 Ngày duyệt đăng: 19/05/2020
Đặc trưng hoạt động ngân hàng là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch 
vụ ngân hàng với đối tượng chủ yếu là các công cụ tài chính mà giá trị của 
chúng thường xuyên biến động theo giá thị trường. Do vậy, để đảm bảo an 
toàn trong hoạt động cũng như cung cấp thông tin một cách minh bạch thì 
các công cụ tài chính cần được công bố theo giá trị thực của nó. Kế toán 
giá trị hợp lý (GTHL) sẽ giải quyết được yêu cầu này. Kế toán GTHL tại 
các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cũng đã bước đầu được thực 
hiện, tuy nhiên so với chuẩn mực kế toán quốc tế thì vẫn còn nhiều hạn chế 
cả về cơ sở pháp lý cũng như thực tế áp dụng. Thông qua khảo sát báo cáo 
tài chính (BCTC) của 35 NHTM Việt Nam năm 2018, bài viết đánh giá thực 
trạng áp dụng kế toán GTHL của các NHTM Việt Nam, chỉ ra những hạn 
chế của vấn đề này, là cơ sở gợi mở cho những khuyến nghị áp dụng kế toán 
GTHL tại các NHTM Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế.
Từ khóa: kế toán giá trị hợp lý, chuẩn mực kế toán quốc tế.
Status of applying fair value accounting in commercial bank in Vietnam 
Abstract: The characteristic of banking activities is the business in field of currency and banking services 
with the main subjects being financial instruments whose values often fluctuate according to market prices. 
Therefore, in order to ensure safety in operation as well as provide transparency, financial instruments need 
to be disclosed according to their real value. Fair value accounting will address this requirement. Fair value 
accounting at commercial banks in Vietnam has been initially implemented, however, in comparison with 
international accounting standards, there are still many limitations both in terms of legal basis as well as in 
practice. Through a survey of the financial statements of 35 Vietnam’s commercial banks in 2018, the paper 
aims to assess the current situation of applying the Fair Value Accounting in commercial banks of Vietnam, 
pointing out the limitations of this situation, which is an open basis for recommendations for applying Fair 
Value Accounting at Vietnam’s commercial banks according to international standards.
Keywords: fair value accounting, international accounting standards
Hanh Hong Trinh
Email: hanhth@hvnh.edu.vn
Faculty of Banking, Banking Academy of Vietnam
TRỊNH HỒNG HẠNH
21Số 218- Tháng 7. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
1. Tổng quan nghiên cứu
Cho đến nay, các chuẩn mực kế toán quốc 
tế (IAS) đưa ra 7 định nghĩa khác nhau về 
GTHL. Sau khi chuẩn mực báo cáo tài chính 
quốc tế (IFRS) 13- Đo lường GTHL, được 
ban hành tháng 5/2011 thì các IAS khi bổ 
sung, sửa đổi hoặc các IFRS ban hành mới 
đã tiếp cận và yêu cầu tham chiếu theo khái 
niệm GTHL qui định trong IFRS 13.
Theo IFRS 13, GTHL là giá sẽ nhận được 
khi bán một tài sản hoặc phải trả khi thanh 
toán một khoản nợ phải trả trong một giao 
dịch thông thường giữa các bên tham gia 
thị trường tại ngày đo lường.
Việc áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực 
quốc tế sẽ mang lại nhiều lợi ích không chỉ 
đối với bản thân các doanh nghiệp mà còn 
góp phần mang lại lợi ích cho quốc gia.
GTHL được đánh giá là cơ sở đo lường đáp 
ứng được yêu cầu ra quyết định của các chủ 
thể có lợi ích liên quan, hơn hẳn các cơ sở đo 
lường khác, thể hiện trên những khía cạnh 
cơ bản thuộc yêu cầu chất lượng của thông 
tin kế toán: i) Tính thích hợp của thông tin: 
Laux và Leuz (2009) đã nhận định BCTC 
theo GTHL “phản ánh điều kiện thị trường 
hiện tại và do đó cung cấp thông tin thích 
hợp, kịp thời”; ii) Tính trung thực: nhiều kết 
quả nghiên cứu đã chứng minh rằng GTHL 
là đáng tin cậy ở tất cả các cấp độ ước tính. 
Các ước tính thuộc cấp độ 1 thì hoàn toàn 
đáng tin cậy, các ước tính thuộc cấp độ 2 và 
3 thì kém tin cậy hơn song tính tin cậy vẫn 
được chứng minh là ở mức độ cao (Barth 
và Clinch (1998); Dietrich và cộng sự 
(2001); Danbolt và Rees (2008)); iii) Tính 
so sánh: Christensen và Nikolaev (2009) 
khi nói đến các lợi ích của việc áp dụng 
GTHL, đã nhấn mạnh vào lợi ích “tăng tính 
so sánh giữa các công ty”; iv) Tính minh 
bạch: Theo Laux và Leuz (2009), áp dụng 
GTHL đối với tài sản hoặc nợ phải trả sẽ 
“làm tăng tính minh bạch và giúp công ty 
đề ra được các biện pháp khắc phục nhanh 
chóng và đúng lúc, giúp các nhà đầu tư đưa 
ra được các quyết định đầu tư chính xác”.
Bên cạnh đó, việc áp dụng kế toán GTHL 
còn góp phần nâng cao uy tín quốc gia 
thông qua việc tuân thủ chuẩn mực quốc 
tế, góp phần thúc đẩy quá trình hội tụ quốc 
tế: Barlev và Haddad (2007) đã nghiên cứu 
mối quan hệ giữa GTHL với hài hoà và hội 
tụ quốc tế. Nghiên cứu nhấn mạnh rằng sự 
hòa hợp kế toán quốc tế có tính khả thi nếu 
sử dụng GTHL và kết luận rằng hệ thống kế 
toán theo GTHL là chất xúc tác, góp phần 
thúc đẩy quá trình hội tụ quốc tế, nâng cao 
uy tín quốc gia. Nhận thức này cũng sẽ là 
yếu tố thúc đẩy các DN trong mỗi quốc gia 
lựa chọn GTHL.
Nghiên cứu về sự ủng hộ kế toán GTHL, đã 
có nhiều quan điểm khác nhau, ủng hộ và 
không ủng hộ kế toán GTHL, đặc biệt sau 
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 với 
hơn 300 ngân hàng Mỹ phá sản, làm các 
bên liên quan đã đổ tội lẫn nhau, trong đó có 
nguyên nhân được nhắc đến là việc sử dụng 
khắt khe nguyên tắc GTHL trong định giá 
tài sản đã làm cho các ngân hàng phá sản 
nhanh hơn. Trong bối cảnh đó, Laux, C. & 
Leuz, C. (2010) đã tiến hành phân tích và 
nghiên cứu các quan điểm về GTHL trong 
việc tác động của nó đến khủng hoảng tài 
chính năm 2008. Kết quả nghiên cứu chỉ 
ra rằng khó có khả năng GTHL tác động 
đến việc định giá tài sản trong cuộc khủng 
hoảng tài chính năm 2008. 
Ở một giác độ khác, Chea, A. C (2011), 
đã tổng hợp sự phát triển của GTHL theo 
Chuẩn mực kế toán tài chính 157 (FAS 
157) và ảnh hưởng của nó lên BCTC trên 
Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 218- Tháng 7. 2020
các khía cạnh thích hợp và độ tin cậy, tính 
xác thực và việc trình bày trên BCTC. 
Ngoài ra tác giả cũng trình bày các quan 
điểm xung quanh việc sử dụng GTHL. 
Cuối cùng, tác giả đưa ra các kiến nghị 
trong việc nâng cao sự hữu ích của việc sử 
dụng GTHL.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Dương Thị 
Thảo (2013) với đề tài Luận án tiến sĩ “Một 
số giải pháp hoàn thiện các qui định về sử 
dụng GTHL trong chế độ kế toán DN Việt 
Nam hiện nay” cũng đã tiến hành khảo sát 
sự ủng hộ của các DN trong việc áp dụng 
GTHL. Tác giả đã tiến hành khảo sát 200 
công ty niêm yết trên thị trường chứng 
khoán, 10 công ty cổ phần chưa niêm yết, 
3 DN nhà nước và 3 công ty trách nhiệm 
hữu hạn, kết quả thu được: mặc dù GTHL 
còn mới mẻ, song đã có nhiều đối tượng 
khảo sát đưa ra quan điểm ủng hộ áp dụng 
GTHL.
Bên cạnh các nghiên cứu về sự ủng hộ 
việc áp dụng kế toán GTHL, cũng có nhiều 
nghiên cứu về tình hình áp dụng GTHL tại 
các doanh nghiệp trên thế giới và ở Việt 
Nam.
Cairns và cộng sự (2011) đã nghiên cứu tình 
hình áp dụng GTHL với mẫu là 228 công ty 
niêm yết trên thị trường chứng khoán của 
Anh và Úc. Nhóm nghiên cứu tìm ra rằng 
tại Úc và Anh, với các khoản mục yêu cầu 
bắt buộc phải áp dụng GTHL như các công 
cụ tài chính (theo Chuẩn mực kế toán quốc 
tế 39- IAS 39) và thanh toán cổ tức (IFRS 
2) thì mức độ áp dụng IFRS là rất cao. Đối 
với các khoản mà được quyền lựa chọn 
giữa GTHL và giá gốc thì các công ty trong 
lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và bất động 
sản đầu tư đã áp dụng GTHL một cách phổ 
biến và đem lại nhiều hiệu quả kinh tế nhất. 
Đối với các khoản mục khác như máy móc, 
thiết bị, nhà xưởng, tỷ lệ công ty áp dụng 
phương pháp GTHL còn thấp...
Tại Trung Quốc, Songlan và cộng sự (2014) 
cũng đã thực hiện nghiên cứu việc áp dụng 
IFRS trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi 
của Trung Quốc. Nghiên cứu này đánh giá 
việc áp dụng GTHL của Trung Quốc bằng 
cách xem xét lịch sử phát triển và mức độ 
áp dụng GTHL. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy rằng hệ thống kế toán mới của Trung 
Quốc đã áp dụng rộng rãi GTHL theo IFRS 
để thích ứng với áp lực bên trong do sự 
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị 
trường và để thích ứng với áp lực bên ngoài 
từ các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, sự khác 
biệt đáng kể giữa các tiêu chuẩn kế toán 
Trung Quốc và IFRS vẫn còn. Trung Quốc 
dường như đã chấp nhận việc áp dụng 
GTHL cho công cụ tài chính, nhưng hạn 
chế áp dụng cho các tài sản phi tài chính. 
Sự khác biệt này dường như không được 
thay đổi trong tương lai gần.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu liên 
quan đến tình hình áp dụng kế toán GTHL 
còn khá khiêm tốn, chủ yếu tập trung ở các 
nghiên cứu mang tính chất định hướng. 
Theo Phạm Đức Hiếu (2010), tại thời điểm 
nghiên cứu, tác giả đã nhận định: kế toán 
theo GTHL thực tế chưa được thừa nhận 
chính thức ở Việt Nam. Theo tác giả, mặc 
dù các hoạt động mua bán, sát nhập các 
DN có sử dụng GTHL, song GTHL được 
sử dụng trong những trường hợp này chỉ 
được sử dụng để xác định lợi ích của cổ 
đông thiểu số tại ngày hợp nhất chứ không 
nhằm mục đích lập BCTC như mục tiêu 
của việc áp dụng GTHL theo CMKT quốc 
tế. Một số DN niêm yết cũng đã manh nha 
áp dụng trên cơ sở giá thị trường cho năm 
2008 nhưng còn nhiều tranh cãi giữa DN và 
với kiểm toán độc lập. Tác giả cũng nhận 
TRỊNH HỒNG HẠNH
23Số 218- Tháng 7. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
định nhu cầu áp dụng GTHL là một hiện 
thực trong các DN Việt Nam.
Theo Hà Thị Ngọc Hà (2016), giá gốc được 
quy định là một nguyên tắc cơ bản của kế 
toán Việt Nam. Vai trò của GTHL còn khá 
mờ nhạt. Trong kế toán Việt Nam, GTHL 
được sử dụng chủ yếu trong ghi nhận ban 
đầu, chẳng hạn: ghi nhận ban đầu tài sản cố 
định, doanh thu, thu nhập khác, ghi nhận 
ban đầu và báo cáo các khoản mục tiền tệ 
có gốc ngoại tệ, xác định giá phí hợp nhất 
kinh doanh. 
Về định hướng sử dụng GTHL trong hệ 
thống kế toán Việt Nam, theo Hà Thị Ngọc 
Hà (2016), trước mắt, GTHL nhất thiết phải 
được sử dụng trong ghi nhận ban đầu đối 
với: bất động sản đầu tư, công cụ tài chính, 
hợp nhất kinh doanh, liên kết, đầu tư vào 
công ty con, bởi lẽ, nếu phản ánh theo giá 
gốc sẽ không phản ánh được những thay đổi 
của thị trường, không phản ánh được lãi- lỗ 
chưa thực hiện vào đúng kỳ mà nó phát sinh.
Với các tổng quan nghiên cứu về GTHL 
cho thấy, kế toán GTHL tại các NHTM 
càng trở nên cần thiết bởi đối tượng kế toán 
ngân hàng chủ yếu là các công cụ tài chính 
có giá trị thường xuyên biến động theo giá 
thị trường, do vậy chúng cần được công 
bố theo GTHL để phản ánh đúng giá trị 
thực, đảm bảo chất lượng thông tin kế toán 
cung cấp. Tuy nhiên, kế toán GTHL tại các 
NHTM Việt Nam mới bước đầu được thực 
hiện và còn nhiều hạn chế so với chuẩn mực 
quốc tế cả về cơ sở pháp lý cũng như thực 
tế áp dụng. Song cũng đã có một số ít ngân 
hàng tự nguyện áp dụng kế toán GTHL 
theo chuẩn mực quốc tế. Điều đó cho thấy 
các ngân hàng cũng đã dần nhận thấy tác 
dụng của việc áp dụng kế toán GTHL. Hơn 
nữa, GTHL lần đầu tiên được quy định ở 
văn bản pháp lý cao nhất là Luật Kế toán 
(sửa đổi) số 88/2015/QH13 đã được Quốc 
hội thông qua ngày 20/11/2015 (có hiệu lực 
từ ngày 01/01/2017) thể hiện xu hướng và 
sự cần thiết của vấn đề này. Do vậy cần 
phải có những nhìn nhận về thực trạng áp 
dụng kế toán GTHL tại các NHTM Việt 
Nam để có các giải pháp định hướng cho 
các ngân hàng áp dụng kế toán GTHL theo 
chuẩn mực quốc tế. 
Trên cơ sở thu nhập, nghiên cứu, so sánh 
các chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn 
mực quốc tế về GTHL, các văn bản chế độ 
kế toán hiện hành của các tổ chức tín dụng 
(TCTD) do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 
(NHNN) ban hành về việc hướng dẫn ghi 
nhận các đối tượng kế toán có giá trị cần 
được ghi nhận và phản ánh theo GTHL, tác 
giả tổng hợp, rút ra những đánh giá về cơ 
sở pháp lý để thực hiện kế toán GTHL tại 
các NHTM Việt Nam. Bên cạnh đó, thực 
trạng kế toán GTHL tại các NHTM còn 
được khảo sát về phương diện thực tế áp 
dụng tại các NHTM theo chuẩn mực, chế 
độ kế toán Việt Nam và theo chuẩn mực 
quốc tế. Phương pháp khảo sát được tác giả 
thực hiện thông qua thu thập BCTC năm 
2018 đã kiểm toán của 35 NHTM Việt Nam 
được công bố trên website của các ngân 
hàng. Việc khảo sát BCTC của các NHTM 
để đánh giá việc áp dụng kế toán GTHL của 
các ngân hàng là một phương pháp đáng tin 
cậy bởi các ngân hàng đều phải công bố 
các chính sách kế toán, nguyên tắc kế toán 
được áp dụng với các khoản mục tài sản, 
nguồn vốn, thu nhập, chi phí được ghi nhận 
và trình bày trên các BCTC của mình. Do 
vậy, có thể đánh giá được các NHTM đã 
tuân thủ các chuẩn mực, chế độ kế toán Việt 
Nam quy định về GTHL ở mức độ nào, đã 
có sự thống nhất giữa các ngân hàng hay 
chưa cũng như đánh giá được thực trạng áp 
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc 
tế của các NHTM Việt Nam. Những đánh 
Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 218- Tháng 7. 2020
giá đó sẽ gợi mở cho những nghiên cứu 
tiếp theo về việc xác định nguyên nhân của 
những hạn chế trong việc áp dụng kế toán 
GTHL để đưa ra các khuyến nghị nhằm áp 
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc 
tế tại các NHTM Việt Nam.
2. Thực trạng áp dụng kế toán giá trị 
hợp lý tại các ngân hàng thương mại 
Việt Nam
Qua nghiên cứu so sánh và tổng hợp các 
văn bản, chế độ kế toán và các chuẩn mực 
kế toán Việt Nam và quốc tế, đồng thời 
khảo sát BCTC hợp nhất và BCTC công ty 
mẹ năm 2018 (đã kiểm toán) của 35 NHTM 
Việt Nam được công bố trên website của 
các ngân hàng, tác giả đánh giá thực trạng 
áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các NHTM 
Việt Nam trên 3 nội dung chính: 
Thứ nhất, về hệ thống cơ sở pháp lý 
cho việc áp dụng kế toán GTHL của các 
NHTM Việt Nam, trước hết là cơ sở pháp 
lý của kế toán GTHL quy định chung đối 
với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam do 
Bộ Tài chính ban hành, bên cạnh đó là 
các chế độ kế toán hướng dẫn GTHL của 
NHNN.
Qua tổng hợp nghiên cứu các chuẩn mực 
kế toán (CMKT) Việt Nam cho thấy, đến 
nay bộ CMKT Việt Nam bao gồm 01 
chuẩn mực chung và 25 chuẩn mực cụ thể, 
trong đó có 13 chuẩn mực bắt buộc hoặc 
cho phép một cách trực tiếp hay gián tiếp 
việc áp dụng GTHL, 10 chuẩn mực yêu 
cầu áp dụng GTHL trong ghi nhận ban 
đầu đối với tài sản và nợ phải trả, 6 chuẩn 
mực cho phép áp dụng GTHL khi trình bày 
và công bố thông tin trên BCTC. Theo đó 
khái niệm GTHL sau mỗi đợt ban hành 
CMKT (từ 2001 đến 2005) và đến Thông 
tư 210/2009/TT-BTC và Luật Kế toán số 
88 (năm 2015) đã dần được hoàn thiện, 
song nhìn chung so với chuẩn mực quốc tế 
thì các khái niệm là chưa đầy đủ, rõ ràng, 
chưa giải thích được các thuật ngữ sử dụng, 
như vậy sẽ rất khó cho người sử dụng áp 
dụng khi phát sinh các nghiệp vụ liên quan 
đến GTHL. Việt Nam chưa  ... ãi ở các 
nước và lãnh thổ khác ngoài Việt Nam.
Cơ sở đo lường: 100% các ngân hàng khảo 
sát có thuyết minh là các BCTC ngoại trừ 
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập trên cơ 
sở dồn tích theo nguyên tắc giá gốc.
Các giao dịch ngoại tệ: 100% BCTC các 
ngân hàng thuyết minh: Các khoản mục tài 
sản và nợ phải trả có gốc tiền tệ khác với 
VND được quy đổi sang VND theo tỷ giá áp 
dụng tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Các 
khoản mục phi tiền tệ có gốc ngoại tệ phát 
sinh trong năm được quy đổi sang VND 
theo tỷ giá hối đoái tại ngày giao dịch. Các 
giao dịch thu nhập và chi phí bằng ngoại 
tệ được hạch toán bằng VND trên báo cáo 
kết quả kinh doanh theo tỷ giá giao ngay tại 
ngày giao dịch.
Trình bày và thuyết minh thông tin về công 
cụ tài chính theo Thông tư 210/2009/TT-
BTC: Mặc dù hiện tại chưa có CMKT Việt 
Nam về công cụ tài chính nhưng Bộ Tài 
chính đã ban hành Thông tư 210/2009/TT-
BTC v/v “hướng dẫn áp dụng Chuẩn mực 
kế toán quốc tế về trình bày BCTC và thuyết 
minh thông tin đối với công cụ tài chính”. 
Khảo sát thuyết minh BCTC năm 2018 của 
35 NHTM cho thấy có 3 nhóm ngân hàng: 
i) các ngân hàng không thuyết minh về công 
cụ tài chính theo Thông tư 210/2009/TT-
BTC: có 5/35 NHTM được khảo sát; ii) các 
ngân hàng thuyết minh về phân loại, thời 
điểm ghi nhận và dừng ghi nhận công cụ tài 
chính: có 8/35 NHTM được khảo sát. Các 
ngân hàng này chỉ thuyết minh về các tài 
sản tài chính, nợ phải trả tài chính phát sinh 
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng 
và phân loại theo các nhóm theo chuẩn mực 
kế toán quốc tế; iii) các ngân hàng thuyết 
minh về phân loại, thời điểm ghi nhận và 
dừng ghi nhận công cụ tài chính; giá trị hợp 
lý của công cụ tài chính so với giá trị ghi 
sổ của công cụ tài chính: có 22/35 NHTM 
được khảo sát. Các ngân hàng này, bên 
Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 218- Tháng 7. 2020
cạnh thuyết minh về các tài sản tài chính, 
nợ phải trả tài chính phát sinh trong hoạt 
động kinh doanh của ngân hàng và phân 
loại theo các nhóm theo CMKT quốc tế, 
còn thuyết minh về việc ghi nhận và dừng 
ghi nhận công cụ tài chính cũng như GTHL 
của công cụ tài chính ở thời điểm báo cáo 
so với giá trị ghi sổ.
Chứng khoán kinh doanh: 100% thuyết 
minh BCTC của các ngân hàng được khảo 
sát thuyết minh về nguyên tắc ghi nhận 
chứng khoán kinh doanh và giá trị công 
bố trên BCTC như sau: Chứng khoán kinh 
doanh được ghi nhận ban đầu theo giá gốc, 
sau đó được ghi nhận theo giá trị thấp hơn 
giữa giá trị trên sổ sách và giá thị trường. 
Chứng khoán đầu tư: 100% thuyết minh 
BCTC của các ngân hàng được khảo sát 
thuyết minh về nguyên tắc ghi nhận chứng 
khoán đầu tư và giá trị công bố trên BCTC 
theo hướng dẫn của NHNN.
Góp vốn đầu tư dài hạn: 100% BCTC của 
các ngân hàng thuyết minh về các khoản 
đầu tư dài hạn như sau:
- Ghi nhận ban đầu: theo giá gốc.
- Ghi nhận tiếp theo: sau ghi nhận ban đầu, 
các khoản góp vốn, đầu tư dài hạn được ghi 
nhận theo giá gốc trừ dự phòng giảm giá. 
Trên BCTC hợp nhất, các khoản đầu tư vào 
công ty liên kết, liên doanh được phản ánh 
theo phương pháp vốn chủ sở hữu.
Tài sản cố định: 100% BCTC của các ngân 
hàng được khảo sát ghi nhận các khoản 
mục tài sản này tuân thủ theo các CMKT 
hiện hành, việc sử dụng giá trị hợp lý nếu 
có chỉ nhằm mục đích ghi nhận ban đầu 
thay giá gốc.
Thuê tài sản: 100% các ngân hàng có thuê 
tài chính tài sản cố định (TSCĐ) đều thuyết 
minh việc ghi nhận ban đầu TSCĐ thuê tài 
chính theo đúng CMKT Việt Nam VAS 06 
“Thuê tài sản”.
Bất động sản đầu tư: Có 65% các ngân 
hàng có khoản mục bất động sản đầu tư 
thuyết minh “Bất động sản đầu tư được 
ghi nhận theo nguyên giá trừ đi hao mòn 
lũy kế”. Có 35% các NH có khoản mục bất 
động sản đầu tư thuyết minh theo 2 loại bất 
động sản đầu tư: (i) Bất động sản đầu tư 
cho thuê; (ii) Bất động sản đầu tư nắm giữ 
chờ tăng giá.
Thứ ba, các ngân hàng đã và đang lập 
BCTC theo IFRS, đó chủ yếu là các ngân 
hàng thuộc nhóm 10 ngân hàng được 
NHNN lựa chọn thực hiện thí điểm Basel 2 
như: VCB, BIDV, Vietinbank, Sacombank, 
VIB, MB, Techcombank, VP Bank, 
Maritimebank, ACB Kết quả khảo sát 
cho thấy việc áp dụng kế toán GTHL và lập 
BCTC theo IFRS của các ngân hàng chia 
làm 2 nhóm: nhóm thứ nhất, các ngân hàng 
lập BCTC theo IFRS trên cơ sở chuyển đổi 
từ báo cáo tài chính theo CMKT Việt Nam 
đã được kiểm toán và có sự hỗ trợ chuyển 
đổi thủ công của công ty kiểm toán; nhóm 
thứ hai là áp dụng kế toán GTHL trong ghi 
nhận ban đầu và lập BCTC theo IFRS.
3. Đánh giá chung về áp dụng kế toán 
giá trị hợp lý tại các ngân hàng thương 
mại Việt Nam 
Với những nội dung khảo sát về thực trạng 
áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM Việt 
Nam như trên, có thể đánh giá khái quát 
lại trên hai mặt những kết quả đạt được và 
những hạn chế như sau:
3.1. Những kết quả đạt được
TRỊNH HỒNG HẠNH
27Số 218- Tháng 7. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Thứ nhất, cơ sở pháp lý chung về kế toán 
GTHL: Ngay từ khi bắt đầu soạn thảo bộ 
CMKT Việt Nam, cơ quan soạn thảo đã 
tham khảo bộ CMKT quốc tế, theo đó 
GTHL đã được nghiên cứu vận dụng có 
chọn lọc phù hợp với các điều kiện của nền 
kinh tế, chính trị và xã hội. Bộ Tài chính 
đã nhanh chóng nghiên cứu ban hành bộ 
tiêu chuẩn thẩm định giá, đặc biệt là đưa ra 
hướng dẫn chi tiết thực hiện 5 phương pháp 
định giá. 
Bên cạnh các CMKT, thông tư hướng dẫn 
chung của Bộ Tài chính trong lĩnh vực kế 
toán ngân hàng, với các đối tượng kế toán 
mà giá trị có thể biến động theo giá thị 
trường như chứng khoán kinh doanh, chứng 
khoán đầu tư sẵn sàng để bán, công cụ phái 
sinh thì NHNN đã có hướng dẫn về cách ghi 
nhận và công bố thông tin để phản ánh được 
giá trị gần sát với giá trị thực của chúng và 
phù hợp với điều kiện của thị trường Việt 
Nam. 
Thứ hai, về thực trạng áp dụng kế toán 
GTHL tại các NHTM Việt Nam: Hầu hết 
các NHTM Việt Nam tuân thủ theo đúng 
chuẩn mực chế độ kế toán Việt Nam quy 
định về kế toán GTHL, trình bày và công 
bố thông tin các đối tượng kế toán trên 
BCTC.
Thứ ba, tự nguyện áp dụng kế toán GTHL 
theo chuẩn mực quốc tế: Đã có một số các 
NHTM tự nguyện áp dụng kế toán GTHL 
theo chuẩn mực quốc tế xuất phát từ chính 
nhu cầu tự thân của các ngân hàng. Mặc 
dù việc áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn 
mực quốc tế của các ngân hàng ở các mức 
độ khác nhau, song đây là dấu hiệu tốt 
cho việc định hướng áp dụng bắt buộc kế 
toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại các 
NHTM Việt Nam.
3.2. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, kế toán 
GTHL tại các NHTM Việt Nam còn có 
những hạn chế sau: 
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý của kế toán 
GTHL: Trên cơ sở tổng hợp nghiên cứu và 
so sánh các chuẩn mực, chế độ kế toán hiện 
hành về GTHL mà các NHTM Việt Nam 
đang áp dụng với các chuẩn mực quốc tế, 
cho thấy cơ sở pháp lý của kế toán GTHL 
còn chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ: i)Khái 
niệm về GTHL ở trong các văn bản cơ sở 
pháp lý là không thống nhất, bên cạnh đó 
cũng không giải thích các thuật ngữ trong 
khái niệm, gây khó hiểu cho người đọc; ii) 
Các quy định về kế toán GTHL trong hệ 
thống CMKT còn rất hạn chế và mới dừng 
lại ở việc sử dụng GTHL để ghi nhận ban 
đầu thay cho giá gốc; iii) Chưa có chuẩn 
mực nào qui định về đo lường GTHL ngoại 
trừ đoạn 24 của VAS 04 “TSCĐ vô hình” 
có đề cập đến phương pháp xác định GTHL 
của TSCĐ vô hình; iv) Việt Nam chưa có 
CMKT quy định về suy giảm giá trị của 
tài sản như CMKT quốc tế; v) Những công 
văn, chế độ kế toán của NHNN hướng dẫn 
cho một số đối tượng kế toán ngân hàng có 
sự biến động giá trị thường xuyên mặc dù 
đã tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, song 
vẫn có sự khác biệt nhất định so với chuẩn 
mực quốc tế, dẫn đến có sự khác biệt về 
thông tin kế toán cung cấp đối với các đối 
tượng kế toán đó nếu áp dụng theo chế độ 
kế toán của Việt Nam và theo chuẩn mực 
quốc tế.
Những hạn chế về cơ sở pháp lý này sẽ ảnh 
hưởng đến quá trình áp dụng kế toán GTHL 
tại các NHTM Việt Nam, tạo nên sự không 
thống nhất giữa các ngân hàng, khiến các 
yêu cầu về chất lượng của thông tin kế toán 
không được đảm bảo, từ đó ảnh hưởng đến 
Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 218- Tháng 7. 2020
quyết định của những người sử dụng thông 
tin kế toán ngân hàng cung cấp.
Thứ hai, những hạn chế trong việc áp dụng 
kế toán giá trị hợp lý tại các NHTM Việt 
Nam theo chuẩn mực chế độ kế toán Việt 
Nam: i) BCTC của các ngân hàng được 
lập và trình bày theo chuẩn mực, chế độ 
kế toán Việt Nam có cả những cảnh báo 
đối với người đọc về hạn chế sử dụng các 
báo cáo này do những khác biệt đáng kể 
với các chuẩn mực và thông lệ chung được 
chấp nhận rộng rãi ở các nước và lãnh thổ 
khác ngoài Việt Nam. Các cảnh báo này có 
ảnh hưởng không tốt tới uy tín của hệ thống 
BCTC và độ tin cậy của cộng đồng đầu tư 
quốc tế đối với các thông tin tài chính của 
các NHTM Việt Nam; ii) Cũng như kết 
quả nghiên cứu thực trạng cơ sở pháp lý 
về kế toán GTHL ở Việt Nam, các NHTM 
Việt Nam chủ yếu vận dụng GTHL trong 
trường hợp ghi nhận ban đầu thay cho giá 
gốc; iii) Ở một số giao dịch còn có một số 
ngân hàng chưa áp dụng đúng CMKT quy 
định; iv) Việc trình bày và công bố thông 
tin về các công cụ tài chính còn chưa nhất 
quán giữa các ngân hàng với nhau. Những 
hạn chế này một phần chính là hệ quả của 
những hạn chế về cơ sở pháp lý của việc 
áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM hiện 
nay. 
Thứ ba, áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn 
mực quốc tế tại một số ngân hàng tự nguyện 
áp dụng vẫn còn hạn chế: i) Số lượng ngân 
hàng tự nguyện áp dụng kế toán GTHL theo 
chuẩn mực quốc tế còn thấp (20%); ii) Hầu 
hết các ngân hàng lập BCTC theo IFRS 
trên cơ sở chuyển đổi BCTC theo CMKT 
Việt Nam sang và có sự hỗ trợ chuyển đổi 
thủ công của công ty kiểm toán ; iii) Với 
những ngân hàng thực hiện chế độ kế toán 
GTHL và BCTC theo chuẩn mực quốc tế: 
mặc dù đã áp dụng việc xác định GTHL 
theo các kỹ thuật định giá tương ứng với 
03 cấp độ của các yếu tố đầu vào như IFRS 
13 quy định, tuy nhiên trong một số trường 
hợp không có đủ thông tin về các yếu tố 
đầu vào để sử dụng kỹ thuật định giá nhằm 
xác định GTHL của các khoản mục tài sản, 
nợ phải trả dẫn đến các NH đó phải công 
bố GTHL với giả định bằng xấp xỉ giá trị 
ghi sổ hoặc không công bố GTHL của một 
số khoản mục tài sản, nợ phải trả. 
Nguyên nhân của những tồn tại trên có thể 
xuất phát từ các yếu tố như: môi trường 
pháp lý, môi trường nghề nghiệp, môi 
trường kinh doanh, môi trường kinh tế, 
môi trường quốc tế và yếu tố văn hóa tâm 
lý. Trong đó, môi trường kinh tế và kinh 
doanh tạo ra các động cơ cho việc áp dụng 
kế toán GTHL, trong khi môi trường quốc 
tế lại tạo ra các áp lực cho việc áp dụng kế 
toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế. Môi 
trường pháp lý và môi trường nghề nghiệp 
ảnh hưởng đến quá trình triển khai áp dụng 
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế. 
Cuối cùng, môi trường văn hóa tác động 
đến mức độ sẵn sàng chấp nhận các chuẩn 
mực quốc tế của lãnh đạo các tổ chức, là 
yếu tố có thể đẩy nhanh hoặc trì hoãn quá 
trình triển khai áp dụng kế toán GTHL theo 
chuẩn quốc tế tại các quốc gia. Tuy nhiên, 
mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến 
việc áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM 
Việt Nam là nhiều hay ít thì cần có những 
khảo sát, đánh giá cụ thể ở những nghiên 
cứu tiếp theo. 
4. Kết luận
Với sự cần thiết của kế toán GTHL do 
những lợi ích của nó mang lại, cùng xu 
hướng hội nhập kế toán quốc tế, việc áp 
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc 
tế tại các NHTM Việt Nam là một xu thế tất 
yếu. Theo đó, đánh giá thực trạng áp dụng 
TRỊNH HỒNG HẠNH
29Số 218- Tháng 7. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
kế toán GTHL tại các NHTM Việt Nam là 
bước đầu tiên cần phải thực hiện. Bài viết 
đã khảo sát và đánh giá những kết quả đạt 
được, đặc biệt là những hạn chế của việc 
áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM Việt 
Nam hiện nay. Việc xác định mức độ ảnh 
hưởng của các yếu tố được xem là nguyên 
nhân của những hạn chế đó sẽ là gợi mở 
cho các nghiên cứu tiếp theo nhằm khuyến 
nghị các giải pháp toàn diện cho việc áp 
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc 
tế tại các NHTM Việt Nam trong thời gian 
tới ■
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2008), 26 CMKT Việt Nam (2001-2006), Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
2. Báo cáo tài chính năm 2018 đã kiểm toán của các NHTM Việt Nam, Website của các NHTM Việt Nam. 
3. Barlev, B., Haddad and J.R. (2007), Harmonization, comparability, and fair value accounting, Journal of Accounting, 
Auditing and Finance, Vol. 22, No.3.
4. Barth, M. E., & Clinch and G. (1998), Revalued Financial, Tangible, and Intangible Assets: Associations with Share 
Prices and Non-Market-Based Value Estimates, Journal of Accounting Research, Vol. 36.
5. Cairn, D., Dianne, M., Ross, T., Ann, T. (2011), IFRS fair value measurement and accounting policy choice in the 
United Kingdom and Australia, The British Accounting Review, No. 43.
6. Chea, A. C (2011), Fair Value Accounting: Its Impacts on Financial Reporting and How It Can Be Enhanced to 
Provide More Clarity and Reliability of Information for Users of Financial Statements, International Journal of Business 
and Social Science, Vol. 2 No. 20
7. Christensen & Nikolaev, V. (2009), Who uses fair value accounting for non-financial assets after IFRS adoption?, 
University of Chicago Booth School of Business, Working paper, No. 09-12.
8. Danbolt, J., & Rees, W. (2008), An Experiment in Fair Value Accounting: UK Investment Vehicles, European 
Accounting Review, Vol 17 (2).
9. Dietrich, D., Harris, M., & Muller, K. A. (2001), The reliability of investment property fair estimates, Journal of 
Accounting and Economics. Vol 30.
10. Dương Thị Thảo (2013), Một số giải pháp hoàn thiện các qui định về sử dụng giá trị hợp lý trong chế độ kế toán DN 
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
11. Hà Thị Ngọc Hà (2016), Cập nhật chuẩn mực kế toán Việt Nam phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế với việc góp 
phần tăng cường chất lượng báo cáo tài chính được kiểm toán, truy cập ngày 15/7/2016, từ  
12. IFRS 13- Fair Value Measurement; IFRS 9 Financial Instruments ; IAS 32 Financial Instruments: Presentation; IAS 
39: Financial Instruments: Recognition and Measurement, https://www.iasplus.com/en/standards
13. Laux, C., Leuz, C. (2009), The crisis of fair-value accounting: Making sense of the recent debate, Accounting, 
Organizations and Society, No. 34.
14. Laux, C., Leuz, C. (2010), Did Fair – Value Accounting Contribute to the Financial Crisis?, Forthcoming in the 
Journal of Economic Perspectives, Chicago University, Chicago.
15. Phạm Đức Hiếu (2010), Kế toán theo giá trị hợp lý và khủng hoảng tài chính - các tranh luận và liên hệ thực tế ở Việt 
Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số tháng 9/2010.
16. Songlan, P., Cameron, G., Kathryn, B. (2014), Fair Value Accounting Reforms in China: Towards an Accounting 
Movement Theory, truy cập ngày 02/6/2014, từ 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_ap_dung_ke_toan_gia_tri_hop_ly_tai_cac_ngan_hang.pdf