Thực trạng khó khăn trong giao tiếp ở trẻ phổ tự kỷ 3-4 tuổi

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Khiếm khuyết về giao tiếp là một trong những đặc trưng của trẻ rối loạn phổ tự kỷ

trong đó giao tiếp đóng vai trò quan trọng không thể thiếu và là điều kiện tồn tại của mỗi cá nhân

và của xã hội loài người. Vì vậy việc nghiên cứu thực trạng khó khăn trong giao tiếp đối với trẻ

phổ tự kỷ hiện nay là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm.

Mục tiêu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về khó khăn giao tiếp của trẻ phổ tự kỷ

(TPTK), đề xuất các biện pháp tác động nhằm góp phần nâng cao hiệu quả can thiệp khó khăn

trong giao tiếp cho trẻ phổ tự kỷ.

Phương pháp: Sử dụng trắc nghiệm để đánh giá mức độ khó khăn trong giao tiếp của trẻ phổ tự

kỷ, sử dụng điều tra bằng phiếu hỏi đối với giáo viên, cán bộ quản lý, cha mẹ TPTK nhằm tìm hiểu

thực trạng các biện pháp can thiệp khó khăn trong giao tiếp cho TPTK trong lớp học hoà nhập ở

địa bàn nghiên cứu làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và tiến hành thử nghiệm sư phạm.

Kết quả: Đánh giá khó khăn trong giao tiếp của TPTK cho thấy, mức độ phát triển chung về giao

tiếp của TPTK khá thấp, trẻ bộc lộ nhiều khó khăn đặc trưng dựa trên 25 tiêu chí ở 05 nhóm: Tập

trung chú ý, bắt chước, luân phiên, nghe hiểu ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ nói.

pdf 6 trang yennguyen 2700
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng khó khăn trong giao tiếp ở trẻ phổ tự kỷ 3-4 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng khó khăn trong giao tiếp ở trẻ phổ tự kỷ 3-4 tuổi

Thực trạng khó khăn trong giao tiếp ở trẻ phổ tự kỷ 3-4 tuổi
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 197(04): 107 - 112 
 Email: jst@tnu.edu.vn 107 
THỰC TRẠNG KHÓ KHĂN TRONG GIAO TIẾP Ở TRẺ PHỔ TỰ KỶ 3-4 TUỔI 
Phạm Thị Hằng*, Mai Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Hải Hà, Nguyễn Thị Tú Anh 
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Khiếm khuyết về giao tiếp là một trong những đặc trưng của trẻ rối loạn phổ tự kỷ 
trong đó giao tiếp đóng vai trò quan trọng không thể thiếu và là điều kiện tồn tại của mỗi cá nhân 
và của xã hội loài người. Vì vậy việc nghiên cứu thực trạng khó khăn trong giao tiếp đối với trẻ 
phổ tự kỷ hiện nay là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm. 
Mục tiêu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về khó khăn giao tiếp của trẻ phổ tự kỷ 
(TPTK), đề xuất các biện pháp tác động nhằm góp phần nâng cao hiệu quả can thiệp khó khăn 
trong giao tiếp cho trẻ phổ tự kỷ. 
Phương pháp: Sử dụng trắc nghiệm để đánh giá mức độ khó khăn trong giao tiếp của trẻ phổ tự 
kỷ, sử dụng điều tra bằng phiếu hỏi đối với giáo viên, cán bộ quản lý, cha mẹ TPTK nhằm tìm hiểu 
thực trạng các biện pháp can thiệp khó khăn trong giao tiếp cho TPTK trong lớp học hoà nhập ở 
địa bàn nghiên cứu làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và tiến hành thử nghiệm sư phạm. 
Kết quả: Đánh giá khó khăn trong giao tiếp của TPTK cho thấy, mức độ phát triển chung về giao 
tiếp của TPTK khá thấp, trẻ bộc lộ nhiều khó khăn đặc trưng dựa trên 25 tiêu chí ở 05 nhóm: Tập 
trung chú ý, bắt chước, luân phiên, nghe hiểu ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ nói. 
Từ khóa: Rối loạn phổ tự kỷ, Khó khăn trong giao tiếp của trẻ phổ tự kỷ, Biện pháp can thiệp khó 
khăn trong can thiệp cho trẻ phổ tự kỷ. 
Ngày nhận bài: 12/3/2019;Ngày hoàn thiện: 09/4/2019;Ngày duyệt đăng: 22/4/2019 
DIFFICULTIES IN COMMUNICATION OF 3-4 YEAR – OLD- CHILDREN 
WITH AUTISM SPECTRUM DISORDER (ASD) 
Pham Thi Hang
*
, Mai Thi Thu Hang, Nguyen Hai Ha, Nguyen Thi Tu Anh 
Nam Dinh University of Nursing 
ABSTRACT 
Rationale: Communication difficulty is one of the characteristics of autism spectrum disorder 
(ASD) children. Meanwhile, communication plays a crucial role and a survival condition for each 
person and human community. Therefore, it is importatn to study the ASD childrens’ difficulties 
in communication. 
Purpose: Researching theory and practice of communicative difficulties of ASD children which 
form a basis to propose effective measures treating communication difficulties of ASD children. 
Method: using quiz test to consider the level of ASD childrens’ communicating difficulty, 
distributing questionnaires to ASD childrens’ teachers, managers and parents in order to evaluate 
interventions for ASD children at integration classes. Those evaluations are for considering 
situation and implementing pedagogical experiments. 
Result: The study on ASD childrens’ difficulties in communication shows that developmental 
level on communication is low. Children reveal featured problems on 25 criterias of 05 groups: 
focus attention, imitation, rotating, listening and using speech. 
Key words: autism spectrum disorder (ASD), communicative difficulties of children with ASD, 
intervention. 
Received: 12/3/2019; Revised: 09/4/2019;Approved: 22/4/2019 
* Corresponding author: Email: phamhang.hvq@gmail.com
Phạm Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 197(04): 107 - 112 
 Email: jst@tnu.edu.vn 108 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum 
Disorders – ASD) ở trẻ em thể hiện bằng sự 
sút kém nghiêm trọng và lan tỏa các chức 
năng tâm thần trên các phương diện: Tương 
tác xã hội, ngôn ngữ, hành vi và ứng xử. 
Những rối loạn này làm cho trẻ khó khăn 
trong hòa nhập cộng đồng. Điều đó cho thấy, 
mức độ ảnh hưởng của hội chứng này tới trẻ 
về mặt thể chất và tinh thần là rất đáng ngại. 
Trong đó, khó khăn trong giao tiếp là vấn đề 
đầu tiên cần quan tâm [1]. 
Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu của 
mỗi con người, nhờ có giao tiếp mà con 
người có thể chung sống và hòa nhập trong 
một xã hội. Vì vậy, để thực hiện các mục tiêu 
giáo dục cho trẻ đặc biệt là đối với trẻ phổ tự 
kỷ (TPTK) thì điều cần thiết là phải hình 
thành và phát triển ở các em ngay từ lứa tuổi 
mầm non. Giao tiếp không phải bẩm sinh, di 
truyền mà nó được hình thành và phát triển 
trong cuộc sống hằng ngày bằng các hoạt 
động, trải nghiệm, luyện tập, rèn luyện... [2]. 
Trong quá trình chăm sóc và giáo dục cho 
TPTK việc dạy cho trẻ biết cách giao tiếp với 
mọi người xung quanh, biết tập trung chú ý 
khi giao tiếp, cách tiếp cận và biết bày tỏ thái 
độ, quan điểm của mình bằng lời nói, cử chỉ, 
điệu bộ, nét mặt, biết cách giải quyết những 
tình huống trong cuộc sống hằng ngày, biểu 
đạt những mong muốn, cảm xúc, suy nghĩ, 
làm những việc nên làm, đồng thời biết lắng 
nghe và hiểu người khác là nội dung quan 
trọng, không thể thiếu trong công tác can 
thiệp và giáo dục cho trẻ phổ tự kỷ [3]. 
Do đó, việc tìm hiểu thực trạng khó khăn 
trong giao tiếp cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ 3 - 4 
tuổi nhằm tìm ra những khó khăn trong giao 
tiếp của trẻ để đề xuất các biện pháp tác động 
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả can thiệp 
khó khăn trong giao tiếp cho trẻ phổ tự kỷ. 
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cần được 
nghiên cứu. 
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
Đối tượng, khách thể, thời gian, địa điểm 
nghiên cứu 
- Đối tượng nghiên cứu: Các khó khăn tâm lý 
trong giao tiếp của TPTK. 
- Khách thể nghiên cứu: 30 trẻ phổ tự kỷ 3- 4 tuổi. 
- Địa điểm: Được tiến hành điều tra khảo sát 
thực tế và tổ chức thử nghiệm ở 3 trường 
mầm non có TPTK học hòa nhập. Trường 
mầm non Hoa Lộc Vừng - Mễ Trì - Hà Nội, 
trường mầm non Mễ Trì - Hà Nội, trường 
mầm non Bé Ngoan - Mễ Trì - Hà Nội. 
- Thời gian: Từ tháng 11 năm 2017 đến tháng 
2 năm 2018. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp quan sát 
Quan sát, theo dõi và ghi chép các biểu hiện 
giao tiếp của TPTK với các bạn trong lớp, 
với cô giáo để đánh giá khả năng giao tiếp 
của TPTK. 
Quan sát quá trình tổ chức các hoạt động 
chăm sóc và giáo dục hằng ngày của giáo 
viên trong lớp học hòa nhập ở trường mầm 
non để có cơ sở đánh giá thực trạng việc sử 
dụng các biện pháp can thiệp khó khăn trong 
giao tiếp cho TPTK. 
Ghi biên bản, thu âm, quay video các hoạt động 
giao tiếp của TPTK làm tư liệu nghiên cứu. 
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 
Sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi 
đối với giáo viên, cán bộ quản lý, cha mẹ 
TPTK nhằm tìm hiểu thực trạng các biện 
pháp can thiệp khó khăn trong giao tiếp cho 
TPTK trong lớp học hoà nhập ở địa bàn 
nghiên cứu làm cơ sở cho việc đánh giá thực 
trạng và tiến hành thử nghiệm sư phạm. 
Phương pháp trắc nghiệm 
Sử dụng trắc nghiệm CARS để đánh giá mức 
độ khó khăn trong giao tiếp của trẻ phổ tự kỷ, 
làm cơ sở xây dựng thực chứng và những 
cách thức tác động, can thiệp khó khăn trong 
giao tiếp của trẻ phổ tự kỷ từ 3 – 4 tuổi. 
Cách tính điểm theo 3 mức: Mức 1: 0 điểm 
đối với trẻ không thực hiện được, mức 2: 1 
điểm đối với trẻ thực hiện được hay thực hiện 
Phạm Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 197(04): 107 - 112 
 Email: jst@tnu.edu.vn 109 
có sự trợ giúp, mức 3: 2 điểm đối với trẻ thực 
hiện được không cần trợ giúp. 
Điểm trung bình từ 0,00 < 0,67: Mức độ này 
tương ứng với việc trẻ không thực hiện được kể 
cả khi có trợ giúp hoặc không chịu thực hiện. 
Điểm trung bình từ 0,68 < 1,35: Mức độ này 
tương ứng với trẻ thực hiện hay thực hiện 
đúng nhờ có sự trợ giúp (cầm tay trẻ cùng 
làm, gợi ý bằng cử chỉ hay lời nói: Làm mẫu, 
nhắc bằng lời). 
Điểm trung bình từ 1,36 < 2,03: Mức độ này 
tương ứng với việc trẻ thực hiện hay thể hiện 
đúng mà không cần trợ giúp. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG 
KHÓ KHĂN TRONG GIAO TIẾP Ở TRẺ 
PHỔ TỰ KỶ 3 -4 TUỔI 
Đánh giá những biểu hiện khó khăn trong 
giao tiếp của TPTK 3 - 4 tuổi 
Chúng tôi tiến hành đánh giá khó khăn giao 
tiếp của 30 trẻ phổ tự kỷ 3 – 4 tuổi đang học 
hòa nhập ở trường mầm non thuộc quận Nam 
Từ Liêm Hà Nội. Tất cả 30 trẻ được khảo sát 
đều nằm trong độ tuổi từ 3 – 4 tuổi, độ tuổi 
của nhóm trẻ khảo sát dao động từ 36 đến 48 
tháng, thấp nhất là 36 tháng và cao nhất là 47 
tháng tuổi, với số trung bình là 40; 2 tháng 
tuổi, độ lệch chuẩn là 3,39 điểm. 
Với mục đích can thiệp khó khăn trong giao 
tiếp của TPTK là nhằm hình thành ở trẻ các 
KN như: quan sát, chờ đợi, bắt chước, tập 
trung chú ý, lần lượt, sử dụng ngôn ngữ [4]. 
Vì một số trẻ tự kỷ không nói được nên 
giao tiếp có thể là bằng lời cho những trẻ 
nào đã biết nói, hay dấu hiệu. Thường thì 
trẻ học nói bằng cách bắt chước mà trẻ tự 
kỷ thì khả năng bắt chước lại không tốt. Vì 
vậy nguyên tắc dạy nói trong việc dạy trẻ là 
phải dựa trên nhu cầu của trẻ [5].Chúng tôi 
sử dụng bảng đánh giá kỹ năng giao tiếp làm 
công cụ đánh giá tiến hành quan sát các giờ học, 
giờ chơi, giờ ăn, giờ ngủ, giờ đón và trả trẻ ở 
trường MN trong điều kiện bình thường có báo 
trước và kiểm tra trực tiếp trên trẻ. Sau đó tiến 
hành thống kê và phân tích kết quả đánh giá. 
Tổng hợp kết quả khảo sát 30 trẻ ở tất cả các 
tiêu chí đo được thể hiện trong bảng 1. 
Bảng 1 cho thấy: Khó khăn trong giao tiếp 
của TPTK chỉ đạt điểm trung bình từ 1,428 
đến 2,268. Trong các nhóm khó khăn thành 
phần của khó khăn trong giao tiếp thì nhóm 
khó khăn trong sử dụng ngôn ngữ đạt ở mức 
độ cao hơn so với các nhóm khó khăn khác 
với điểm trung bình là 2,27. Còn nhóm khó 
khăn trong luân phiên đạt ở mức độ thấp hơn 
so với các nhóm khó khăn còn lại còn lại với 
điểm trung bình là 1,43. 
- Khó khăn trong tập trung chú ý 
Chúng tôi tập trung đánh giá ở trẻ khó khăn 
trong chú ý như xem trẻ có biết cách lắng 
nghe người khác nói chuyện không? Khi giao 
tiếp với mọi người xung quanh có nhìn vào đối 
tượng giao tiếp không? Có tập trung vào chỉ 
dẫn của đối tượng giao tiếp không? Có tập 
trung vào nhiệm vụ và lắng nghe được những 
hướng dẫn không? Kết quả đánh giá được thể 
hiện ở bảng 2. 
Bảng 1. Thống kê mô tả kết quả đánh giá khó khăn trong giao tiếp của TPTK 
 Số lượng Cực tiểu Cực đại Trung bình Độ lệch chuẩn 
Tháng tuổi 30 36,00 47,00 40,20 3,39 
Nhóm khó khăn trong tập trung chú ý 30 ,00 8,00 1,97 2,40 
Nhóm khó khăn trong bắt chước 30 ,00 6,00 1,73 1,96 
Nhóm khó khăn trong luân phiên 30 ,00 5,00 1,43 1,48 
Nhóm khó khăn trong nghe hiểu ngôn ngữ 30 ,00 7,00 1,97 1,86 
Nhóm khó khăn trong sử dụng ngôn ngữ 30 ,00 9,00 2,27 2,49 
Hợp lệ 30 
- Khó khăn trong tập trung chú ý 
Chúng tôi tập trung đánh giá ở trẻ khó khăn trong chú ý như xem trẻ có biết cách lắng nghe người 
khác nói chuyện không? Khi giao tiếp với mọi người xung quanh có nhìn vào đối tượng giao tiếp 
không? Có tập trung vào chỉ dẫn của đối tượng giao tiếp không? Có tập trung vào nhiệm vụ và lắng 
nghe được những hướng dẫn không? Kết quả đánh giá được thể hiện ở bảng 3. 
Phạm Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 197(04): 107 - 112 
 Email: jst@tnu.edu.vn 110 
Bảng 2. Bảng phân bố tần suất điểm đánh giá khó 
khăn trong tập trung chú ý 
Điểm Tần số Tỉ lệ phần trăm 
0 9 30,0 
1 3 10,0 
2 5 16,7 
3 5 16,7 
6 3 10,0 
7 3 10,0 
8 1 3,3 
9 1 3,3 
Tổng số 30 100,0 
Kết quả bảng 2 cho thấy, điểm của trẻ tập 
trung trong khoảng từ 0 đến 9 điểm, 1 trẻ đạt 
9 điểm chiếm 3,3%, 9 trẻ đạt 0 điểm chiếm 
30%. Đặc biệt là ở khó khăn khi nhìn vào đồ 
vật trong một thời gian dài thì trẻ đạt điểm rất 
thấp. Trao đổi với chúng tôi, một giáo viên 
chủ nhiệm lớp có hầu hết các TPTK ở mức độ 
nặng cho biết: “Các bạn có khả năng tương 
tác mắt rất kém nên khi giao tiếp với mọi 
người thì hầu như các bạn không nhìn vào 
mắt của người đối diện mình, nếu có trẻ nhìn 
thì là trẻ bị hấp dẫn một chi tiết nào đó ở 
người đối diện, ví dụ như người đó đang có 
thứ trẻ thích, hoặc có một đồ vật bắt mắt trẻ. 
Một số bạn ở nhóm lớn được trải qua thời gian 
can thiệp lâu hơn nên có thể nhìn vào người 
khác khi tương tác nhưng thời gian rất ngắn”. 
Như vậy có thể thấy, cần phải tập trung rèn 
luyện cho TPTK nhóm khó khăn trong tập 
trung chú ý ở mức độ nhìn vào đối tượng giao 
tiếp trước, sau đó kết hợp nhìn và lắng nghe 
lời nói. Nhóm khó khăn trong tập trung chú ý 
của trẻ sẽ được cải thiện nếu giáo viên tăng 
cường sử dụng các kĩ thuật thu hút sự tập 
trung chú ý như sử dụng vật thật, mô hình, đồ 
dùng trực quan sinh động. 
- Khó khăn trong bắt chước 
Để tổng hợp kết quả đo khó khăn trong bắt 
chước của trẻ, chúng tôi đánh giá trẻ thông 
qua các hoạt động hàng ngày ở trường MN 
với các nội dung chính như: Trẻ có biết bắt 
chước hành động/cử chỉ/âm thanh/lời nói của 
người khác không? Có biết bắt chước thể hiện 
cảm xúc vui buồn trên khuôn mặt không? 
Thống kê kết quả mà trẻ đạt được ở nhóm khó 
khăn trong này như sau: 
Bảng 3. Bảng phân bố tần suất điểm đánh giá khó 
khăn trong bắt chước 
Điểm Tần số Tỉ lệ phần trăm 
0 12 40,0 
1 3 10,0 
2 3 10,0 
3 4 13,3 
4 3 10,0 
6 2 6,8 
7 1 3,3 
8 1 3,3 
9 1 3,3 
Tổng số 30 100,0 
Kết quả ở bảng trên cho thấy, điểm của trẻ tập 
trung trong khoảng từ 0 đến 9 điểm, 1 trẻ đạt 
9 điểm chiếm 3,3%, 12 trẻ đạt 0 điểm chiếm 
40%. Trò chuyện với cô V.T.H, cô cho biết 
“Việc yêu cầu trẻ bắt chước điệu bộ của giáo 
viên khi dạy rất khó khăn, trẻ không hiểu 
được những trạng thái cảm xúc, những ngôn 
ngữ cơ thể nên việc bắt chước của trẻ chưa 
được tốt. Hơn nữa trẻ không cảm nhận được 
đúng ý nghĩa của các loại cảm xúc, điệu bộ 
nên việc bộc lộ nó sẽ càng khó khăn hơn. 
Chính vì thế, trong khi tham gia các hoạt 
động, nếu giáo viên sử dụng quá nhiều các cử 
chỉ điệu bộ thì đôi lúc cũng sẽ là rào cản cho 
trẻ”. Các kĩ năng như: Bắt chước lời nói của 
người khác, bắt chước cử chỉ của người khác, 
bắt chước âm thanh của người khác và bắt 
chước hành động của người khác thì tỷ lệ trẻ 
thực hiện được khá cao khi có sự trợ giúp của 
giáo viên thông qua các bước làm mẫu hoặc 
nhắc bằng lời. 
- Khó khăn trong luân phiên 
Để tổng hợp kết quả đo khó khăn trong luân 
phiên của trẻ, chúng tôi trực tiếp kiểm tra trên 
trẻ và quan sát trẻ tham gia hoạt động chơi và 
học tập ở trường mầm non với các nội dung 
chính như: Trẻ có biết đáp ứng yêu cầu của 
người khác không? Có biết chờ đến lượt mình 
khi xếp hàng vào lớp, chơi các trò chơi 
không? Có biết lần lượt sử dụng đồ dùng, đồ 
chơi trong hoạt động không? Thống kê kết 
quả mà trẻ đạt được ở nhóm khó khăn trong 
này như sau: 
Phạm Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 197(04): 107 - 112 
 Email: jst@tnu.edu.vn 111 
Bảng 4. Bảng phân bố tần suất điểm đánh giá khó 
khăn trong luân phiên 
Điểm Tần số Tỷ lệ phần trăm 
0 12 40,0 
1 4 13,3 
2 6 20,0 
3 3 10,0 
4 3 10,0 
5 2 6,7 
Tổng số 30 100,0 
Kết quả ở bảng 4 cho thấy, điểm của trẻ tập 
trung trong khoảng từ 0 đến 5 điểm, 2 trẻ đạt 
5 điểm chiếm 6,7%, 12 trẻ đạt 0 điểm chiếm 
40,0%. Đa số trẻ không đạt điểm ở nhóm này 
có nguyên nhân từ những khó khăn do tập 
trung chú ý kém, bắt chước kém nên trẻ 
không biết cách luân phiên trong quá trình 
giao tiếp. 
- Khó khăn trong nghe hiểu ngôn ngữ 
Chúng tôi tiến hành đánh giá khó khăn trong 
nghe hiểu ngôn ngữ ở TPTK thông qua hoạt 
động kiểm tra trực tiếp, quan sát trẻ giao tiếp 
với mọi người xung quanh với nội dung chính 
như sau: Trẻ có hiểu chỉ dẫn bằng lời kết hợp 
với cử chỉ, hành động không? Có hiểu những 
chỉ dẫn bằng lời nói không? Hiểu được các 
tình huống chơi giả vờ, cử chỉ thể hiện cảm 
xúc không? 
Bảng 5. Bảng phân bố tần xuất điểm đánh giá khó 
khăn trong nghe hiểu ngôn ngữ 
Điểm Tần số Tỷ lệ phần trăm 
0 12 40,0 
1 3 10,0 
2 6 20,0 
3 5 16,7 
4 1 3,3 
5 1 3,3 
8 2 6,7 
Tổng số 30 100,0 
Kết quả ở bảng 5 cho thấy, điểm của trẻ tập 
trung trong khoảng từ 0 đến 8 điểm, 2 trẻ 
đạt 8 điểm chiếm 6,7%, 12 trẻ đạt 0 điểm 
chiếm 40%. 
Ở nhóm khó khăn này với TPTK nghe và hiểu 
được một số mệnh lệnh đơn giản trong quá 
trình giao tiếp với cô giáo và các bạn. Lý do 
đạt được khó khăn trong này là trong quá 
trình giao tiếp giáo viên đã sử dụng giao tiếp 
tổng hợp kết hợp lời nói, cử chỉ, hành động, 
tranh ảnh bổ sung cho nội dung giao tiếp 
được rõ ràng hơn. Bên cạnh đó TPTK có một 
điểm mạnh là khả năng chụp hình rất tốt, trẻ 
nhìn và nhận diện tốt, giúp cho trẻ hiểu nội 
dung giao tiếp đặc biệt là trong các tình 
huống trong sinh hoạt hàng ngày, quen thuộc 
đối với trẻ. Nội dung giao tiếp gắn với sự 
quen thuộc của trẻ thì trẻ thực hiện tốt hơn. 
Đối tượng giao tiếp tạo cho trẻ cảm giác an 
toàn, hứng thú thì trẻ tích cực hơn trong quá 
trình giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp nếu 
trẻ bị sai, không thực hiện được mà được cô 
giáo và các bạn trợ giúp, sửa sai cho trẻ ngay 
thì trẻ càng có hứng thú và hiểu nội dung giao 
tiếp hơn. 
- Khó khăn trong sử dụng ngôn ngữ 
Chúng tôi tiến hành đánh giá khó khăn trong 
sử dụng ngôn ngữ ở TPTK thông qua hoạt 
động kiểm tra trực tiếp, quan sát trẻ giao tiếp 
với mọi người xung quanh với nội dung chính 
như sau: Trẻ có đáp ứng với người lớn bằng 
cách nhìn mặt không? Có sử dụng cử chỉ lời 
nói để chào không? Có đưa được ra các yêu 
cầu không? Có duy trì được giao tiếp không? 
Bảng 6. Bảng phân bố tần xuất điểm đánh giá khó 
khăn trong sử dụng ngôn ngữ 
Điểm Tần số Tỷ lệ phần trăm 
0 10 33,3 
1 7 23,3 
2 2 6,7 
3 2 6,7 
4 1 3,3 
5 3 10,0 
6 2 6,7 
8 1 3,3 
9 2 6,7 
Tổng số 30 100,0 
Kết quả ở bảng 6 cho thấy, điểm của trẻ tập 
trung trong khoảng từ 0 đến 9 điểm, 2 trẻ 
đạt 9 điểm chiếm 6,7%, 10 trẻ đạt 0 điểm 
chiếm 33,3%. 
Ở nhóm khó khăn trong này với TPTK đã biết 
sử dụng ngôn ngữ như là một phương tiện để 
vận dụng vào trong quá trình giao tiếp như: 
Phạm Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 197(04): 107 - 112 
 Email: jst@tnu.edu.vn 112 
lời nói, hành động, cử chỉ, điệu bộ trong các 
tình huống gặp gỡ và chia tay, trả lời câu hỏi, 
thu hút sự chú ý từ người khác. Tuy nhiên kết 
quả trẻ đạt được trên mặt bằng chung còn rất 
thấp. Điều này cho thấy để giúp trẻ có khó 
khăn trong giao tiếp phải giúp trẻ có giải 
quyết được tất cả các khó khăn trong từ sự tập 
trung chú ý đến bắt chước, luân phiên, nghe 
hiểu và sử dụng ngôn ngữ một cách đồng bộ. 
KẾT LUẬN 
Như vậy, kết quả đánh giá khó khăn trong 
giao tiếp của TPTK cho thấy, mức độ phát 
triển chung về giao tiếp của TPTK khá thấp, 
trẻ bộc lộ nhiều khó khăn đặc trưng dựa trên 
25 tiêu chí ở 05 nhóm: Tập trung chú ý, bắt 
chước, luân phiên, nghe hiểu ngôn ngữ và sử 
dụng ngôn ngữ nói. Trong đó nhóm khó khăn 
trong sử dụng ngôn ngữ đạt ở mức độ cao hơn 
so với các nhóm khó khăn khác, còn nhóm 
khó khăn luân phiên đạt ở mức độ thấp hơn so 
với các nhóm khó khăn còn lại. 
Từ kết quả khảo sát thực trạng cho thấy cần 
dạy trẻ một số kỹ năng giao tiếp trong lớp hoà 
nhập [6], đồng thời nghiên cứu nghiêm túc 
các biện pháp can thiệp khó khăn trong giao 
tiếp cho TPTK 3 – 4 tuổi trong lớp học hòa 
nhập ở trường mầm non để từ đó khắc phục 
những khó khăn trong giao tiếp cho TPTK 3 – 
4 tuổi và nâng cao hiệu quả việc tổ chức các 
hoạt động chăm sóc – giáo dục hòa nhập 
TPTK. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Christine Jean-Noel, Giải thích chứng tự kỷ 
cho cha mẹ (Dịch giả: Thăn Thị Mận), Nxb Tri 
thức, Hà Nội, 2014. 
[2]. Hoàng Anh, Giáo trình Tâm lý học giao tiếp, 
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004. 
[3]. Linda Maget, Nâng cao khả năng giao tiếp 
cho trẻ, Nxb Hồng Đức, 2009. 
[4]. Vũ Bích Hạnh, Hướng dẫn thực hành âm ngữ 
trị liệu, Nxb Y học, Hà Nội, 2004. 
[5]. Trung tâm nghiên cứu giáo dục và chăm sóc 
trẻ em, Hỗ trợ kiến thức về chăm sóc và giáo dục 
trẻ mắc hội chứng tự kỉ, Nxb Đại học Sư phạm, 
2011. 
[6]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bài 6: Một số kĩ 
năng dạy trẻ có hành vi tự kỷ trong lớp học hòa 
nhập, Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn 
cảnh khó khăn, 2008. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_kho_khan_trong_giao_tiep_o_tre_pho_tu_ky_3_4_tuoi.pdf