Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm, thảo luận tay đôi

và phương pháp thống kê, so sánh để nghiên cứu thực trạng không tuân

thủ thuế của doanh nghiệp (DN) trong giai đoạn 2013- 2017 trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Các số liệu phản ánh sự không tuân

thủ thuế thể hiện qua những vi phạm pháp luật thuế Việt Nam của DN,

được tổng hợp qua các kỳ thanh tra, kiểm tra thuế của Cục Thuế TP.HCM

và kinh nghiệm về quản lý thuế của cơ quan thuế (CQT). Qua đó, bài viết

đề xuất một số giải pháp về công tác quản lý thuế của CQT; các khuyến

nghị đối với Chính phủ về những quy định trong chính sách thuế cũng như

đối với các cơ quan chức năng về nguồn nhân lực quản lý Nhà nước nhằm

pdf 12 trang yennguyen 5440
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh

Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh
69
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 210- Tháng 11. 2019
Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - 
nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Loan
Nguyễn Việt Hồng Anh
Chi Cục thuế Bình Thạnh TP. HCM
Lê Thị Tuyết Hoa
Ngày nhận: 27/09/2019 Ngày nhận bản sửa: 23/10/2019 Ngày duyệt đăng: 21/11/2019
Bài viết sử dụng kết hợp phương pháp thảo luận nhóm, thảo luận tay đôi 
và phương pháp thống kê, so sánh để nghiên cứu thực trạng không tuân 
thủ thuế của doanh nghiệp (DN) trong giai đoạn 2013- 2017 trên địa bàn 
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Các số liệu phản ánh sự không tuân 
thủ thuế thể hiện qua những vi phạm pháp luật thuế Việt Nam của DN, 
được tổng hợp qua các kỳ thanh tra, kiểm tra thuế của Cục Thuế TP.HCM 
và kinh nghiệm về quản lý thuế của cơ quan thuế (CQT). Qua đó, bài viết 
đề xuất một số giải pháp về công tác quản lý thuế của CQT; các khuyến 
nghị đối với Chính phủ về những quy định trong chính sách thuế cũng như 
đối với các cơ quan chức năng về nguồn nhân lực quản lý Nhà nước nhằm 
The situation of corporate income tax non-compliance: the research in Ho Chi Minh City 
Abstract: The paper used a combination of group discussions, private discussions and statistical and 
comparative methods to study the situation of non-tax compliance of enterprises during the period from 2013 
to 2017. Tax non-compliance was researched as the tax fraud of enterprises, which were detected through tax 
inspections and tax examinations of the Tax Department of Ho Chi Minh City and tax administration experience 
from tax authorities. Thereby, the article has proposed: a number of solutions on tax administration of tax 
authorities; some recommendations for the Government on the provisions of the tax policy as well as to the 
human resources authorities to contribute to limit the situation of non-tax compliance of enterprises in the 
legal Vietnamese tax law’s environment.
Keywords: the situation, tax non-compliance, corporate income tax
Asscociate Professor Loan Thi Nguyen, PhD
Email: loannt@buh.edu.vn
Banking University of Ho Chi Minh City
Anh Viet Hong Nguyen, MEc
Email: nvhanh.hcm@gdt.gov.vn
Sub-department of Taxation of Binh Thanh District, Ho Chi Minh City
Hoa Thi Tuyet Le, PhD
Email: hoaltt@buh.edu.vn
Banking University of Ho Chi Minh City
Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - 
nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201970
góp phần hạn chế thực trạng không tuân thủ thuế của DN trong môi trường 
pháp luật thuế Việt Nam.
Từ khóa: Không tuân thủ thuế, Thuế thu nhập doanh nghiệp
1. Giới thiệu
Thuế xuất hiện đồng thời với nhà nước, 
dưới nhiều hình thức khác nhau. Từ khi 
chính sách thuế ra đời thì nghĩa vụ thuế 
của người nộp thuế được hình thành.
Thuế là một trong những khoản đóng góp 
bắt buộc, có giới hạn phải nộp (Phan Hiển 
Minh và cộng sự, 2001). Tuy nhiên, không 
phải lúc nào người nộp thuế cũng thực 
hiện nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ. 
Theo Noor và cộng sự (2013), Chính phủ 
ngày càng quan tâm nhiều hơn về vấn đề 
trốn thuế, không tuân thủ thuế vì các hoạt 
động này làm giảm nỗ lực tăng thu ngân 
sách của quốc gia.
Tại Việt Nam, Chính phủ luôn quan tâm 
đến việc quản lý thuế của quốc gia, nhất 
là nghĩa vụ thuế của các DN, với số thu 
thuế từ DN chiếm tỷ lệ hơn 50% tổng thu 
Ngân sách Nhà nước (NSNN) (Bộ Tài 
chính, 2016). Bên cạnh đó, theo Báo cáo 
Ngân sách của Bộ Tài chính (2016), trong 
các giai đoạn từ 2001- 2005; 2006- 2010; 
2011- 2015, cơ cấu thu ngân sách theo 
sắc thuế cho thấy tỷ trọng thuế thu nhập 
doanh nghiệp (TNDN) luôn chiếm trên 
30%, cao nhất so với những sắc thuế còn 
lại. Do vậy, có thể thấy DN là đối tượng 
nộp thuế đóng vai trò quan trọng của nền 
kinh tế Việt Nam và thuế TNDN là một 
trong những nguồn thu chủ yếu mà Chính 
phủ rất quan tâm.
Theo thống kê của Bộ Tài chính, kết quả 
kiểm tra trong 9 tháng đầu năm 2016 
với 52.222 DN đã phát hiện và truy thu 
9.145,11 tỷ đồng, tỷ lệ thu ngân sách đối 
với các DN từ việc thanh tra kiểm tra 
chiếm đến 54,16% (Nguyen Vu, 2016). 
Đến cuối năm 2016, theo thống kê, qua 
thanh kiểm tra có đến 91.419 DN bị thanh 
tra kiến nghị thu hồi ngân sách 17.285 
tỷ đồng, truy hoàn thuế 1.400 tỷ đồng, 
giảm khấu trừ thuế là 79 tỷ đồng, hơn nữa 
số thu thuế năm 2016 đạt dự toán Ngân 
sách nhờ vào những nỗ lực của công tác 
thanh tra kiểm tra thuế các DN (Kien and 
Nga, 2017). Năm 2017, CQT các cấp đã 
thực hiện hơn 97.000 cuộc thanh tra kiểm 
tra DN và truy thu 17.960 tỷ đồng, giảm 
lỗ hơn 34.118 tỷ đồng (tính đến ngày 
25/12/2017) (Tạp chí Thuế 2018). Mặc dù 
DN có nghĩa vụ tự khai báo tự nộp thuế 
theo quy định nhưng nếu không có công 
tác thanh tra kiểm tra thuế thì số tiền thất 
thu ngân sách ngày càng nhiều.
Từ những năm 1990, Kamdar (1997) đã 
nghiên cứu tác động của các yếu tố về 
chính sách có ảnh hưởng đến sự không 
tuân thủ thuế tại Mỹ trong giai đoạn 
1961-1987. Nurtegin (2008) tại Mỹ còn 
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến gian 
lận thuế của DN với dữ liệu của 23 quốc 
gia trên thế giới. Noor và cộng sự (2012) 
nghiên cứu về các yếu tố tài chính ảnh 
hưởng đến gian lận thuế thu nhập của DN 
tại Malaysia. Tedds (2010) đã thực hiện 
cuộc điều tra khảo sát để kết luận các yếu 
tố ảnh hưởng đến hành vi không khai báo 
thuế, gian lận thuế của DN tại Canada. Do 
vậy, việc không tuân thủ thuế là một vấn 
đề đã xuất hiện từ lâu kể từ khi nghĩa vụ 
thuế được xác lập và được nhiều nhà khoa 
học trên thế giới nghiên cứu. Hơn nữa, sự 
NGUYỄN THỊ LOAN - NGUYỄN VIỆT HỒNG ANH - LÊ THỊ TUYẾT HOA
Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 71
tăng lên của số thuế truy thu và những vi 
phạm về thuế qua thanh tra, kiểm tra hằng 
năm cho thấy những vi phạm về thuế, trốn 
thuế tại Việt Nam là một thực trạng cần 
được các cơ quan chức năng nghiên cứu 
và tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm 
hạn chế vấn đề này. 
Do thuế TNDN là một trong những sắc 
thuế chiếm tỷ trọng cao trong nguồn thu 
ngân sách nên bài viết tập trung nghiên 
cứu thực trạng không tuân thủ thuế liên 
quan đến nghĩa vụ thuế TNDN thể hiện 
qua các hành vi trốn thuế, gian lận thuế 
phải nộp trái với những quy định về pháp 
luật thuế TNDN tại Việt Nam. Đồng thời, 
bài viết cũng xác định những nguyên nhân 
dẫn đến vi phạm và những hạn chế trong 
quản lý thuế đối với DN. Qua đó, đề xuất 
các giải pháp góp phần ngăn ngừa và hạn 
chế sự không tuân thủ thuế TNDN. 
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp 
nghiên cứu
2.1. Khái niệm không tuân thủ thuế thu 
nhập doanh nghiệp
Theo Nguyễn Minh Hà và cộng sự (2012), 
quan điểm truyền thống của quản lý thuế 
chủ yếu dựa trên giả thuyết rằng hầu hết 
các DN về bản chất là không tự nguyện 
tuân thủ và chỉ chấp hành nghĩa vụ khi 
có sự cưỡng chế của CQT hay khi bị tác 
động bởi lợi ích kinh tế. Khái niệm không 
tuân thủ thuế mà mô hình của BISEP 
(Organization for Economic Cooperation 
and Development, 2004) đưa ra phụ thuộc 
vào mức độ của chi phí tuân thủ và áp lực.
Theo tổng hợp của Alabede và cộng sự 
(2011), không tuân thủ thuế xuất hiện 
dưới nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên, 
kết quả của việc không tuân thủ thuế là 
dẫn đến những vi phạm pháp luật về thuế, 
trong đó bao gồm hành vi gian lận thuế. 
Theo James và Alley (2002), không tuân 
thủ thuế là việc người nộp thuế đã không 
chấp hành các nghĩa vụ thuế và hành vi đó 
được thực hiện một cách có ý thức hoặc 
vô thức. Theo Singh (2003), không tuân 
thủ thuế ở DN xảy ra khi xuất hiện các vi 
phạm về Luật Thuế như không báo cáo 
chính xác nghĩa vụ thuế theo quy định 
chủ yếu do khai thiếu doanh thu hoặc khai 
khống chi phí được trừ. Những DN không 
khai báo đúng hai yếu tố thu nhập và chi 
phí hoặc không thực hiện nghĩa vụ nộp 
thuế đều được hiểu là không tuân thủ thuế 
TNDN (Tan & Sawyer, 2003). Các biểu 
hiện không phù hợp về số liệu trên báo cáo 
tài chính (BCTC) sẽ dẫn đến sự không phù 
hợp của các báo cáo thuế- đây là một trong 
những biểu hiện của sự không tuân thủ thuế 
của DN (Frank và cộng sự, 2004). Theo 
Văn phòng Chính phủ Hoa Kỳ (United 
States Government Accountability Office, 
2012), sự không tuân thủ thuế TNDN là các 
hành vi khai báo thu nhập ít hơn hoặc kê 
khai chi phí cao hơn so với thực tế, vi phạm 
những quy định của Luật Thuế.
Theo quy định tại Điều 103 Luật Quản lý 
thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 
của Việt Nam, những hành vi vi phạm 
pháp luật về thuế của người nộp thuế bao 
gồm: (1) Vi phạm các thủ tục về thuế; (2) 
Chậm nộp tiền thuế; (3) Khai báo nộp thuế 
sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp 
hoặc tăng số tiền thuế được hoàn lại; (4) 
Trốn thuế, gian lận thuế. Tuy nhiên, khá 
nhiều công trình khoa học đã nghiên cứu 
về không tuân thủ thuế của DN là việc 
khai báo sai thu nhập liên quan đến thông 
tin phản ánh nghĩa vụ thuế TNDN không 
đúng quy định vì đó là nghĩa vụ thuế đầu 
tiên và cơ bản nhất của các DN hoạt động 
trong nền kinh tế. 
Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - 
nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201972
Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, 
về thực trạng không tuân thủ thuế TNDN 
bao gồm việc không khai báo đúng nghĩa 
vụ thuế TNDN, làm giảm số thuế phải nộp 
đối với Nhà nước. Đó là những vi phạm 
của DN về pháp luật thuế Việt Nam trong 
việc khai thuế cho cơ quan quản lý thuế.
2.2. Lý thuyết nghiên cứu không tuân 
thủ thuế
2.2.1. Lý thuyết mô hình ngăn chặn kinh tế 
(Economic Deterrence Model)
Becker (1968) đề xuất một luận cứ hẹp 
rằng các biện pháp ngăn chặn như xác suất 
phát hiện xử phạt và những hình phạt có 
ảnh hưởng đến sự tuân thủ. Đến những 
năm 1970, dựa trên “Thuyết hữu dụng”, 
Allingham và Sandmo (1972) cho rằng 
người nộp thuế sẽ tìm cách tối ưu hóa lợi 
ích của họ để thực hiện các quyết định tuân 
thủ trong các báo cáo thuế, nơi mà việc trốn 
thuế xuất hiện nếu như các lợi ích về mặt 
tài chính thấp hơn các chi phí tài chính. Từ 
những năm 1980, mô hình ngăn chặn kinh 
tế đã xuất hiện nhiều phiên bản, trong đó 
sửa đổi một số giả định cơ bản và kiểm tra 
các biến tuân thủ khác nhau. Nhìn chung, 
theo quan điểm nghiên cứu của mô hình 
ngăn chặn kinh tế, các nhà khoa học đã tóm 
tắt hiệu quả của những yếu tố quyết định 
chi phí tài chính có ảnh hưởng đến sự tuân 
thủ thuế như: Sự phức tạp của hệ thống 
thuế; thuế suất; xác suất phát hiện vi phạm; 
mức thu nhập và cấu trúc hình phạt. Tuy 
nhiên, ít bằng chứng thực nghiệm chứng 
minh được những dự đoán của mô hình 
ngăn chặn kinh tế là hoàn toàn đúng đắn 
(Devos 2014). Tiếp nối hướng nghiên cứu 
trong lĩnh vực tuân thủ thuế, một phương 
pháp tiếp cận khác mô hình ngăn chặn kinh 
tế đã xuất hiện là mô hình tâm lý xã hội và 
tài chính.
2.2.2. Lý thuyết mô hình tâm lý xã hội và 
tài chính (Fiscal and Social Psychology 
Models)
Hướng tiếp cận của mô hình tâm lý xã hội 
và tài chính là kiểm tra các yếu tố của con 
người ảnh hưởng đến thái độ và hành vi 
tuân thủ thuế (Devos, 2014). Một trong 
những nghiên cứu sớm nhất về trốn thuế 
đã khám phá ra khái niệm “tư duy thuế” 
được trình bày bởi Schmolders (1959). Do 
đó, nếu người nộp thuế càng có thái độ 
tích cực về thuế cũng như cách làm việc 
với CQT, họ càng sẵn sàng đóng thuế. 
Kinsey (1986) diễn giải khái niệm “sẵn 
sàng hợp tác” có liên quan đến sự tuân 
thủ, trong đó những người nộp thuế rất 
hợp tác với CQT, có thể sẽ tuân thủ nhiều 
hơn những người không hợp tác. Trong 
suốt những năm 1990 và đầu những năm 
2000, các biến số khác xuất hiện trong các 
mô hình tâm lý xã hội và tài chính cũng 
không có trong mô hình ngăn chặn kinh tế 
thuần túy (Devos, 2014). Như vậy, trong 
suốt nhiều năm nghiên cứu, nền tảng lý 
thuyết về tuân thủ thuế đã xuất hiện như 
mô hình ngăn chặn kinh tế và mô hình tâm 
lý xã hội và tài chính. Tuy nhiên, các kết 
luận của những nhà nghiên cứu vẫn còn 
nhiều tranh cãi.
2.2.3. Lý thuyết Tam giác gian lận của 
Cressey (1953)
Theo Alabede và cộng sự (2011), không 
tuân thủ thuế bao gồm khái niệm gian 
lận thuế nên lý thuyết hành vi gian lận 
được đề cập để phân tích nhằm tìm ra 
khung nghiên cứu cho bài viết. Kết quả 
của Cressey (1953) đã đưa ra mô hình 
tam giác gian lận (Fraud Triangle) với nội 
dung: Hành vi gian lận hay tổng quát hơn 
là tội phạm hoặc những vi phạm pháp luật 
chỉ được thực hiện trên cơ sở hội đủ 3 yếu 
NGUYỄN THỊ LOAN - NGUYỄN VIỆT HỒNG ANH - LÊ THỊ TUYẾT HOA
Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 73
tố. Đó là cơ hội, áp lực (động cơ) và thái 
độ, cá tính hay sự hợp lý hóa hành vi gian 
lận của con người. Cụ thể là:
+ Áp lực (động cơ): Khởi nguồn của việc 
thực hiện vi phạm pháp luật là do người thực 
hiện chịu những áp lực. Các áp lực có thể do 
những khó khăn về tài chính, ví dụ như hao 
hụt về tiền bạc trong cuộc sống mà cá nhân 
phải vượt qua; hoặc mối quan hệ không suôn 
sẻ giữa người chủ và nhân viên. Theo lý giải 
của mô hình tam giác gian lận, khi áp lực 
tăng thì gian lận xuất hiện.
+ Cơ hội: Yếu tố này còn thể hiện phương 
thức thực hiện hành vi vi phạm. Một khi 
đã tồn tại những áp lực thúc đẩy như đã đề 
cập, nếu có cơ hội thì hành vi gian lận sẽ 
được thực hiện.
+ Thái độ của con người hay khả năng 
hợp lý hóa hành vi gian lận của con người: 
Cressey (1953) cho thấy rằng, tùy theo cá 
tính của mỗi người mà hành vi gian lận 
có được thực hiện hay không. Có những 
người khi có cơ hội và chịu áp lực họ sẽ 
thực hiện hành vi gian lận với lý lẽ tự an 
ủi rằng họ sẽ không để chuyện này lặp 
lại. Tam giác gian lận của Cressey (1953) 
được dùng để lý giải rất nhiều vụ gian lận 
hoặc vi phạm các quy định của luật pháp 
và được áp dụng trong việc nghiên cứu, 
đánh giá rủi ro có gian lận phát sinh trong 
nhiều lĩnh vực nghề nghiệp.
Không tuân thủ thuế thể hiện qua những 
vi phạm pháp luật về thuế dẫn đến thất thu 
thuế, gian lận thuế theo lý thuyết Tam giác 
gian lận của Cressey (1953) đã được sử 
dụng khá phổ biến để nghiên cứu những 
yếu tố tác động đến các vi phạm pháp luật 
trước đây cả trong nước và trên thế giới 
ở lĩnh vực kinh tế tài chính. Vì vậy, lý 
thuyết Tam giác gian lận (Cressey, 1953) 
sẽ được nhóm tác giả sử dụng làm cơ sở 
phân tích thực trạng không tuân thủ thuế 
TNDN trong môi trường pháp luật thuế 
Việt Nam với ý nghĩa rằng: Nguyên nhân 
dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật là sự 
xuất hiện áp lực và cơ hội thực hiện cũng 
như thái độ tuân thủ pháp luật của người 
nộp thuế thấp.
2.3. Tổng quan các nghiên cứu 
Các nghiên cứu trên thế giới như: Chương 
trình tài chính công của Chính phủ Đức 
(GIZ Sector Programme Public Finance, 
2010), Abdixhiku (2013), Sapiei và cộng 
sự (2014), Awan và Hannan (2014), 
Yahyapour và cộng sự (2015) đã phân tích 
các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận 
thuế. Những yếu tố đưa ra trong mô hình 
đóng vai trò là nguyên nhân dẫn đến trốn 
thuế. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu đã 
tìm ra mối liên hệ giữa không tuân thủ 
thuế và các t ... in 
gì mới thì sẽ ngừng lại. Mẫu được chọn 
riêng biệt ở 2 giai đoạn nghiên cứu với 
những tiêu chí như sau: 
Thảo luận nhóm: Được tiến hành với đối 
tượng là các chuyên gia trong lĩnh vực 
quản lý thuế, có kinh nghiệm làm công 
tác thanh tra, kiểm tra từ 5 năm trở lên 
với mong muốn nhận được những ý kiến 
đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng dẫn đến 
khai báo thuế TNDN không đúng quy định 
pháp luật.
Thảo luận tay đôi: Được tiến hành với 
đại diện các DN (giám đốc, chủ DN hoặc 
kế toán trưởng) đã được CQT thanh tra, 
kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế 
trong quá trình kê khai nghĩa vụ TNDN. 
Họ có kinh nghiệm trong việc giải trình 
NGUYỄN THỊ LOAN - NGUYỄN VIỆT HỒNG ANH - LÊ THỊ TUYẾT HOA
Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 75
với CQT về những vi phạm, các yếu tố 
ảnh hưởng đến việc thực hiện vi phạm thể 
hiện qua kết quả kiểm tra ghi nhận trong 
hồ sơ của CQT.
Thông tin dùng để khai thác cho quá trình 
chọn mẫu nghiên cứu là: (1) Những vi 
phạm pháp luật thuế TNDN dẫn đến làm 
giảm nghĩa vụ thuế TNDN phải nộp; (2) 
Nguyên nhân dẫn đến sự không tuân thủ 
thuế TNDN; (3) Những hạn chế trong công 
tác quản lý thuế đối với DN. Trong đó, 
nguyên nhân dẫn đến sự không tuân thủ 
thuế được bài viết khai thác trên cơ sở lý 
thuyết Tam giác gian lận (Cressey, 1953) 
đã được phân tích và kế thừa từ các nghiên 
cứu trước. Quy trình chọn mẫu được thực 
hiện riêng biệt bằng phương pháp chọn 
Hình 1. Chọn mẫu lý thuyết ở giai đoạn thảo luận nhóm
Nguồn: Kết quả chọn mẫu của phương pháp thảo luận nhóm
Hình 2. Chọn mẫu lý thuyết ở giai đoạn thảo luận tay đôi
Nguồn: Kết quả chọn mẫu của phương pháp thảo luận tay đôi
Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - 
nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201976
mẫu lý thuyết ở cả 2 giai đoạn thảo luận, 
được minh họa như Hình 1 và Hình 2.
Đối với giai đoạn thảo luận nhóm: Nhóm 
tác giả chọn ngẫu nhiên đối tượng thứ 
nhất S1 để thảo luận. Thông qua thảo luận, 
chúng tôi nhận thấy có 4 hành vi vi phạm 
về thuế ở DN được đề cập; 4 nguyên nhân 
dẫn đến sự không tuân thủ thuế của DN và 
4 hạn chế trong công tác quản lý của CQT 
hiện nay. Tiếp theo, nhóm nghiên cứu tiếp 
tục thảo luận nhóm với 3 đối tượng kế tiếp 
S2-S4 để thu thập dữ liệu và bổ sung thêm 
1 hành vi vi phạm về thuế TNDN ở DN; 4 
nguyên nhân và 2 hạn chế trong công tác 
quản lý thuế ngoài những nội dung mà đối 
tượng thứ nhất đã cung cấp. Vì vậy, nhóm 
tác giả tiếp tục thảo luận nhóm với các 
đối tượng tiếp theo để phát hiện ra những 
yếu tố mới có tác động đến không tuân thủ 
thuế của DN (theo minh họa ở Hình 1). 
Nhóm tác giả cứ thế tiếp tục cho đến đối 
tượng S14, chúng tôi nhận thấy không còn 
thông tin gì mới nữa để tiếp tục. Vì vậy, 
S14 được xem là điểm bão hòa. Để khẳng 
định điểm bão hòa, nhóm nghiên cứu tiếp 
tục thảo luận với 1 đối tượng tiếp theo 
S15. Kết quả cho thấy không có phát hiện 
thêm yếu tố mới. Do đó, mẫu nghiên cứu 
trong giai đoạn 1 là n=15 với 11 hành vi 
vi phạm về thuế TNDN được đúc kết; 12 
nguyên nhân dẫn đến không tuân thủ thuế 
TNDN và 10 điểm hạn chế trong công tác 
quản lý thuế đối với DN hiện nay 
được phát hiện qua nghiên cứu. 
Số lượng mẫu nghiên cứu được 
phân loại theo vị trí công tác được 
minh họa trong Hình 3.
Theo Hình 3, đối tượng tham gia 
thảo luận nhóm là những người 
làm công tác quản lý và trực tiếp 
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, 
thanh tra nghĩa vụ chấp hành 
pháp luật thuế của doanh nghiệp. (1) Ban 
lãnh đạo bao gồm những người lãnh đạo 
Cục thuế, Chi cục Thuế. Họ là những 
người đứng đầu, nắm quyền về quản lý, 
chịu trách nhiệm điều hành và tham mưu 
cho Chính phủ về công tác quản lý thuế 
của quốc gia; (2) Trưởng phòng Thanh tra 
và (3) Đội trưởng Đội kiểm tra là những 
người điều hành các đoàn thanh tra, kiểm 
tra nghĩa vụ chấp hành pháp luật thuế 
của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm tham 
mưu cho Ban lãnh đạo; (4) Thanh tra viên 
và (6) Kiểm tra viên là những người trực 
tiếp thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra 
việc chấp hành pháp luật thuế của doanh 
nghiệp, họ có những kinh nghiệm thực 
tế liên quan đến vấn đề tuân thủ thuế của 
doanh nghiệp. Tất cả các đối tượng được 
mời tham gia thảo luận nhóm ở những vị 
trí công tác khác nhau sẽ cung cấp thông 
tin phản ánh thực trạng một cách đầy đủ 
hơn về nội dung nghiên cứu.
Đối với giai đoạn thảo luận tay đôi: Quy 
trình chọn mẫu được thực hiện tương tự 
như giai đoạn trước, tuy nhiên từng lần 
thảo luận chỉ được thực hiện giữa nhóm 
nghiên cứu và 1 đối tượng nghiên cứu. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy mẫu nghiên 
cứu giai đoạn này là n= 20, điểm bão hòa 
là S20 (Hình 2). Qua nghiên cứu 20 tình 
huống, nhóm tác giả đúc kết có tất cả 11 
hành vi vi phạm về thuế TNDN đã được 
Hình 3. Phân loại đối tượng thảo luận nhóm
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm
NGUYỄN THỊ LOAN - NGUYỄN VIỆT HỒNG ANH - LÊ THỊ TUYẾT HOA
Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 77
phát hiện; 11 nguyên nhân dẫn đến không 
tuân thủ thuế TNDN. Các doanh nghiệp 
trong mẫu nghiên cứu thuộc các ngành 
nghề khác nhau, được phân loại theo mã 
ngành cấp 1 theo Quyết định số 10/2007/
QĐ-TTg ngày 23/01/2007 của Thủ tướng 
Chính phủ, trên thông tin đăng ký kinh 
doanh của doanh nghiệp.
Hình 4 phân loại các doanh nghiệp trong 
mẫu nghiên cứu được chọn theo quy trình 
chọn mẫu lý thuyết đã nêu theo các mã 
ngành nghề kinh doanh chính. Kết quả cho 
thấy các doanh nghiệp tham gia vào nghiên 
cứu thuộc 5 lĩnh vực kinh doanh chính: C- 
Công nghiệp chế biến, chế tạo; H- Vận tải 
kho bãi; I- Dịch vụ lưu trú và ăn uống; G- 
Bán buôn và bán lẻ; xây dựng.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thực trạng không tuân thủ thuế 
TNDN qua các số liệu thống kê
Theo thống kê tại Bảng 1 dưới đây, tỷ 
trọng khoản thu từ DN trong nước tại 
Việt Nam rất cao, luôn chiếm trên 65% 
tổng nguồn thu nội địa. Bên cạnh đó, nếu 
so sánh với tổng thu NSNN thì số thu từ 
các DN nội địa cũng chiếm tỷ lệ khá lớn, 
từ 30% đến hơn 50%. Điều này chứng tỏ 
nghĩa vụ thuế của DN trong nước đóng vai 
trò rất quan trọng đối với ngân sách quốc 
gia. Xu hướng biến động tỷ trọng số thu 
từ DN trong nước trên tổng thu ngân sách 
có xu hướng giảm từ năm 2013 đến năm 
2017. Trong khi đó tỷ trọng số thu từ DN 
trong nước trong tổng thu nội địa có xu 
Hình 4. Phân loại các doanh nghiệp tham gia thảo luận tay đôi theo ngành nghề 
kinh doanh chính
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả thảo luận tay đôi
Bảng 1. Thống kê cơ cấu nguồn thu NSNN tại Việt Nam
ĐVT: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Thu từ DN trong nước 405.773 403.454 482.847 558.807 681.918
Thu nội địa từ SXKD 513.090 539.000 638.600 846.230 990.280
Tổng thu NSNN 1.084.064 782.700 911.100 1.093.631 1.280.755
Tỷ trọng số thu từ DN trong nước /
tổng thu nội địa (%) 79,08 74,85 75,61 66,03 68,86
Tỷ trọng số thu từ DN trong nước /
tổng thu NSNN (%) 37,43 51,55 53,00 51,10 53,24
Nguồn: Tổng hợp từ Website Bộ Tài chính tại www.mof.gov.vn
Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - 
nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201978
hướng tăng nhưng lại giảm đáng kể ở năm 
2016 trước khi tăng nhẹ lại ở năm 2017.
Bên cạnh đó, theo số liệu báo cáo NSNN 
của Bộ Tài chính từ năm 2013- 2017, tỷ 
trọng số thu theo các sắc thuế được thể 
hiện trong Hình 5.
Hình 5 minh họa tỷ trọng số thu theo các 
sắc thuế trong tổng thu ngân sách cả nước 
cho thấy, trong khoảng thời gian từ năm 
2013- 2017 tỷ trọng thu thuế TNDN có 
khuynh hướng giảm rõ nét ở năm 2017 
so với các năm trước trong khi xu hướng 
của các sắc thuế khác tăng nhẹ mặc dù có 
nhiều biến động trong giai đoạn nghiên 
cứu. Số liệu thống kê Hình 5 phản ánh 
thực tế số tiền thuế TNDN đã nộp vào 
NSNN, bao gồm số thuế TNDN tự kê 
khai, tự nộp và cả số thuế TNDN mà CQT 
phát hiện qua thanh tra kiểm tra đã được 
nộp. Do đó, một trong các nguyên nhân 
dẫn đến tỷ lệ này thấp là mức độ tuân thủ 
thuế TNDN tại Việt Nam đang có dấu 
hiệu ngày càng có rủi ro cao về thuế, cần 
phải được các cơ quan chức năng chú 
trọng nhiều hơn. Riêng thực trạng thu thuế 
theo số liệu báo cáo tại Thành phố Hồ Chí 
Minh được trình bày chi tiết trong Bảng 2.
Cũng giống như xu hướng chung của cả 
nước, tỷ trọng thu thuế TNDN giảm dần 
trong giai đoạn 2013- 2017. Qua các con 
số thống kê thực trạng nguồn thu ngân 
sách và việc phân loại số thu theo các sắc 
thuế, có thể thấy sự không tuân thủ thuế 
TNDN tại Việt Nam nói chung cũng như 
TP. HCM nói riêng rất đáng được quan 
tâm và cần có những biện pháp tập trung 
khai thác nguồn thu.
Nguồn: Báo cáo quyết toán NSNN- Bộ Tài chính
Hình 5. Biến động của tỷ trọng số thu các sắc thuế trong tổng thu NSNN 
tại Việt Nam
ĐVT: %
Bảng 2. Doanh số thu theo sắc thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chỉ tiêu
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Số 
tiền (tỷ 
đồng)
Tỷ 
trọng 
(%)
Số 
tiền (tỷ 
đồng)
Tỷ 
trọng 
(%)
Số 
tiền (tỷ 
đồng)
Tỷ 
trọng 
(%)
Số 
tiền (tỷ 
đồng)
Tỷ 
trọng 
(%)
Số 
tiền (tỷ 
đồng)
Tỷ 
trọng 
(%)
Thuế GTGT 30.949 39,99 34.874 41,60 40.532 44,06 43.775 39,91 52.494 42,11
Thuế TNDN 32.488 41,97 34.652 41,33 34.999 38,05 37.799 34,46 41.836 33,56
Thuế TNCN 13.964 18,04 14.313 17,07 16.458 17,89 28.104 25,62 30.330 24,33
Cộng 77.401 100 83.839 100 91.989 100 109.678 100 124.660 100
Nguồn: Báo cáo thu NSNN- Kho bạc Nhà nước TP. Hồ Chí Minh
NGUYỄN THỊ LOAN - NGUYỄN VIỆT HỒNG ANH - LÊ THỊ TUYẾT HOA
Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 79
Bảng 3 trình bày kết quả số thu thuế và phạt 
qua các hành vi vi phạm pháp luật thuế của 
DN đã được CQT tại TP.HCM phát hiện 
trong 5 năm 2013- 2017.
Các hành vi vi phạm về thuế được Cục 
thuế TP.HCM thống kê qua thực tế thanh 
tra, kiểm tra tại các DN ở Bảng 3 chủ yếu 
tập trung ở các vi phạm về hóa đơn, kê 
khai doanh thu và chi phí không đúng quy 
Bảng 3. Kết quả xử lý về các hành vi vi phạm pháp luật thuế qua thanh tra, kiểm tra DN 
tại TP. HCM
ĐVT: triệu đồng
Hành vi vi phạm Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Gian lận sử dụng hóa đơn 42.557 45.884 48.541 50.448 58.403 
Khai tăng chi phí đầu vào 32.975 25.003 50.664 54.458 61.560 
Che giấu doanh thu 7.816 4.126 6.479 24.682 26.917 
Vi phạm hành chính về kế toán 1.296 1.550 1.865 2.024 2.197 
Nguồn: Báo cáo của Cục thuế TP. Hồ Chí Minh
Bảng 4. Tổng hợp các hành vi vi phạm trong mẫu nghiên cứu
TT Biểu hiện của vi phạm
Số lượng chuyên gia đưa 
ra ý kiến
15 chuyên gia 
thuộc CQT
Đại diện 
của 20 DN
Nhóm hành vi liên quan đến doanh thu tính thuế
1
Kê khai thiếu doanh thu (Bán hàng không xuất hóa đơn, để 
ngoài sổ sách kế toán doanh thu tính thuế, thông đồng giữa 
bên mua và bên bán qua các hợp đồng kinh tế)
15 7
2 Hạch toán giá bán không theo giá thị trường 13 6
3 Không ghi nhận doanh thu tài chính, chuyển nhượng vốn 11 3
Nhóm hành vi liên quan đến chi phí tính thuế TNDN
4 Bán hàng thấp hơn giá vốn 9 6
5 Hạch toán chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn kho không đúng quy định 10 6
6 Hợp thức hóa chi phí không có hóa đơn bằng các chứng từ không liên quan hoạt động SXKD 15 20
7 Hạch toán tiền lương nhưng thực tế không chi (tạo hợp đồng lao động giả mạo) 13 9
8 Trích khấu hao không đúng quy định (vượt mức khống chế, tài sản khấu hao đã hết giá trị, tài sản không phục vụ SXKD) 9 5
9 Hạch toán chi phí lãi vay không phục vụ SXKD (khai khống chi phí lãi vay cá nhân, lãi vay để góp vốn điều lệ) 11 8
Nhóm hành vi liên quan đến số lỗ năm trước chuyển sang
10 Xác định số lỗ năm trước chuyển sang không đúng quy định 7 4
11 Xác định sai thời gian chuyển lỗ 6 3
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả thảo luận nhóm với 15 chuyên gia từ CQT và thảo luận tay đôi với 20 DN
Thực trạng không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp - 
nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201980
định. Số thu của từng hành vi có mức tăng 
đáng kể qua các năm chứng tỏ thực trạng 
thu thuế tại TP.HCM hiện nay còn nhiều 
khó khăn và Cục thuế rất cần phải thực 
hiện những biện pháp hạn chế không tuân 
thủ thuế của DN.
Hình 6 cho thấy số truy thu và phạt về thuế 
TNDN qua thanh tra kiểm tra thuế ở các 
năm tăng lên đáng kể. Năm 2017, số truy 
thu và phạt về thuế TNDN đã gần đạt gấp 
đôi những con số phát sinh các năm 2013 
và 2014. Điều này cho thấy, các vi phạm về 
thuế TNDN ngày càng tăng qua các năm 
và nếu như không có công tác thanh tra, 
kiểm tra thuế thì tỷ lệ thất thu ngân sách về 
thuế TNDN tăng lên đáng kể. Hay nói cách 
khác, sự không tuân thủ thuế của DN về 
nghĩa vụ thuế TNDN ngày càng phổ biến 
hơn, ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống 
quản lý thu ngân sách của địa phương nói 
riêng và của cả nước nói chung.
3.2. Thực trạng không tuân thủ thuế 
từ kinh nghiệm Cơ quan Thuế và nhận 
định của doanh nghiệp
Kết quả nghiên cứu về các vi phạm không 
tuân thủ thuế TNDN
Các thành viên trong nhóm thảo luận và 
các tình huống nghiên cứu thảo luận tay 
đôi đều cho thấy tồn tại 3 nhóm hành vi 
chính về không tuân thủ thuế TNDN làm 
giảm số thuế TNDN phải nộp theo quy 
định của Luật thuế TNDN Việt Nam:
- Nhóm hành vi liên quan đến doanh thu 
tính thuế TNDN.
- Nhóm hành vi liên quan đến chi phí tính 
thuế TNDN.
- Nhóm hành vi liên quan đến số lỗ năm 
trước chuyển sang.
Kết quả nghiên cứu ở 2 giai đoạn đều cho 
thấy trong 3 nhóm hành vi nêu trên có tất 
cả 11 vi phạm cụ thể về thuế TNDN, được 
tổng hợp ở Bảng 4.
Theo Bảng 4, kê khai thiếu doanh thu là vi 
phạm xuất hiện nhiều nhất ở nhóm hành 
vi vi phạm về thuế TNDN, được tất cả 15 
chuyên gia tham gia thảo luận nhóm đồng 
tình và xảy ra ở 7/20 trường hợp DN đã 
được thanh tra, kiểm tra thuế (chiếm tỷ 
trọng 35% mẫu nghiên cứu). Hành vi hợp 
thức hóa chi phí không có hóa đơn bằng 
các chứng từ không liên quan hoạt động 
sản xuất kinh doanh (SXKD) là vi phạm 
xuất hiện phổ biến nhất, xảy ra ở tất cả các 
tình huống nghiên cứu, tại 20/20 DN (đạt 
tỷ lệ 100%) và được 15/15 chuyên gia nhận 
định. Bên cạnh đó, việc tăng chi phí tiền 
lương không có thực bằng nhiều cách thức 
như tạo hợp đồng lao động giả mạo, hạch 
toán chi phí lương cao hơn thực tế là hành 
vi dẫn đến không tuân thủ thuế TNDN phổ 
biến không kém, xảy ra ở 9/20 tình huống 
thảo luận với DN (chiếm tỷ trọng 45%) và 
nhận được sự đồng tình của 13/15 chuyên 
gia thảo luận. Nhóm hành vi liên quan đến 
số lỗ năm trước chuyển sang bao gồm 02 
hành vi chính là xác định lỗ chuyển sang và 
xác định thời gian chuyển lỗ không đúng 
quy định. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu ở 2 
giai đoạn cho thấy các hành vi vi phạm xuất 
hiện chủ yếu ở các DN có mã ngành cấp 1 
là: F, I, G, C, H. Trong đó, 2 lĩnh vực kinh 
doanh được nhận định là có nhiều hành vi 
vi phạm không tuân thủ thuế TNDN nhiều 
nhất là xây dựng (mã ngành F); dịch vụ lưu 
trú và ăn uống (mã ngành I).
Nguyên nhân dẫn đến những vi phạm 
không tuân thủ thuế TNDN
Các ý kiến thảo luận nhóm và thảo luận 
tay đôi từ phía CQT và DN được tổng hợp 
bên dưới (Bảng 5).
còn nữa (xem tiếp số sau)

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_khong_tuan_thu_thue_thu_nhap_doanh_nghiep_nghien.pdf