Thực trạng trầm cảm ở học sinh Trung học Phổ thông: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội

Abstract: The article addresses the current situation of depression in high school students. The

research is conducted on 708 students at 6 high schools in two provinces Ninh Binh and Hanoi.

The results have showed that about 20% of students showed depression at different levels. Most

of students who showed depression are at mild depression, the rate of severe depression is only

about 1% of the total number of participants. The students at mild depression still need to have

psychological support and counseling for them to be more balanced.

pdf 6 trang yennguyen 10120
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng trầm cảm ở học sinh Trung học Phổ thông: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng trầm cảm ở học sinh Trung học Phổ thông: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội

Thực trạng trầm cảm ở học sinh Trung học Phổ thông: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 
146 
THỰC TRẠNG TRẦM CẢM Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG: 
NGHIÊN CỨU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH VÀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI 
Trần Thị Mỵ Lương - Học viện Phụ nữ Việt Nam 
Phan Diệu Mai - Nghiên cứu sinh K33, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Ngày nhận bài: 11/03/2019; ngày sửa chữa: 15/04/2019: ngày duyệt đăng: 26/04/2019. 
Abstract: The article addresses the current situation of depression in high school students. The 
research is conducted on 708 students at 6 high schools in two provinces Ninh Binh and Hanoi. 
The results have showed that about 20% of students showed depression at different levels. Most 
of students who showed depression are at mild depression, the rate of severe depression is only 
about 1% of the total number of participants. The students at mild depression still need to have 
psychological support and counseling for them to be more balanced. 
Keywords: Depression, high school student, depression in high school student. 
1. Mở đầu 
Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ 
biến nhất trong các loại bệnh về sức khỏe tâm thần. Theo 
Tổ chức Y tế Thế giới, trên thế giới có khoảng 200 triệu 
người, (chiếm gần 5,0% dân số), có các triệu chứng trầm 
cảm điển hình. Riêng ở Việt Nam, tỉ lệ người bị trầm cảm 
là 2,8%. Hơn một nửa bệnh nhân trầm cảm nhập viện bị 
tái diễn ít nhất 1-2 lần mỗi năm; nếu không được điều trị, 
số lần xuất hiện của bệnh cũng như độ nặng của các triệu 
chứng có khuynh hướng tăng dần theo thời gian. Tỉ lệ tự 
sát nghiêm trọng: trầm cảm chiếm 2/3 số trường hợp chết 
do tự sát. Chi phí chăm sóc trầm cảm rất lớn và ngày càng 
tăng. Về gánh nặng bệnh, trầm cảm xếp hàng thứ 5 ở nữ 
và 7 ở nam (World Bank, 1990); lo âu và trầm cảm xếp 
thứ nhất ở cả nam và nữ trưởng thành trên thế giới từ 15-
34 tuổi (WHO, 2012). Trầm cảm sẽ trở thành nguyên 
nhân gây mất sức lao động đứng hàng thứ 2 trên thế giới 
vào năm 2020 [1]. Trầm cảm ở mức độ nặng hay nhẹ đều 
có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của cá nhân, 
ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng và xã hội. Các nhà 
tâm lí học cho rằng, phát hiện các dấu hiệu trong giai 
đoạn sớm thì hiệu quả điều trị có thể sẽ cao hơn, đỡ tốn 
kém chi phí hơn. 
Lứa tuổi thanh thiếu niên là một giai đoạn phát triển 
chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn: tuổi không còn là 
trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Đây là giai 
đoạn phát triển đặc biệt với một loạt những thay đổi về 
thể chất, tâm lí và sự thay đổi về các quan hệ xã hội, nhằm 
đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của lứa tuổi. Đây cũng là 
giai đoạn dễ nảy sinh nhiều rối nhiễu tâm lí nhất so với 
các lứa tuổi khác. Các nghiên cứu của Offers, năm 1991 
và 1995 [2] đã chỉ ra rằng có khoảng 20% trẻ ở độ tuổi 
này có khó khăn (khủng hoảng) trong sự phát triển. Học 
sinh (HS) trung học phổ thông (THPT) có thể gặp những 
khó khăn tâm lí về hình ảnh thân thể không được như 
mong muốn, tự đánh giá mình không như mục tiêu đề ra, 
hay tự đánh giá mình mâu thuẫn với đánh giá của người 
lớn, người có uy tín. Các em cũng có thể gặp áp lực học 
tập lớn với những kì thi cử quan trọng, đặc biệt là với HS 
lớp 12. Có nhiều HS THPT gặp khó khăn khi kết bạn, có 
em không có bạn hoặc rất ít bạn, bị bạn bè cô lập, xa lánh. 
Có em lại gặp khó khăn trong quan hệ với bố mẹ, cảm 
thấy bố mẹ không quan tâm hay quan hệ trong gia đình 
không tốt đẹp. Có một số khác lại gặp khó khăn với 
những trải nghiệm lần đầu về tình yêu... Trong những 
năm qua, chúng ta đã có rất nhiều báo động đáng lo ngại 
về các vấn đề tâm lí ở lứa tuổi HS. Thực tế hiện nay, các 
vấn đề hành vi, cảm xúc của trẻ ngày càng có xu hướng 
gia tăng, gây quan ngại cho gia đình, nhà trường và xã 
hội. Đó có thể là những vấn đề như mất tập trung, phát 
triển sớm, yêu sớm, chơi điện tử, chán học, học kém. 
Hoặc đó là các vấn đề nghiêm trọng hơn như đua xe, trầm 
cảm, ngất tập thể, tự tử tập thể, bạo lực học đường, trẻ 
em phạm pháp... Một trong những nguyên nhân không 
nhỏ của tình trạng này là stress, lo âu trầm cảm ở HS. Bài 
viết trình bày thực trạng trầm cảm ở HS THPT. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu 
Để tìm hiểu thực trạng trầm cảm ở HS THPT, chúng 
tôi sử dụng trắc nghiệm trầm cảm của Beck [3] trên 708 
HS của 6 trường THPT trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và 
TP. Hà Nội trong khoảng thời gian từ tháng 03/2018 đến 
tháng 10/2018. Đặc điểm khách thể nghiên cứu được 
trình bày tóm tắt ở bảng 1: 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 
147 
Bảng 1. Đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu 
Tiêu chí Số lượng (SL) Tỉ lệ (%) 
Trường 
THPT Nho Quan A - Ninh Bình 105 14,8 
THPT Dân tộc nội trú (Ninh Bình) 83 11,7 
THPT Bình Minh - Ninh Bình 118 16,7 
THPT Đinh Tiên Hoàng - Ninh Bình 103 14,6 
THPT Hồng Thái - Hà Nội 199 28,1 
THPT dân lập Nguyễn Bỉnh Khiêm - Hà Nội 100 14,1 
Lớp 
Lớp 10 258 36,4 
Lớp 11 239 33,8 
Lớp 12 211 29,8 
Giới tính 
Nam 291 41,1 
Nữ 417 58,9 
Học lực 
Giỏi 163 23,0 
Khá 427 60,3 
Trung bình - Yếu kém 118 16,7 
Dân tộc 
Kinh 613 86,6 
Khác 95 13,4 
Địa bàn 
Ninh Bình 409 57,8 
Hà Nội 299 42,2 
Tổng 708 100 
2.2. Kết quả nghiên cứu 
2.2.1. Đánh giá chung về thực trạng trầm cảm ở học sinh 
trung học phổ thông 
Bảng 2. Tỉ lệ và mức độ trầm cảm của HS THPT 
STT Mức độ 
Điểm 
trung 
bình 
(ĐTB) 
SL 
Tỉ lệ 
(%) 
1 
Không trầm 
cảm 
0-13 566 79,9 
2 
Trầm cảm 
nhẹ 
14-19 94 13,3 
3 
Trầm cảm 
vừa 
20-29 41 5,8 
4 
Trầm cảm 
nặng 
≥ 30 7 1,0 
Tổng 708 100 
Bảng 2 cho thấy: Đa số (gần 80%) HS tham gia khảo 
sát không có biểu hiện trầm cảm; khoảng 20% số HS 
được hỏi có biểu hiện trầm cảm ở các mức độ khác nhau. 
Trong số những em HS có biểu hiện trầm cảm, đa số các 
em ở mức trầm cảm nhẹ, tỉ lệ trầm cảm nặng chỉ khoảng 
1% trong tổng số khách thể nghiên cứu. 
Tỉ lệ 20% số có biểu hiện trầm cảm là con số đáng 
báo động, cần thiết phải có các chương trình tư vấn học 
đường, hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong 
cuộc sống để các em có thể có sức khỏe tâm thần và chất 
lượng cuộc sống tốt hơn, tránh rơi vào các tình huống gây 
ra khó khăn cho hạnh phúc gia đình, chất lượng cuộc 
sống thậm chí có những hành động cực đoan như tự sát... 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có nhiều nét tương 
đồng với các nghiên cứu trong và ngoài nước khác như: 
nghiên cứu của Viện Tâm lí học Việt Nam (năm 2000) 
với đề tài “Rối nhiễu tâm lí - Chẩn đoán và trị liệu với 
HS phổ thông trên địa bàn Hà Nội” cũng đã chỉ ra tỉ lệ 
22,5% HS có biểu hiện lo âu trầm cảm [1]; nghiên cứu 
của tác giả Bradley T. Erford và các đồng nghiệp (năm 
2011) đã chỉ ra tỉ lệ trầm cảm của thanh niên độ tuổi 18 
là khoảng 20-25% và Ryan (2005) dự tính con số trẻ vị 
thành niên (adolescents) có biểu hiện trầm cảm là 30%. 
Nhiều người trẻ bị trầm cảm sẽ trải nghiệm cảm giác này 
khi trưởng thành. Trầm cảm có thể khiến người ta sử 
dụng chất gây nghiện, tự sát và các rối loạn tâm lí khác 
[4]; nghiên cứu của hai tác giả Carmen R. Wilson 
VanVoorhis và Tracie L. Blumentritt (năm 2007) đã chỉ 
ra có khoảng 16,9% số trẻ em Mĩ gốc Mexico có biểu 
hiện trầm cảm [5]. Các tác giả nói trên đều dùng bộ công 
cụ là thang đo trầm cảm của Beck để đánh giá về tỉ lệ 
trầm cảm của trẻ vị thành niên. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 
148 
2.2.2. Thực trạng mức độ trầm cảm của học sinh trung 
học phổ thông theo các tiêu chí 
Kết quả ở bảng 3 thể hiện số lượng và tỉ lệ các mức 
độ biểu hiện trầm cảm phân theo các tiêu chí. Để so sánh 
sự khác biệt trong 03 mức độ trầm cảm (trầm cảm nhẹ, 
trầm cảm vừa, trầm cảm nặng), chúng tôi tách nhóm có 
các biểu hiện trầm cảm riêng ra và tính ĐTB của nhóm 
trầm cảm với các mức độ như sau: Trầm cảm nặng: 3 
điểm, trầm cảm vừa: 2 điểm và trầm cảm nhẹ: 1 điểm. 
Sau đó, chúng tôi tính ĐTB chung các nhóm để có thể so 
sánh mức độ trầm cảm giữa các nhóm. Kết quả được thể 
hiện ở bảng 4. 
Bảng 4. So sánh mức độ trầm cảm của HS THPT 
Tiêu chí ĐTB 
Giới tính 
Nam 2,07 
Nữ 1,39 
Lớp 
Lớp 10 1,27 
Lớp 11 1,4 
Lớp 12 1,6 
Địa bàn 
Nông thôn 1,4 
Thành phố 1,36 
Dân tộc 
Dân tộc Kinh 1,37 
Dân tộc khác 1,45 
Kết quả học tập 
Giỏi 1,07 
Khá 1,5 
Trung bình/yếu 1,51 
Bảng 4 cho thấy: nhóm HS có biểu hiện trầm cảm (N= 
142, chiếm 20,1% tổng số HS tham gia đề tài nghiên cứu) 
đều không ở mức độ nặng. Điều đó thể hiện ở việc hầu hết 
Bảng 3. Mức độ trầm cảm của HS THPT theo các tiêu chí 
Tiêu chí 
Mức độ trầm cảm 
Không trầm cảm Trầm cảm nhẹ Trầm cảm vừa Trầm cảm nặng 
SL % SL % SL % SL % 
Giới tính 
Nam 223 76,6 41 14,1 22 7,6 5 1,7 
Nữ 343 82,3 53 12,7 19 4,6 2 0,5 
Lớp 
Lớp 10 193 74,8 48 18,6 16 6,2 1 0,4 
Lớp 11 192 80,3 32 13,4 11 4,6 4 1,7 
Lớp 12 181 85,8 14 6,6 14 6,6 2 0,9 
Trường 
Nho quan 
A 
83 79,0 13 12,4 8 7,6 1 1,0 
Dân tộc 
Nội trú 
68 81,9 10 12,0 4 4,8 1 1,2 
Bình Minh 79 66,9 26 22,0 11 9,3 2 1,7 
Đinh Tiên 
Hoàng 
80 77,7 15 14,6 7 6,8 1 1,0 
Hồng Thái 165 82,9 24 12,1 8 4,0 2 1,0 
Nguyễn 
Bỉnh 
Khiêm 
91 91,0 6 6,0 3 3,0 0 0,0 
Địa bàn 
Nông thôn 230 75,2 49 16,0 23 7,5 4 1,3 
Thành phố 336 83,6 45 11,2 18 4,5 3 0,7 
Dân tộc 
Dân tộc 
Kinh 
491 80,1 82 13,4 34 5,5 6 1,0 
Dân tộc 
khác 
75 78,9 12 12,6 7 7,4 1 1,1 
Kết quả 
học tập 
Giỏi 124 76,1 36 22,1 3 1,8 0 0,0 
Khá 359 84,1 38 8,9 26 6,1 4 0,9 
Trung 
bình/ yếu 
83 70,3 20 16,9 12 10,2 3 2,5 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 
149 
các nhóm đều có ĐTB mức độ trầm cảm từ 1,3 đến 1,6 
(dưới mức trầm cảm vừa và trên mức trầm cảm nhẹ). 
So sánh mức độ trầm cảm ở nam và nữ cho thấy, 
nhóm các em HS nam có mức độ trầm cảm cao hơn nữ 
(2,07 so với 1,30). ĐTB trầm cảm ở HS nam cũng cao 
nhất trong tất cả các nhóm được xem xét. Nguyên nhân 
có thể xuất phát từ đặc thù sự phát triển tâm - sinh lí của 
các em HS theo giới tính. Các em HS nữ trong độ tuổi 
THPT nhìn chung có sự trưởng thành hơn các em HS 
nam cả về tâm - sinh lí và các kĩ năng xã hội. Kinh 
nghiệm dân gian đã đúc kết “nữ thập tam, nam thập lục” 
để đúc kết sự phát triển dậy thì ở các em HS. Cũng chính 
vì sự phát triển, trưởng thành về tâm - sinh lí của các em 
HS nam trong độ tuổi này chậm hơn nên các em có thể 
thấy mình vụng về, kém các kĩ năng giao tiếp xã hội hơn 
các bạn nữ khác. Điều đó ít nhiều cũng tạo nên sự căng 
thẳng, rối loạn tâm lí ở các em HS nam. 
So sánh mức độ trầm cảm của HS giữa các khối lớp 
cho thấy thấy ĐTB mức độ trầm cảm tăng dần theo năm 
học, cao nhất là lớp 12 với ĐTB trầm cảm là 1,6. Nguyên 
nhân của tình trạng trên có thể liên quan đến quá trình 
học tập của các em HS THPT. Năm lớp 12 là năm học 
các em HS phải lo lắng, chuẩn bị cho kì thi cuối cấp, việc 
quan trọng bậc nhất trong cuộc đời mỗi người, vì vậy, có 
em có thể lo âu căng thẳng và trầm cảm nhiều hơn. Áp 
lực học tập để thi đỗ, cũng được thể hiện rõ trong phần 
ĐTB trầm cảm theo tiêu chí học lực. 
So sánh mức độ trầm cảm theo kết quả học tập của HS 
cho thấy các em có kết quả học tập trung bình và yếu kém 
phản ảnh rõ nhất tình trạng trầm cảm. Điều này hoàn toàn 
dễ hiểu khi với các em, học tập là nhiệm vụ quan trọng bậc 
nhất, thành tích học tập đôi khi là niềm tự hào của gia đình, 
không đạt được kết quả cao trong học tập là áp lực lớn, chưa 
kể đến những lo lắng về kết quả thi cử trong tương lai... Điều 
đó cho thấy, sự kì vọng của gia đình, nhà trường, áp lực thi 
cử... đôi khi tạo ra cho các em những lo lắng, căng thẳng thái 
quá. Việc khuyến khích, động viên các em tự tin phát triển 
chính mình, chấp nhận năng lực của bản thân và tìm những 
công việc, ngành nghề, hướng đi phù hợp là việc cần thiết 
nhằm tránh cho các em những hậu quả đáng tiếc về mặt tâm 
lí, sức khỏe. Kết quả khảo sát tại trường THPT Nguyễn 
Bỉnh Khiêm, TP. Hà Nội, cho thấy, tỉ lệ trầm cảm thấp hơn 
các trường còn lại. Hiện nay trường này đang thực hiện các 
chương trình tâm lí nhằm giáo dục kĩ năng sống, chăm sóc 
sức khỏe tâm thần cho HS. Do đó, khi HS có khó khăn sẽ 
được thầy cô giáo và những chuyên viên tâm lí học đường 
trợ giúp kịp thời để có thể hạn chế tối đa tỉ lệ HS mắc bệnh 
tâm lí nói chung và bệnh trầm cảm nói riêng. 
So sánh mức độ trầm cảm theo địa bàn cho thấy, HS ở 
nông thôn có mức độ trầm cảm cao hơn HS ở thành phố. 
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu trước đây của 
Đặng Hoàng Minh và cộng sự rằng, nhóm nông thôn có 
ĐTB cao hơn nhóm ven đô và đô thị ở thang Lo âu/Trầm 
cảm, có thể là yếu tố nguy cơ đến vấn đề lo âu/trầm cảm 
[6]. Cũng theo nghiên cứu này, có mối tương tác có ý 
nghĩa giữa thu nhập gia đình và lo âu/trầm cảm; thu nhập 
gia đình càng cao, trẻ càng ít lo âu/trầm cảm. Thu nhập của 
các gia đình ở nông thôn ít hơn thành phố, họ phải dành 
nhiều thời gian kiếm sống nên ít quan tâm đến con cái hơn 
và cũng không tạo được điều kiện tốt cho con như những 
gia đình ở thành phố. Vì vậy, HS nông thôn có nguy cơ 
trầm cảm cao hơn HS thành phố. Mặt khác, khi phỏng vấn 
giáo viên Trường Bình Minh, tỉnh Ninh Bình được biết, 
rất nhiều gia đình HS của trường có thu nhập thấp, cha mẹ 
phải đi làm xa nhà, không về nhà thường xuyên nên không 
có nhiều thời gian quan tâm đến con mình. Đây cũng là 
một trong những nguyên nhân khiến tỉ lệ trầm cảm tại 
trường này cao như vậy. 
2.2.3. Các mặt biểu hiện trầm cảm ở học sinh trung học 
phổ thông theo thang Beck 
Thang đo trầm cảm của Beck gồm có 21 item, được 
biểu hiện ở mặt nhận thức, cảm xúc, hành vi, sinh lí. Điểm 
số của sự lựa chọn sẽ giao động từ 0-3 cho 4 mức độ biểu 
hiện trong từng item. 0 điểm là không có biểu hiện nào (ví 
dụ với câu 1: “Tôi không cảm thấy buồn”) và 3 điểm là 
mức cao nhất (ví dụ với câu 1: “Tôi buồn và khổ sở đến 
mức không thể chịu được”). Trên cơ sở đó, có thể chia ra 
4 mức độ biểu hiện trầm của cho từng item như sau: mức 
1: 0-0,74; mức 2: 0,75-1,50; mức 3: 1,50-2,25; mức 4: 
2,25-3,0. Kết quả khảo sát được thể hiện ở bảng 5. 
Bảng 5. Kết quả thang đo trầm cảm Beck 
theo các mặt biểu hiện 
Các mặt 
biểu hiện 
Item 
ĐTB nhóm 
có biểu hiện 
trầm cảm 
(N=142) 
ĐLC 
Nhận thức 
Câu 2 0,86 0,88 
Câu 3 1,38 0,84 
Câu 5 1,30 1,03 
Câu 6 1,06 0,65 
Câu 8 1,49 0,82 
Câu 14 0,86 0,99 
Trung bình chung nhận thức 1,16 0,65 
Cảm xúc 
Câu 1 0,85 0,57 
Câu 4 0,81 0,96 
Câu 7 0,70 0,48 
Câu 11 1,08 0,94 
Câu 12 0,85 0,89 
Trung bình chung cảm xúc 0,85 0,50 
Hành vi Câu 9 0,54 0,67 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 
150 
Câu 10 0,99 1,20 
Câu 13 0,69 0,66 
Câu 15 1,14 0,69 
Trung bình chung hành vi 0,84 0,44 
Sinh lí 
Câu 16 0,78 0,43 
Câu 17 1,01 0,57 
Câu 18 0,54 0,26 
Câu 19 0,37 0,14 
Câu 20 1,20 0,47 
Câu 21 0,32 0,10 
Trung bình chung sinh lí 0,73 0,24 
Kết quả ở bảng 5 cho thấy, các item đều ở mức 1 và 
2, trong đó item số 8 có ĐTB cao nhất, tiếp theo là item 
số 3 và 5. Cả 3 item này đều nằm trong nhóm nhận thức. 
Item số 3 đề cập đến việc chủ thể cảm thấy mình là người 
thất bại, không làm được những việc quan trọng có ý 
nghĩa. Item số 5 đề cập đến việc cá nhân cảm thấy mình 
có tội, dằn vặt bản thân, cảm thấy vô dụng. Item số 8 là 
item đề cập đến việc cá nhân dằn vặt bản thân mình, phán 
xét tiêu cực về mình. 
Ở chiều ngược lại, những item có điểm số thấp nhất 
nằm ở nhóm sinh lí và hành vi. Item số 9 đề cập đến 
những hành vi làm tổn hại bản thân hoặc thậm chí là tự 
sát; item số 19 đề cập đến biểu hiện sinh lí là sụt giảm 
cân nhanh chóng. Nói chung, đây là điểm tích cực và cho 
thấy các biểu hiện nguy hiểm như tự làm tổn hại bản thân 
hay tự sát đều có biểu hiện không cao. 
Về các nhóm biểu hiện, chúng ta có thể thấy, nhận 
thức là nhóm có ĐTB cao hơn hẳn các nhóm còn lại. 
Điều đó phản ánh trong các biểu hiện trầm cảm của HS 
tham gia đề tài nghiên cứu này, mặt nhận thức là “có vấn 
đề” nhiều nhất trong các mặt đưa ra. 
Trong phần phỏng vấn sâu, chúng tôi tập trung nhiều 
hơn vào nhóm các em có biểu hiện trầm cảm ở thang 
Beck và cũng cho những kết quả khá giống với các mặt 
biểu hiện nói trên dù trong phần phỏng vấn sâu, chúng 
tôi để các em tự bộc lộ bản thân nhiều hơn và không tập 
trung vào từng mặt (nhận thức, cảm xúc, hành vi hay sinh 
lí). Ví dụ, khi chúng tôi hỏi các em HS có biểu hiện trầm 
cảm về những lo lắng căng thẳng trong học tập của mình, 
thì trong số 10 em tham gia trả lời phỏng vấn, có tới 6 em 
chia sẻ sâu hơn về những buồn bã, thất vọng của bản thân 
liên quan đến tương lai, cảm thấy mình là người vô dụng, 
thất bại. Dưới đây là một vài ví dụ: 
Em có lo lắng trong học tập như thế nào? 
- Em học không được như bố mẹ mơ ước, nên cũng 
chán. Có lần em bỏ đi chơi game về muộn. Bố em và thầy 
giáo chủ nhiệm phải đi tìm nhưng em ngồi trong góc khó 
nhìn thấy. Em không biết sau này em làm gì nữa. Thi thì 
em sợ không được càng làm bố mẹ buồn. Bố em cũng hay 
chửi mắng em. Em dằn vặt lắm. Em có lỗi với ông bà, gia 
đình. Em không biết mình sẽ như thế nào. Muốn làm 
người tốt mà khó vậy. Không ai hiểu em, càng cố càng 
không ai hiểu (Nam, lớp 11, Trường THPT Dân tộc nội 
trú, Ninh Bình). 
- Em thấy mình vô dụng. Các bạn thì hay trêu chọc. 
Có đứa bạn em, nó thân mà thỉnh thoảng cũng nói xấu 
em. Chúng nó hay chê em gầy. Nhiều đêm em suy nghĩ 
và khóc. Em học thì bình thường, không giỏi, cũng không 
xinh nên các bạn cũng không để ý nhiều. Nhiều lúc em 
thấy mình như lạc lõng, vô dụng. Hình như mọi người 
chỉ chú ý đến người xinh thôi. Các bạn có điều kiện, em 
thì lại bình thường. Học giỏi với xinh, làm đẹp nhiều như 
các bạn trên đô thị thì mới được chú ý (Nữ, HS lớp 12, 
Trường THPT Bình Minh, tỉnh Ninh Bình). 
- Em hãy nghĩ về cái tôi của mình. Em nghĩ nó đặc biệt. 
Nhưng em cũng ngượng khi trước mọi người, như lên 
bảng, em không đọc được. Em cứ quên đi là cắn móng tay, 
làm sao ấy. Làm gì cũng vụng về, cả lớp cứ nhìn em cười, 
khi học thể dục thì mọi người cứ cười cười em. Thầy cô 
giáo cũng vậy. Em không biết rồi sẽ làm được gì nữa. 
Nhưng em cũng thấy mình nỗ lực mà. Em vẫn mong mình 
thi đỗ trường nào đấy. Em hay xấu hổ vì những việc em 
làm trước kia. Nhớ lại là em lại như đau ấy, và xấu hổ về 
mình, chắc mọi người cũng thấy vậy. (Nam, HS lớp 10, 
Trường THPT Dân tộc nội trú, Ninh Bình). 
3. Kết luận 
Kết quả đánh giá từ thang đo Trầm cảm Beck về các 
mặt biểu hiện của trầm cảm cho thấy, các em HS có biểu 
hiện trầm cảm không ở mức cao nhưng vẫn cần phải có 
sự hỗ trợ, tham vấn tâm lí để các em cân bằng hơn. Nhận 
thức về tương lai, về bản thân mình của các em còn nhiều 
bất cập, các em cũng hay có biểu hiện phán xét, lo lắng 
về mình. Kết quả phỏng vấn sâu của chúng tôi cũng phản 
ánh kết quả tương tự. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Bá Đạt (2003). Kết quả chẩn đoán trầm 
cảm ở học sinh trung học phổ thông Hà Nội. Tạp chí 
Tâm lí học, số 7, tr 57-63. 
[2] Nguyễn Bá Đạt (2002). Rối nhiều trầm cảm ở học 
sinh trung học phổ thông hiện nay. Tạp chí Giáo 
dục, số 42, tr 12-14. 
[3] Nguyễn Văn Nhận (2002). Trắc nghiệm tâm lí lâm 
sàng. NXB Y học. 
(Xem tiếp trang 166) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 163-166 
166 
chẽ, có cơ sở khoa học hơn, không được áp đặt chủ quan 
hoặc xem thường ý kiến của họ. Đối với những HV có 
những tư tưởng mới, những giải pháp hay cần phải được 
khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ tiếp 
tục nghiên cứu phát triển. 
3. Kết luận 
Phát triển năng lực NCKH cho HV ở các trường sĩ 
quan quân đội nước ta hiện nay là quá trình không 
ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức, phát triển khả năng 
phương pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt, 
sáng tạo của HV nhằm để nhận thức và giải quyết đúng 
đắn những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực 
hiện nhiệm vụ ở trường cũng như trên cương vị công 
tác mới sau khi tốt nghiệp ra trường. Hoạt động này có 
vai trò to lớn không chỉ đối với quá trình phát triển các 
phẩm chất năng lực của HV, đối với việc thực hiện các 
nhiệm vụ của họ trong quá trình GD-ĐT mà còn có ý 
nghĩa to lớn đối với việc thực hiện nhiệm vụ của của họ 
sau khi tốt nghiệp ra trường; góp phần tích cực vào hoạt 
động xây dựng nhà trường quân đội, củng cố quốc 
phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội 
chủ nghĩa trong tình hình mới. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[2] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 
29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, 
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập 
quốc tế. 
[3] Tổng cục Chính trị (2014). Nâng cao năng lực 
nghiên cứu khoa học của giảng viên khoa học xã hội 
và nhân văn trong các học viện, trường sĩ quan quân 
đội hiện nay. NXB Quân đội nhân dân. 
[4] Trần Thị Bảo Khanh (2014). Phát triển giáo dục đại 
học ở Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Tạp chí 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10, tr 83-87. 
[5] Nguyễn Thị Lan (2016). Đổi mới giáo dục đại học 
Việt Nam - Từ quan điểm đến giải pháp. Tạp chí Lí 
luận chính trị, số 7, tr 34-38. 
[6] Bộ GD-ĐT (2000). Quy chế về nghiên cứu khoa học 
của sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng 
(Ban hành kèm theo Quyết định số 08/2000/ 
QĐ-BGDĐT ngày 30/03/2000 của Bộ trưởng Bộ 
GD-ĐT). 
[7] Nguyễn Đức Chính - Nguyễn Phương Nga (2006). 
Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt 
động giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học của 
giảng viên trong Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài 
khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Đại học Quốc 
gia Hà Nội, mã số: QGTĐ.02.06. 
[8] Bộ Quốc phòng (2000). Điều lệ công tác nhà trường 
Quân đội nhân dân Việt Nam. NXB Quân đội nhân 
dân. 
[9] Cục Tư tưởng - Văn hóa (1995). Tư tưởng Hồ Chí 
Minh về giáo dục trong lĩnh vực quân sự. NXB 
Quân đội nhân dân. 
[10] Phạm Minh Hạc - Thái Duy Tuyên (2014). Định 
hướng giá trị con người Việt Nam trong thời kì đổi 
mới và hội nhập. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
THỰC TRẠNG TRẦM CẢM Ở HỌC SINH... 
(Tiếp theo trang 150) 
[4] Bradley T. Erford - Breann M. Erford - Gina 
Lattanzi - Janet Weiler - Hallie Schein -Emily Wolf 
- Meredith Hughes - Jenna Darrow - Janet Savin 
Murphy - Elizabeth Peacock (2011). Counseling 
Outcomes From 1990 to 2008 for School-Age Youth 
With Depression: A Meta-Analysis. Journal of 
Counseling and Development, Fall 2011, Vol. 89, 
pp. 439-457. 
[5] Carmen R. Wilson VanVoorhis - Tracie L. 
Blumentritt (2007). Psychometric Properties of the 
Beck Depression Inventory-II in a Clinically-
Identified Sample of Mexican American 
Adolescents. Journal Child Fam Study Vol. 16, pp. 
789-798. 
[6] Đặng Hoàng Minh (2013). Sức khỏe tâm thần của 
trẻ em Việt Nam: Thực trạng và các yếu tố nguy cơ. 
Hội thảo về “Thực trạng và thách thức về sức khỏe 
tâm thần ở trẻ em Việt Nam”, Trường Đại học Giáo 
dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 25-32. 
[7] Nguyễn Đăng Dung - Nguyễn Văn Siêm (1991). Rối 
loạn trầm cảm (Bách khoa thư bệnh học, tập I). 
NXB Y học. 
[8] Dương Thị Diệu Hoa (chủ biên, 2008). Giáo trình 
tâm lí học phát triển. NXB Đại học Sư phạm. 
[9] Đặng Phương Kiệt (1998). Stress và đời sống. NXB 
Khoa học xã hội. 
[10] Cong V. Tran - David A. Cole - Bahr Weiss (2012). 
Testing Reciprocal Longitudinal Relations Between 
Peer Victimization and Depressive Symptoms in 
Young Adolescents, Journal of Clinical Child and 
Adolescent Psychology, Vol. 41(3), pp. 353-360. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_tram_cam_o_hoc_sinh_trung_hoc_pho_thong_nghien_cu.pdf