Thực trạng trầm cảm ở học sinh Trung học Phổ thông: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội
Abstract: The article addresses the current situation of depression in high school students. The
research is conducted on 708 students at 6 high schools in two provinces Ninh Binh and Hanoi.
The results have showed that about 20% of students showed depression at different levels. Most
of students who showed depression are at mild depression, the rate of severe depression is only
about 1% of the total number of participants. The students at mild depression still need to have
psychological support and counseling for them to be more balanced.
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng trầm cảm ở học sinh Trung học Phổ thông: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng trầm cảm ở học sinh Trung học Phổ thông: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 146 THỰC TRẠNG TRẦM CẢM Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG: NGHIÊN CỨU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH VÀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI Trần Thị Mỵ Lương - Học viện Phụ nữ Việt Nam Phan Diệu Mai - Nghiên cứu sinh K33, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Ngày nhận bài: 11/03/2019; ngày sửa chữa: 15/04/2019: ngày duyệt đăng: 26/04/2019. Abstract: The article addresses the current situation of depression in high school students. The research is conducted on 708 students at 6 high schools in two provinces Ninh Binh and Hanoi. The results have showed that about 20% of students showed depression at different levels. Most of students who showed depression are at mild depression, the rate of severe depression is only about 1% of the total number of participants. The students at mild depression still need to have psychological support and counseling for them to be more balanced. Keywords: Depression, high school student, depression in high school student. 1. Mở đầu Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất trong các loại bệnh về sức khỏe tâm thần. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, trên thế giới có khoảng 200 triệu người, (chiếm gần 5,0% dân số), có các triệu chứng trầm cảm điển hình. Riêng ở Việt Nam, tỉ lệ người bị trầm cảm là 2,8%. Hơn một nửa bệnh nhân trầm cảm nhập viện bị tái diễn ít nhất 1-2 lần mỗi năm; nếu không được điều trị, số lần xuất hiện của bệnh cũng như độ nặng của các triệu chứng có khuynh hướng tăng dần theo thời gian. Tỉ lệ tự sát nghiêm trọng: trầm cảm chiếm 2/3 số trường hợp chết do tự sát. Chi phí chăm sóc trầm cảm rất lớn và ngày càng tăng. Về gánh nặng bệnh, trầm cảm xếp hàng thứ 5 ở nữ và 7 ở nam (World Bank, 1990); lo âu và trầm cảm xếp thứ nhất ở cả nam và nữ trưởng thành trên thế giới từ 15- 34 tuổi (WHO, 2012). Trầm cảm sẽ trở thành nguyên nhân gây mất sức lao động đứng hàng thứ 2 trên thế giới vào năm 2020 [1]. Trầm cảm ở mức độ nặng hay nhẹ đều có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của cá nhân, ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng và xã hội. Các nhà tâm lí học cho rằng, phát hiện các dấu hiệu trong giai đoạn sớm thì hiệu quả điều trị có thể sẽ cao hơn, đỡ tốn kém chi phí hơn. Lứa tuổi thanh thiếu niên là một giai đoạn phát triển chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn: tuổi không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Đây là giai đoạn phát triển đặc biệt với một loạt những thay đổi về thể chất, tâm lí và sự thay đổi về các quan hệ xã hội, nhằm đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của lứa tuổi. Đây cũng là giai đoạn dễ nảy sinh nhiều rối nhiễu tâm lí nhất so với các lứa tuổi khác. Các nghiên cứu của Offers, năm 1991 và 1995 [2] đã chỉ ra rằng có khoảng 20% trẻ ở độ tuổi này có khó khăn (khủng hoảng) trong sự phát triển. Học sinh (HS) trung học phổ thông (THPT) có thể gặp những khó khăn tâm lí về hình ảnh thân thể không được như mong muốn, tự đánh giá mình không như mục tiêu đề ra, hay tự đánh giá mình mâu thuẫn với đánh giá của người lớn, người có uy tín. Các em cũng có thể gặp áp lực học tập lớn với những kì thi cử quan trọng, đặc biệt là với HS lớp 12. Có nhiều HS THPT gặp khó khăn khi kết bạn, có em không có bạn hoặc rất ít bạn, bị bạn bè cô lập, xa lánh. Có em lại gặp khó khăn trong quan hệ với bố mẹ, cảm thấy bố mẹ không quan tâm hay quan hệ trong gia đình không tốt đẹp. Có một số khác lại gặp khó khăn với những trải nghiệm lần đầu về tình yêu... Trong những năm qua, chúng ta đã có rất nhiều báo động đáng lo ngại về các vấn đề tâm lí ở lứa tuổi HS. Thực tế hiện nay, các vấn đề hành vi, cảm xúc của trẻ ngày càng có xu hướng gia tăng, gây quan ngại cho gia đình, nhà trường và xã hội. Đó có thể là những vấn đề như mất tập trung, phát triển sớm, yêu sớm, chơi điện tử, chán học, học kém. Hoặc đó là các vấn đề nghiêm trọng hơn như đua xe, trầm cảm, ngất tập thể, tự tử tập thể, bạo lực học đường, trẻ em phạm pháp... Một trong những nguyên nhân không nhỏ của tình trạng này là stress, lo âu trầm cảm ở HS. Bài viết trình bày thực trạng trầm cảm ở HS THPT. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu Để tìm hiểu thực trạng trầm cảm ở HS THPT, chúng tôi sử dụng trắc nghiệm trầm cảm của Beck [3] trên 708 HS của 6 trường THPT trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và TP. Hà Nội trong khoảng thời gian từ tháng 03/2018 đến tháng 10/2018. Đặc điểm khách thể nghiên cứu được trình bày tóm tắt ở bảng 1: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 147 Bảng 1. Đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu Tiêu chí Số lượng (SL) Tỉ lệ (%) Trường THPT Nho Quan A - Ninh Bình 105 14,8 THPT Dân tộc nội trú (Ninh Bình) 83 11,7 THPT Bình Minh - Ninh Bình 118 16,7 THPT Đinh Tiên Hoàng - Ninh Bình 103 14,6 THPT Hồng Thái - Hà Nội 199 28,1 THPT dân lập Nguyễn Bỉnh Khiêm - Hà Nội 100 14,1 Lớp Lớp 10 258 36,4 Lớp 11 239 33,8 Lớp 12 211 29,8 Giới tính Nam 291 41,1 Nữ 417 58,9 Học lực Giỏi 163 23,0 Khá 427 60,3 Trung bình - Yếu kém 118 16,7 Dân tộc Kinh 613 86,6 Khác 95 13,4 Địa bàn Ninh Bình 409 57,8 Hà Nội 299 42,2 Tổng 708 100 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Đánh giá chung về thực trạng trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông Bảng 2. Tỉ lệ và mức độ trầm cảm của HS THPT STT Mức độ Điểm trung bình (ĐTB) SL Tỉ lệ (%) 1 Không trầm cảm 0-13 566 79,9 2 Trầm cảm nhẹ 14-19 94 13,3 3 Trầm cảm vừa 20-29 41 5,8 4 Trầm cảm nặng ≥ 30 7 1,0 Tổng 708 100 Bảng 2 cho thấy: Đa số (gần 80%) HS tham gia khảo sát không có biểu hiện trầm cảm; khoảng 20% số HS được hỏi có biểu hiện trầm cảm ở các mức độ khác nhau. Trong số những em HS có biểu hiện trầm cảm, đa số các em ở mức trầm cảm nhẹ, tỉ lệ trầm cảm nặng chỉ khoảng 1% trong tổng số khách thể nghiên cứu. Tỉ lệ 20% số có biểu hiện trầm cảm là con số đáng báo động, cần thiết phải có các chương trình tư vấn học đường, hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong cuộc sống để các em có thể có sức khỏe tâm thần và chất lượng cuộc sống tốt hơn, tránh rơi vào các tình huống gây ra khó khăn cho hạnh phúc gia đình, chất lượng cuộc sống thậm chí có những hành động cực đoan như tự sát... Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có nhiều nét tương đồng với các nghiên cứu trong và ngoài nước khác như: nghiên cứu của Viện Tâm lí học Việt Nam (năm 2000) với đề tài “Rối nhiễu tâm lí - Chẩn đoán và trị liệu với HS phổ thông trên địa bàn Hà Nội” cũng đã chỉ ra tỉ lệ 22,5% HS có biểu hiện lo âu trầm cảm [1]; nghiên cứu của tác giả Bradley T. Erford và các đồng nghiệp (năm 2011) đã chỉ ra tỉ lệ trầm cảm của thanh niên độ tuổi 18 là khoảng 20-25% và Ryan (2005) dự tính con số trẻ vị thành niên (adolescents) có biểu hiện trầm cảm là 30%. Nhiều người trẻ bị trầm cảm sẽ trải nghiệm cảm giác này khi trưởng thành. Trầm cảm có thể khiến người ta sử dụng chất gây nghiện, tự sát và các rối loạn tâm lí khác [4]; nghiên cứu của hai tác giả Carmen R. Wilson VanVoorhis và Tracie L. Blumentritt (năm 2007) đã chỉ ra có khoảng 16,9% số trẻ em Mĩ gốc Mexico có biểu hiện trầm cảm [5]. Các tác giả nói trên đều dùng bộ công cụ là thang đo trầm cảm của Beck để đánh giá về tỉ lệ trầm cảm của trẻ vị thành niên. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 148 2.2.2. Thực trạng mức độ trầm cảm của học sinh trung học phổ thông theo các tiêu chí Kết quả ở bảng 3 thể hiện số lượng và tỉ lệ các mức độ biểu hiện trầm cảm phân theo các tiêu chí. Để so sánh sự khác biệt trong 03 mức độ trầm cảm (trầm cảm nhẹ, trầm cảm vừa, trầm cảm nặng), chúng tôi tách nhóm có các biểu hiện trầm cảm riêng ra và tính ĐTB của nhóm trầm cảm với các mức độ như sau: Trầm cảm nặng: 3 điểm, trầm cảm vừa: 2 điểm và trầm cảm nhẹ: 1 điểm. Sau đó, chúng tôi tính ĐTB chung các nhóm để có thể so sánh mức độ trầm cảm giữa các nhóm. Kết quả được thể hiện ở bảng 4. Bảng 4. So sánh mức độ trầm cảm của HS THPT Tiêu chí ĐTB Giới tính Nam 2,07 Nữ 1,39 Lớp Lớp 10 1,27 Lớp 11 1,4 Lớp 12 1,6 Địa bàn Nông thôn 1,4 Thành phố 1,36 Dân tộc Dân tộc Kinh 1,37 Dân tộc khác 1,45 Kết quả học tập Giỏi 1,07 Khá 1,5 Trung bình/yếu 1,51 Bảng 4 cho thấy: nhóm HS có biểu hiện trầm cảm (N= 142, chiếm 20,1% tổng số HS tham gia đề tài nghiên cứu) đều không ở mức độ nặng. Điều đó thể hiện ở việc hầu hết Bảng 3. Mức độ trầm cảm của HS THPT theo các tiêu chí Tiêu chí Mức độ trầm cảm Không trầm cảm Trầm cảm nhẹ Trầm cảm vừa Trầm cảm nặng SL % SL % SL % SL % Giới tính Nam 223 76,6 41 14,1 22 7,6 5 1,7 Nữ 343 82,3 53 12,7 19 4,6 2 0,5 Lớp Lớp 10 193 74,8 48 18,6 16 6,2 1 0,4 Lớp 11 192 80,3 32 13,4 11 4,6 4 1,7 Lớp 12 181 85,8 14 6,6 14 6,6 2 0,9 Trường Nho quan A 83 79,0 13 12,4 8 7,6 1 1,0 Dân tộc Nội trú 68 81,9 10 12,0 4 4,8 1 1,2 Bình Minh 79 66,9 26 22,0 11 9,3 2 1,7 Đinh Tiên Hoàng 80 77,7 15 14,6 7 6,8 1 1,0 Hồng Thái 165 82,9 24 12,1 8 4,0 2 1,0 Nguyễn Bỉnh Khiêm 91 91,0 6 6,0 3 3,0 0 0,0 Địa bàn Nông thôn 230 75,2 49 16,0 23 7,5 4 1,3 Thành phố 336 83,6 45 11,2 18 4,5 3 0,7 Dân tộc Dân tộc Kinh 491 80,1 82 13,4 34 5,5 6 1,0 Dân tộc khác 75 78,9 12 12,6 7 7,4 1 1,1 Kết quả học tập Giỏi 124 76,1 36 22,1 3 1,8 0 0,0 Khá 359 84,1 38 8,9 26 6,1 4 0,9 Trung bình/ yếu 83 70,3 20 16,9 12 10,2 3 2,5 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 149 các nhóm đều có ĐTB mức độ trầm cảm từ 1,3 đến 1,6 (dưới mức trầm cảm vừa và trên mức trầm cảm nhẹ). So sánh mức độ trầm cảm ở nam và nữ cho thấy, nhóm các em HS nam có mức độ trầm cảm cao hơn nữ (2,07 so với 1,30). ĐTB trầm cảm ở HS nam cũng cao nhất trong tất cả các nhóm được xem xét. Nguyên nhân có thể xuất phát từ đặc thù sự phát triển tâm - sinh lí của các em HS theo giới tính. Các em HS nữ trong độ tuổi THPT nhìn chung có sự trưởng thành hơn các em HS nam cả về tâm - sinh lí và các kĩ năng xã hội. Kinh nghiệm dân gian đã đúc kết “nữ thập tam, nam thập lục” để đúc kết sự phát triển dậy thì ở các em HS. Cũng chính vì sự phát triển, trưởng thành về tâm - sinh lí của các em HS nam trong độ tuổi này chậm hơn nên các em có thể thấy mình vụng về, kém các kĩ năng giao tiếp xã hội hơn các bạn nữ khác. Điều đó ít nhiều cũng tạo nên sự căng thẳng, rối loạn tâm lí ở các em HS nam. So sánh mức độ trầm cảm của HS giữa các khối lớp cho thấy thấy ĐTB mức độ trầm cảm tăng dần theo năm học, cao nhất là lớp 12 với ĐTB trầm cảm là 1,6. Nguyên nhân của tình trạng trên có thể liên quan đến quá trình học tập của các em HS THPT. Năm lớp 12 là năm học các em HS phải lo lắng, chuẩn bị cho kì thi cuối cấp, việc quan trọng bậc nhất trong cuộc đời mỗi người, vì vậy, có em có thể lo âu căng thẳng và trầm cảm nhiều hơn. Áp lực học tập để thi đỗ, cũng được thể hiện rõ trong phần ĐTB trầm cảm theo tiêu chí học lực. So sánh mức độ trầm cảm theo kết quả học tập của HS cho thấy các em có kết quả học tập trung bình và yếu kém phản ảnh rõ nhất tình trạng trầm cảm. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi với các em, học tập là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, thành tích học tập đôi khi là niềm tự hào của gia đình, không đạt được kết quả cao trong học tập là áp lực lớn, chưa kể đến những lo lắng về kết quả thi cử trong tương lai... Điều đó cho thấy, sự kì vọng của gia đình, nhà trường, áp lực thi cử... đôi khi tạo ra cho các em những lo lắng, căng thẳng thái quá. Việc khuyến khích, động viên các em tự tin phát triển chính mình, chấp nhận năng lực của bản thân và tìm những công việc, ngành nghề, hướng đi phù hợp là việc cần thiết nhằm tránh cho các em những hậu quả đáng tiếc về mặt tâm lí, sức khỏe. Kết quả khảo sát tại trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, TP. Hà Nội, cho thấy, tỉ lệ trầm cảm thấp hơn các trường còn lại. Hiện nay trường này đang thực hiện các chương trình tâm lí nhằm giáo dục kĩ năng sống, chăm sóc sức khỏe tâm thần cho HS. Do đó, khi HS có khó khăn sẽ được thầy cô giáo và những chuyên viên tâm lí học đường trợ giúp kịp thời để có thể hạn chế tối đa tỉ lệ HS mắc bệnh tâm lí nói chung và bệnh trầm cảm nói riêng. So sánh mức độ trầm cảm theo địa bàn cho thấy, HS ở nông thôn có mức độ trầm cảm cao hơn HS ở thành phố. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu trước đây của Đặng Hoàng Minh và cộng sự rằng, nhóm nông thôn có ĐTB cao hơn nhóm ven đô và đô thị ở thang Lo âu/Trầm cảm, có thể là yếu tố nguy cơ đến vấn đề lo âu/trầm cảm [6]. Cũng theo nghiên cứu này, có mối tương tác có ý nghĩa giữa thu nhập gia đình và lo âu/trầm cảm; thu nhập gia đình càng cao, trẻ càng ít lo âu/trầm cảm. Thu nhập của các gia đình ở nông thôn ít hơn thành phố, họ phải dành nhiều thời gian kiếm sống nên ít quan tâm đến con cái hơn và cũng không tạo được điều kiện tốt cho con như những gia đình ở thành phố. Vì vậy, HS nông thôn có nguy cơ trầm cảm cao hơn HS thành phố. Mặt khác, khi phỏng vấn giáo viên Trường Bình Minh, tỉnh Ninh Bình được biết, rất nhiều gia đình HS của trường có thu nhập thấp, cha mẹ phải đi làm xa nhà, không về nhà thường xuyên nên không có nhiều thời gian quan tâm đến con mình. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến tỉ lệ trầm cảm tại trường này cao như vậy. 2.2.3. Các mặt biểu hiện trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông theo thang Beck Thang đo trầm cảm của Beck gồm có 21 item, được biểu hiện ở mặt nhận thức, cảm xúc, hành vi, sinh lí. Điểm số của sự lựa chọn sẽ giao động từ 0-3 cho 4 mức độ biểu hiện trong từng item. 0 điểm là không có biểu hiện nào (ví dụ với câu 1: “Tôi không cảm thấy buồn”) và 3 điểm là mức cao nhất (ví dụ với câu 1: “Tôi buồn và khổ sở đến mức không thể chịu được”). Trên cơ sở đó, có thể chia ra 4 mức độ biểu hiện trầm của cho từng item như sau: mức 1: 0-0,74; mức 2: 0,75-1,50; mức 3: 1,50-2,25; mức 4: 2,25-3,0. Kết quả khảo sát được thể hiện ở bảng 5. Bảng 5. Kết quả thang đo trầm cảm Beck theo các mặt biểu hiện Các mặt biểu hiện Item ĐTB nhóm có biểu hiện trầm cảm (N=142) ĐLC Nhận thức Câu 2 0,86 0,88 Câu 3 1,38 0,84 Câu 5 1,30 1,03 Câu 6 1,06 0,65 Câu 8 1,49 0,82 Câu 14 0,86 0,99 Trung bình chung nhận thức 1,16 0,65 Cảm xúc Câu 1 0,85 0,57 Câu 4 0,81 0,96 Câu 7 0,70 0,48 Câu 11 1,08 0,94 Câu 12 0,85 0,89 Trung bình chung cảm xúc 0,85 0,50 Hành vi Câu 9 0,54 0,67 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150; 166 150 Câu 10 0,99 1,20 Câu 13 0,69 0,66 Câu 15 1,14 0,69 Trung bình chung hành vi 0,84 0,44 Sinh lí Câu 16 0,78 0,43 Câu 17 1,01 0,57 Câu 18 0,54 0,26 Câu 19 0,37 0,14 Câu 20 1,20 0,47 Câu 21 0,32 0,10 Trung bình chung sinh lí 0,73 0,24 Kết quả ở bảng 5 cho thấy, các item đều ở mức 1 và 2, trong đó item số 8 có ĐTB cao nhất, tiếp theo là item số 3 và 5. Cả 3 item này đều nằm trong nhóm nhận thức. Item số 3 đề cập đến việc chủ thể cảm thấy mình là người thất bại, không làm được những việc quan trọng có ý nghĩa. Item số 5 đề cập đến việc cá nhân cảm thấy mình có tội, dằn vặt bản thân, cảm thấy vô dụng. Item số 8 là item đề cập đến việc cá nhân dằn vặt bản thân mình, phán xét tiêu cực về mình. Ở chiều ngược lại, những item có điểm số thấp nhất nằm ở nhóm sinh lí và hành vi. Item số 9 đề cập đến những hành vi làm tổn hại bản thân hoặc thậm chí là tự sát; item số 19 đề cập đến biểu hiện sinh lí là sụt giảm cân nhanh chóng. Nói chung, đây là điểm tích cực và cho thấy các biểu hiện nguy hiểm như tự làm tổn hại bản thân hay tự sát đều có biểu hiện không cao. Về các nhóm biểu hiện, chúng ta có thể thấy, nhận thức là nhóm có ĐTB cao hơn hẳn các nhóm còn lại. Điều đó phản ánh trong các biểu hiện trầm cảm của HS tham gia đề tài nghiên cứu này, mặt nhận thức là “có vấn đề” nhiều nhất trong các mặt đưa ra. Trong phần phỏng vấn sâu, chúng tôi tập trung nhiều hơn vào nhóm các em có biểu hiện trầm cảm ở thang Beck và cũng cho những kết quả khá giống với các mặt biểu hiện nói trên dù trong phần phỏng vấn sâu, chúng tôi để các em tự bộc lộ bản thân nhiều hơn và không tập trung vào từng mặt (nhận thức, cảm xúc, hành vi hay sinh lí). Ví dụ, khi chúng tôi hỏi các em HS có biểu hiện trầm cảm về những lo lắng căng thẳng trong học tập của mình, thì trong số 10 em tham gia trả lời phỏng vấn, có tới 6 em chia sẻ sâu hơn về những buồn bã, thất vọng của bản thân liên quan đến tương lai, cảm thấy mình là người vô dụng, thất bại. Dưới đây là một vài ví dụ: Em có lo lắng trong học tập như thế nào? - Em học không được như bố mẹ mơ ước, nên cũng chán. Có lần em bỏ đi chơi game về muộn. Bố em và thầy giáo chủ nhiệm phải đi tìm nhưng em ngồi trong góc khó nhìn thấy. Em không biết sau này em làm gì nữa. Thi thì em sợ không được càng làm bố mẹ buồn. Bố em cũng hay chửi mắng em. Em dằn vặt lắm. Em có lỗi với ông bà, gia đình. Em không biết mình sẽ như thế nào. Muốn làm người tốt mà khó vậy. Không ai hiểu em, càng cố càng không ai hiểu (Nam, lớp 11, Trường THPT Dân tộc nội trú, Ninh Bình). - Em thấy mình vô dụng. Các bạn thì hay trêu chọc. Có đứa bạn em, nó thân mà thỉnh thoảng cũng nói xấu em. Chúng nó hay chê em gầy. Nhiều đêm em suy nghĩ và khóc. Em học thì bình thường, không giỏi, cũng không xinh nên các bạn cũng không để ý nhiều. Nhiều lúc em thấy mình như lạc lõng, vô dụng. Hình như mọi người chỉ chú ý đến người xinh thôi. Các bạn có điều kiện, em thì lại bình thường. Học giỏi với xinh, làm đẹp nhiều như các bạn trên đô thị thì mới được chú ý (Nữ, HS lớp 12, Trường THPT Bình Minh, tỉnh Ninh Bình). - Em hãy nghĩ về cái tôi của mình. Em nghĩ nó đặc biệt. Nhưng em cũng ngượng khi trước mọi người, như lên bảng, em không đọc được. Em cứ quên đi là cắn móng tay, làm sao ấy. Làm gì cũng vụng về, cả lớp cứ nhìn em cười, khi học thể dục thì mọi người cứ cười cười em. Thầy cô giáo cũng vậy. Em không biết rồi sẽ làm được gì nữa. Nhưng em cũng thấy mình nỗ lực mà. Em vẫn mong mình thi đỗ trường nào đấy. Em hay xấu hổ vì những việc em làm trước kia. Nhớ lại là em lại như đau ấy, và xấu hổ về mình, chắc mọi người cũng thấy vậy. (Nam, HS lớp 10, Trường THPT Dân tộc nội trú, Ninh Bình). 3. Kết luận Kết quả đánh giá từ thang đo Trầm cảm Beck về các mặt biểu hiện của trầm cảm cho thấy, các em HS có biểu hiện trầm cảm không ở mức cao nhưng vẫn cần phải có sự hỗ trợ, tham vấn tâm lí để các em cân bằng hơn. Nhận thức về tương lai, về bản thân mình của các em còn nhiều bất cập, các em cũng hay có biểu hiện phán xét, lo lắng về mình. Kết quả phỏng vấn sâu của chúng tôi cũng phản ánh kết quả tương tự. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Bá Đạt (2003). Kết quả chẩn đoán trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông Hà Nội. Tạp chí Tâm lí học, số 7, tr 57-63. [2] Nguyễn Bá Đạt (2002). Rối nhiều trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông hiện nay. Tạp chí Giáo dục, số 42, tr 12-14. [3] Nguyễn Văn Nhận (2002). Trắc nghiệm tâm lí lâm sàng. NXB Y học. (Xem tiếp trang 166) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 163-166 166 chẽ, có cơ sở khoa học hơn, không được áp đặt chủ quan hoặc xem thường ý kiến của họ. Đối với những HV có những tư tưởng mới, những giải pháp hay cần phải được khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ tiếp tục nghiên cứu phát triển. 3. Kết luận Phát triển năng lực NCKH cho HV ở các trường sĩ quan quân đội nước ta hiện nay là quá trình không ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức, phát triển khả năng phương pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo của HV nhằm để nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ ở trường cũng như trên cương vị công tác mới sau khi tốt nghiệp ra trường. Hoạt động này có vai trò to lớn không chỉ đối với quá trình phát triển các phẩm chất năng lực của HV, đối với việc thực hiện các nhiệm vụ của họ trong quá trình GD-ĐT mà còn có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện nhiệm vụ của của họ sau khi tốt nghiệp ra trường; góp phần tích cực vào hoạt động xây dựng nhà trường quân đội, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Tài liệu tham khảo [1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [2] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [3] Tổng cục Chính trị (2014). Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. NXB Quân đội nhân dân. [4] Trần Thị Bảo Khanh (2014). Phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10, tr 83-87. [5] Nguyễn Thị Lan (2016). Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam - Từ quan điểm đến giải pháp. Tạp chí Lí luận chính trị, số 7, tr 34-38. [6] Bộ GD-ĐT (2000). Quy chế về nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng (Ban hành kèm theo Quyết định số 08/2000/ QĐ-BGDĐT ngày 30/03/2000 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). [7] Nguyễn Đức Chính - Nguyễn Phương Nga (2006). Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học của giảng viên trong Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, mã số: QGTĐ.02.06. [8] Bộ Quốc phòng (2000). Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam. NXB Quân đội nhân dân. [9] Cục Tư tưởng - Văn hóa (1995). Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong lĩnh vực quân sự. NXB Quân đội nhân dân. [10] Phạm Minh Hạc - Thái Duy Tuyên (2014). Định hướng giá trị con người Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. THỰC TRẠNG TRẦM CẢM Ở HỌC SINH... (Tiếp theo trang 150) [4] Bradley T. Erford - Breann M. Erford - Gina Lattanzi - Janet Weiler - Hallie Schein -Emily Wolf - Meredith Hughes - Jenna Darrow - Janet Savin Murphy - Elizabeth Peacock (2011). Counseling Outcomes From 1990 to 2008 for School-Age Youth With Depression: A Meta-Analysis. Journal of Counseling and Development, Fall 2011, Vol. 89, pp. 439-457. [5] Carmen R. Wilson VanVoorhis - Tracie L. Blumentritt (2007). Psychometric Properties of the Beck Depression Inventory-II in a Clinically- Identified Sample of Mexican American Adolescents. Journal Child Fam Study Vol. 16, pp. 789-798. [6] Đặng Hoàng Minh (2013). Sức khỏe tâm thần của trẻ em Việt Nam: Thực trạng và các yếu tố nguy cơ. Hội thảo về “Thực trạng và thách thức về sức khỏe tâm thần ở trẻ em Việt Nam”, Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 25-32. [7] Nguyễn Đăng Dung - Nguyễn Văn Siêm (1991). Rối loạn trầm cảm (Bách khoa thư bệnh học, tập I). NXB Y học. [8] Dương Thị Diệu Hoa (chủ biên, 2008). Giáo trình tâm lí học phát triển. NXB Đại học Sư phạm. [9] Đặng Phương Kiệt (1998). Stress và đời sống. NXB Khoa học xã hội. [10] Cong V. Tran - David A. Cole - Bahr Weiss (2012). Testing Reciprocal Longitudinal Relations Between Peer Victimization and Depressive Symptoms in Young Adolescents, Journal of Clinical Child and Adolescent Psychology, Vol. 41(3), pp. 353-360.
File đính kèm:
- thuc_trang_tram_cam_o_hoc_sinh_trung_hoc_pho_thong_nghien_cu.pdf