Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ - Di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc và nhân loại

Tóm tắt

Bài viết khảo sát và hệ thống những thực trạng khó khăn đang vướng mắc của nghệ thuật diễn

xướng Dù kê Khmer Nam Bộ, đồng thời tìm ra những nguyên nhân tích cực và hạn chế của loại hình

nghệ thuật độc đáo này. Từ đó đề xuất những kiến nghị về việc bảo tồn, phát triển nghệ thuật sân khấu

Dù kê Nam Bộ - di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc và nhân loại.

pdf 7 trang yennguyen 9040
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ - Di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc và nhân loại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ - Di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc và nhân loại

Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ - Di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc và nhân loại
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014106 Soá 13, thaùng 3/2014 107
lâu đời, có nhiều đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp 
không chuyên đang hoạt động, hơn hết đây là địa 
phương có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh 
sống với khoảng 317.2032 người Khmer, đó chính 
là nguồn khán giả to lớn đủ sức nuôi dưỡng và phát 
triển nghệ thuật biểu diễn Dù kê Khmer Nam Bộ 
hiện nay. 
Thứ tư xây dựng kế hoạch tìm kiếm tài năng 
nghệ thuật
Phối hợp với ngành giáo dục, nơi có các trường 
dân tộc nội trú tạo điều kiện cho các đoàn nghệ 
thuật một năm trình diễn phục vụ cho các em ít nhất 
một lần để tạo điều kiện giao lưu, khơi gợi niềm 
đam mê nghệ thuật và cơ hội tìm kiếm tài năng trẻ 
từ những ngôi trường dân tộc nội trú nơi có đông 
học sinh người Khmer sinh sống và học tập.
Xây dựng kế hoạch lâu dài trong công tác tổ 
chức các cuộc thi tìm kiếm tài năng trẻ, các cuộc 
thi sáng tác tác phẩm Dù kê đương đại thật bài 
bản với đề tài, tiêu chí cụ thể được diễn ra với qui 
mô rộng và có những giải thưởng xứng đáng dành 
cho người thắng cuộc. Hoạt động trên phải diễn ra 
thường niên để tạo được thương hiệu riêng giúp 
mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội nắm bắt thông 
tin tham gia.
Thứ năm sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
 Hiện nay, để tạo thêm sự ấn tượng, thu hút 
nhiều đối tượng khán giả và để có được một vở diễn 
nghệ thuật thành công, đi vào lòng công chúng, 
cần phải có sự đầu tư những công nghệ hiện đại 
như sân khấu, âm thanh, ánh sáng, micrô... Việc 
tận dụng công nghệ vào diễn xuất trên sân khấu 
đòi hỏi các nhà quản lí, đạo diễn, diễn viên, nhạc 
công, phải lựa chọn một cách phù hợp, tránh sử 
dụng một cách tùy tiện thô thiễn dễ gây phản cảm, 
mất đi sự mộc mạc vốn có của loại hình nghệ thuật 
Dù kê Khmer Nam Bộ.
Tận dụng công nghệ truyền thông hiện đại 
để phục vụ cho công tác quảng bá hình ảnh của 
các đoàn nghệ thuật Dù kê ở các địa phương. Lên 
chương trình và dàn dựng nhiều vở diễn có chất 
lượng đưa Dù kê truyền thống ngày càng đến gần 
với khán giả truyền hình, một loại hình nghệ thuật 
thân thiết với người dân Khmer. Cần có những 
giờ phát sóng cố định đối với chương trình Dù 
kê trong tuần hoặc trong tháng trên sóng truyền 
2 Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Tổng cục 
Thống kê.
thanh, truyền hình, nhằm tạo sân chơi cho các diễn 
viên và người làm nghệ thuật. Ngoài ra, cần tính 
đến công tác in thành đĩa, xuất bản các tác phẩm 
nghệ thuật Dù kê.
Có thể nói, bảo tồn phát huy nghệ thuật Dù kê 
Khmer là vấn đề lý luận, thực tiễn đã và đang đặt ra. 
Để làm tốt công tác bảo tồn và phát huy nghệ thuật 
Dù kê cần đòi hỏi phải có sự đồng thuận, chung 
tay từ các cấp quản lí văn hóa, giới văn nghệ sĩ, 
nghệ nhân và các tầng lớp nhân dân. Các phương 
pháp đề ra cần thực hiện đồng bộ để hoạt động biểu 
diễn Dù kê nói riêng và nghệ thuật biểu diễn truyền 
thống nói chung ngày càng nhận được sự đón nhận 
nồng nhiệt hơn nữa của bà con Khmer.
4. Kết luận
Dù kê là một loại hình nghệ thuật sân khấu ẩn 
chứa những giá trị văn hoá tinh thần vô cùng độc 
đáo của người Khmer Nam Bộ. Việc quan trọng 
và cần làm hiện nay là định hướng bảo tồn phát 
triển nghệ thuật Dù kê có trọng tâm, trọng điểm 
cần tránh đầu tư như vết dầu loang không xác định 
mục tiêu cụ thể sẽ rất khó thành công. Việc bảo 
tồn và phát huy đúng, kịp thời sẽ giống như liều 
thuốc kháng sinh làm tăng sức đề kháng đối với 
giá trị nghệ thuật biểu diễn truyền thống của dân 
tộc, đồng thời cũng ngăn ngừa, làm lu mờ sự xâm 
nhập một cách ồ ạt của các loại hình giải trí ngoại 
lai, không phù hợp thuần phong mỹ tục xuất hiện 
ngày càng nhiều vào đời sống văn hóa xã hội của 
dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa. 
Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng sản Việt Nam. 1998. Văn kiện Hội 
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa 
VIII. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân 
tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Nhiều tác giả. 1998. Về sân khấu truyền thống 
Khmer Nam Bộ. Sở Văn hóa Thông tin Sóc Trăng 
và Phân viện Văn hóa nghệ thuật TP.HCM xuất bản.
Trần Văn Bính chủ biên. 2002. Giáo trình lý 
luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng. 
NXB Hà Nội.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN 
NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ NAM BỘ - 
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI 
Võ Thành Hùng1 
Tóm tắt
Bài viết khảo sát và hệ thống những thực trạng khó khăn đang vướng mắc của nghệ thuật diễn 
xướng Dù kê Khmer Nam Bộ, đồng thời tìm ra những nguyên nhân tích cực và hạn chế của loại hình 
nghệ thuật độc đáo này. Từ đó đề xuất những kiến nghị về việc bảo tồn, phát triển nghệ thuật sân khấu 
Dù kê Nam Bộ - di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc và nhân loại....
Từ khóa: sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ, di sản văn hóa.
Abstract
This paper is to research and synthesize the actual situation of Southern Khmer Du ke theatre, and 
to find out its reasons and limitations. Then recommendations are proposed to preserve and develop Du 
ke theatre art in the South of Vietnam – the intangible cultural heritage of the nation and mankind.
Keywords: Southern Khmer Du ke theatre, cultural heritage 
1 Thạc sĩ, Phó Vụ trưởng Vụ Xây dựng Hệ thống Chính trị, 
Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ
1. Đặt vấn đề
Với lịch sử trên 300 năm hình thành và phát 
triển, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được 
xem là người con út, “sinh sau đẻ muộn” của 
đất mẹ Việt Nam. Tuy nhiên, thiên nhiên trù phú 
cùng với sự cộng cư của nhiều dân tộc anh em đã 
tạo cho vùng đất này một bản sắc văn hóa riêng, 
phong phú, đa dạng và độc đáo mà không nơi nào 
có được. Những di sản văn hóa này kết tinh bằng 
trí tuệ, sức sáng tạo của biết bao thế hệ nhân dân 
lao động của vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa 
này, trong đó có nghệ thuật diễn xướng và sân khấu 
dân gian của các cộng đồng dân tộc: Kinh, Khmer, 
Hoa, Chăm. Theo thời gian và biến thiên của cuộc 
sống hiện đại, những loại hình văn hóa ấy đang 
đứng trước nguy cơ mai một. Việc giữ gìn và phát 
huy bản sắc văn hóa ĐBSCL nói chung và nghệ 
thuật sân khấu Dù kê nói riêng đang đặt ra trách 
nhiệm cho thế hệ hôm nay. Xây dựng những giải 
pháp nào để bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân 
khấu Dù kê - Di sản văn hóa phi vật thể của dân 
tộc và nhân loại tiếp tục tỏa sáng là nhiệm vụ quan 
trọng, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn hiện nay.
2. Thực trạng và những giải pháp cơ bản
2.1. Một thời vàng son 
Có thể nói trong đời sống tinh thần của đồng 
bào dân tộc Khmer, nghệ thuật và sân khấu dân 
gian là người bạn đồng hành không thể thiếu được, 
cùng gắn bó với họ theo những thăng trầm của 
cuộc sống. Nghệ thuật hiện diện mọi lúc, mọi nơi, 
từ gia đình cho đến cộng đồng, nhà chùa; từ lúc 
vào mùa, xong mùa, nghỉ ngơi đến lễ hội, ma chay, 
cưới hỏi
Sau ngày miền Nam được giải phóng, những 
năm đầu phong trào văn nghệ của bà con dân tộc 
Khmer có cơ hội phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu 
thưởng thức rất cao của quần chúng. Đây là thời 
kỳ vàng son, phát triển hưng thịnh nhất của các 
loại hình sân khấu Khmer nói chung và của nghệ 
thuật sân khấu Dù kê nói riêng. Với ưu thế bởi lực 
lượng sáng tác, đội ngũ diễn viên tài năng, được 
Nhà nước bao cấp đến 80% kinh phí, Đoàn Nghệ 
thuật Khmer Ánh Bình Minh (ABM) “tung hoành” 
khắp vùng sâu vùng xa, vươn ra “lục tỉnh”. Cũng 
có thời điểm khó khăn nhưng đoàn vẫn tự biên 
soạn kịch bản, dàn dựng mới các vở ca kịch Dù kê 
(Công chúa Tứp-Săng-Va, “Ney-Đam-Mak-Phu-
Vong-Keo) rồi lặn lội khắp nơi với hơn trăm 
suất diễn/năm.
Sóc Trăng có Đoàn Rô băm Bưng Chông (Tài 
Văn - Trần Đề hiện nay) là đoàn hát “cha truyền 
con nối” đã có hàng trăm năm. Lúc còn sống vợ 
chồng ông bà Lâm Vel và Trần Thị Êl (đời thứ 
ba) dù phải bán hàng chục công đất để nuôi đoàn 
nhưng các vở diễn vẫn được lưu diễn khắp Vĩnh 
Châu, Thạch Trị, Mỹ Xuyên rồi sang các tỉnh lân 
cận Cà Mau, Trà Vinh, Bạc Liêu Cứ mỗi khi 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014108 Soá 13, thaùng 3/2014 109
đồng lúa chuyển vàng, cả bầu đoàn lại lên đường. 
Thời điểm này Sóc Trăng có trên 100 đội, câu lạc 
bộ (CLB) hát Dù kê. Các tỉnh khác như Bạc Liêu, 
An Giang, Kiên Giang cũng có hàng chục đội, nhất 
là những nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống.
Đa phần các đội, CLB đều sinh hoạt tại chùa 
Khmer. Ngoài việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, vui 
chơi giải trí của bà con trong cộng đồng (phum 
sróc), một số đội văn nghệ đã tổ chức các hoạt 
động biểu diễn, giao lưu trong và ngoài huyện vào 
những dịp lễ, tết.
2.2. Chật vật tồn tại
Tuy nhiên những năm sau này do điều kiện 
khách quan và chủ quan các đội, CLB tồn tại dưới 
hình thức văn nghệ quần chúng với quy mô nhỏ 
sau một thời gian hoạt động dần dần bị mai một 
hoặc tan rã. Nguyên nhân đa phần những người 
tham gia cho biết là không có kinh phí và thiếu 
phương tiện âm thanh, nhạc cụ hoạt động. 
Về phần mình, các đội, nhóm văn nghệ quần 
chúng của đồng bào Khmer các tỉnh đều thiếu kịch 
bản có đề tài gắn với cuộc sống đương đại của 
cộng đồng Khmer Nam Bộ... Nhiều đội văn nghệ 
không có tiết mục mới. Đội ngũ nghệ nhân và diễn 
viên ngày càng ít đi.
Hiện các tỉnh có đông đồng bào Khmer chỉ 
còn một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp với suất 
diễn khiêm tốn chưa đáp ứng được nhu cầu sinh 
hoạt văn nghệ của đồng bào, nhất là ở vùng sâu, 
vùng xa.
Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình văn hóa 
dân gian khác, Dù kê cũng đang gặp khó khăn 
trong quá trình bảo tồn, phát triển. Dù kê tuy đã 
thấm đẫm tâm hồn bà con người Khmer Sóc Trăng, 
Bạc Liêu, Trà Vinh, Kiên Giang, nhưng lớp trẻ 
hiện đang đứng trước nhiều chọn lựa. Nhiều dòng 
nhạc khác, nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ khác 
đến với vùng đất này. Đó là điều tất nhiên không 
tránh khỏi. Thêm nữa, do thời gian diễn kéo dài 
(4-5 giờ một vở) nên cũng làm cho lớp trẻ gặp khó 
khăn khi thưởng thức, theo dõi.
2.3. Truyền dạy khó đủ bề
Hằng năm, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc 
Trăng đều tổ chức lớp tập huấn một số loại hình 
nghệ thuật biểu diễn của đồng bào Khmer cho các 
diễn viên, nhạc công của Đoàn. Các học viên được 
tiếp cận với nhiều thể loại, gồm múa dân gian, 
múa cổ điển, nhiều động tác múa trong sân khấu 
Rô băm, vũ đạo, các bài hát, vai diễn trong sân 
khấu Dù kê, diễn tấu dàn nhạc ngũ âm, dàn nhạc 
Rô băm và phương pháp xây dựng tiểu phẩm, do 
các diễn viên, nhạc công của Đoàn có nhiều năm 
kinh nghiệm truyền đạt, tại đây không khí khá sinh 
động, các học viên rất say mê với hai loại hình 
nghệ thuật này. 
Ở loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê, Đoàn 
Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng đã tuyển chọn một 
số bài hát để diễn viên, nhạc công luyện tập, gồm 
các bài: ma đa cha, kon rây, ma hô thay, mai on, 
nô rô đom, sô ra dông, kết hợp cùng nhiều vũ 
đạo và các vai diễn trong vở tuồng Dù kê. Dù kê là 
loại hình ca kịch mang tính tổng hợp, trong đó có 
ca, múa, nhạc, kịch chứa đầy màu sắc rực rỡ, phối 
hợp giữa hai yếu tố ước lệ và cách điệu, dân tộc và 
hiện đại, với đề tài đa dạng, phong phú được duy 
trì, phát triển cho đến hôm nay. Ông Thạch Chăm 
Rơn - Trưởng Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc 
Trăng, cũng là một nghệ sĩ Dù kê cho biết: “Dù 
kê là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Tây 
Nam Bộ. Từ khi hình thành, loại hình sân khấu 
này đã đi sâu vào lòng bà con Khmer Sóc Trăng 
và các tỉnh lân cận khác. Đây là món ăn tinh thần, 
có giá trị rất lớn đối với người dân Khmer ở các 
địa phương. Ngoài giá trị về mặt tinh thần, các vở 
diễn của sân khấu Dù kê còn mang tính giáo dục, 
tính nhân văn và giá trị thẩm mỹ, hướng con người 
ngày càng hoàn thiện hơn”.
Tuy nhiên cả vùng Tây Nam Bộ hiện chỉ còn 
ba đoàn nghệ thuật Khmer chuyên nghiệp ở Trà 
Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang nhưng hoạt động khá 
vất vả (có đoàn mỗi khi diễn, nhất là vai Chằn - 
nhân vật quan trọng trong Dù kê - phải chạy hợp 
đồng với số diễn viên về hưu). ĐBSCL chỉ còn 3 
đội tại cơ sở (của xã Tham Đôn, Phú Tân và Phú 
Mỹ) nhưng cũng rất bấp bênh trong việc bảo tồn 
lưu diễn. Bởi nghệ thuật sân khấu Dù kê đang phải 
đối mặt với hai khó khăn rất lớn, đó là nguồn nhân 
lực trẻ và kịch bản. Ngày càng ít thanh niên đi học 
Dù kê nên tuyển được một người diễn Dù kê là rất 
khó. Học biểu diễn Dù kê cũng không dễ, vì người 
thể hiện phải có năng khiếu cả về ca, múa, cảm thụ 
văn học, cảm thụ nghệ thuật và diễn xuất. Người 
muốn theo nghề phải có niềm đam mê mãnh liệt 
với sân khấu truyền thống của dân tộc mình thì 
mới hy vọng thành công. Dù kê là một loại hình 
biểu diễn sân khấu tổng hợp, một người diễn phải 
làm được nhiều việc, do đó sự luyện rèn là khá 
công phu. Xuất phát của biểu diễn Dù kê là những 
cuộc vui được tổ chức tại chùa, không bán vé thu 
tiền, mà ai tự nguyện đóng góp thì đóng, nên yếu 
tố “thương mại” hầu như xa lạ với người dân trong 
vùng. Do đó, cuộc sống vật chất của những người 
theo Dù kê là khó khăn.
Riêng về kịch bản, có thể nói ngay rằng đội 
ngũ sáng tác cho sân khấu Dù kê không nhiều. 
Do đó, các đội Dù kê thường chỉ diễn đi diễn lại 
những vở diễn đã định hình, đặc biệt là những vở 
mang tính lịch sử. Những vở diễn nội dung ngày 
hôm nay hầu như vắng bóng nên khó thu hút lớp 
trẻ. Dù kê là loại hình tổng hợp nên đòi hỏi trình 
độ của người viết phải am hiểu nghệ thuật biểu 
diễn, có vốn sống, thực tiễn cao. Thế nhưng, công 
tác đào tạo nhân lực cho nghệ thuật này chủ yếu 
dựa vào việc truyền nghề tại các đoàn nên chậm 
và không theo sát được tốc độ phát triển của nhịp 
sống đương đại.
2.4. Vẫn trăn trở việc bảo tồn, phát huy
Những loại hình văn hóa phi vật thể như nghệ 
thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ đang trên đà mai 
một, rất cần đầu tư nghiên cứu, phục dựng lại, tiếp 
sức cho loại hình di sản này. Đây là công việc rất 
khó khăn, cần phải đầu tư nhiều công sức nghiên 
cứu để tìm được cách thức tốt nhất, phù hợp nhất 
với việc phục hồi loại hình vốn đã từng xuất hiện 
và tồn tại trong đời sống của cư dân ĐBSCL trước 
đây. Bên cạnh đầu tư kinh phí cho các hoạt động 
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật này 
đang trên đà thất truyền hoặc có nguy cơ bị mai 
một phải được ưu tiên hàng đầu; cần phải mở rộng 
các hình thức xã hội hóa để mọi người dân, mọi tổ 
chức xã hội có thể tham gia vào hoạt động bảo tồn 
di sản nghệ thuật sân khấu phi vật thể nói chung và 
Dù kê nói riêng.
Một trong những nguyên tắc cần phải quan 
tâm đó là chúng ta tiến hành điều tra, sưu tầm, thu 
thập, ghi chép lại các dạng thức văn hóa phi vật 
thể, những kỹ năng, kỹ thuật, nghệ thuật, những 
tri thức do nghệ nhân sử dụng trong trình diễn các 
loại hình nghệ thuật hay các công đoạn sáng tác 
các kịch bản, tác phẩm nghệ thuật ca, múa, kịch 
này bằng việc ghi chép, ghi âm, ghi hình. Từ đó, 
toàn bộ mọi hoạt động của một vở diễn sân khấu Dù 
kê có thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các dữ liệu, 
bảo tàng tỉnh và các viện nghiên cứu. Đó là cơ sở 
giúp chúng ta có căn cứ để  ... g dự án cụ thể như quay phim tư liệu, mở 
lớp truyền nghề. Đặc biệt là sự ra đời của Bảo tàng 
Văn hóa Khmer các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh 
Mong rằng, các liên hoan sẽ góp thêm lửa trong 
bảo tồn và phát huy giá trị di sản sân khấu này.
Ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch phối hợp 
với ngành Giáo dục - Đào tạo sớm có kế hoạch 
biên soạn hoàn chỉnh bộ giáo án về Sân khấu Dù 
kê Nam Bộ để đủ điều kiện giảng dạy ở các cấp 
trong nhà trường, những người giúp cho việc này 
không ai khác hơn là các nghệ sỹ và các nghệ nhân.
Đã đến lúc chúng ta phải đánh giá và nhìn 
nhận nghiêm túc những nguyên nhân sâu xa tác 
động trực tiếp đến việc bảo tồn và phát huy nghệ 
thuật truyền thống tại mỗi địa phương. Mỗi nơi 
đều có những điều kiện khác nhau và bước thực 
hiện cũng không giống nhau, nhưng tựu trung lại 
vẫn có chung một nguyên nhân gốc rễ, đó là nhân 
tố con người.
Con người ở đây là khách thể của đối tượng 
quản lý nhà nước nhưng lại là chủ thể của sự bảo 
tồn và phát triển dòng nghệ thuật như Sân khấu 
Dù kê Nam Bộ. Với sự tác động của nền kinh tế 
thị trường, việc “thổi hồn” cho những người “giữ 
lửa” nghệ thuật Sân khấu Dù kê Nam Bộ là một 
yêu cầu hết sức quan trọng và cấp thiết. Hiện tại, 
những người “giữ lửa” đang có chiều hướng mai 
một, trong khi đó, nhân tố kế thừa còn rất khiêm 
tốn. Việc đào tạo lực lượng kế thừa là một giải 
pháp mang tính chiến lược. Nếu như ở các trường 
phổ thông đào tạo theo dạng hướng nghiệp, phát 
hiện năng khiếu thì ở trường Trung học, Cao đẳng 
và Đại học Văn hóa - nghệ thuật, các thiết chế của 
ngành Văn hóa - Thể dục và Du lịch sẽ là nơi đào 
tạo chuyên sâu, đúng căn cơ, bài bản. Muốn đào 
tạo tốt cần có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên 
môn cao, có phương pháp sư phạm tốt, có lòng say 
mê nghề nghiệp; bên cạnh việc đầu tư phòng ốc, 
nhạc cụ, âm thanh ánh sáng, các thiết chế cho 
hoạt động sân khấu này.
Chúng ta cần xác định loại hình Sân khấu Dù 
kê Nam Bộ là sản phẩm văn hóa phi vật thể, trong 
thực tế các tư liệu đối với loại hình này đang mai 
một, khan hiếm, vì vậy công tác sưu tầm và nghiên 
cứu rất cần thiết, nhằm hệ thống, biên soạn thành 
những tài liệu chính thống, nhằm bảo tồn, lưu 
truyền và làm cho loại hình này tiếp tục phát triển.
Để công tác nghiên cứu, sưu tầm đạt kết quả 
tốt, nên tiến hành các bước nghiệp vụ như điều tra 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014112 Soá 13, thaùng 3/2014 113
xã hội học về nhu cầu của quần chúng nhân dân 
đối với loại hình nghệ thuật này, hệ thống hóa từng 
cụm chuyên đề, tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo 
khoa học chuyên đề về Sân khấu Dù kê Nam Bộ 
như Hội thảo khoa học “Nghệ thuật sân khấu Dù kê 
Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” tổ chức 
tại Trường Đại học Trà Vinh tháng 11/2013. Sau 
khi sưu tầm sẽ phổ biến rộng rãi trong cộng đồng 
dân cư Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
Ưu thế của loại hình sân khấu Dù kê Nam Bộ 
từ xưa tới nay là thể hiện tính xã hội hóa rất cao so 
với các loại hình nghệ thuật khác, nhưng điểm yếu 
của nó là chưa có những định hướng chiến lược 
phát triển từng giai đoạn và lâu dài. Nhà nước và 
ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch cần nghiên 
cứu những yếu tố tích cực trong xã hội hóa Sân 
khấu Dù kê ở Nam Bộ thời gian qua để tiếp tục 
chỉ đạo thực hiện. Để có thể hoàn thành nhiệm 
vụ chiến lược về bảo tồn và phát huy bản sắc văn 
hóa dân tộc nói chung, của nghệ thuật sân khấu 
Dù kê Nam Bộ, dòng nghệ thuật đặc thù của Nam 
Bộ nói riêng, ngoài sự nỗ lực chủ quan của từng 
địa phương với những thế mạnh và điều kiện thực 
tế của mình, cần thiết phải có đề án cụ thể từ phía 
các cấp Trung ương. Bên cạnh việc vận động xã 
hội hóa cần có sự chủ lực tài trợ của nhà nước; tuy 
nhiên đầu tư cho chiến lược này cần tập trung, có 
trọng điểm, tránh dàn trải, chạy theo hình thức.
Bên cạnh đó, cần có chế độ, chính sách thỏa 
đáng đối với nghệ sĩ, vì việc xét tặng danh hiệu 
nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian, chế độ ưu đãi cho các 
nghệ nhân vẫn còn nhiều bất cập. Ngay các soạn 
giả cũng đã ít, thể loại nghệ thuật sân khấu lại khó, 
người biết ngôn ngữ cổ để chuyển ngữ kịch bản 
càng hiếm. Nghệ nhân Khmer ngày tuổi càng cao, 
sức yếu; dàn diễn viên của các đoàn nghệ thuật 
trung bình đã ngoài 35 - 40 tuổi, diễn viên không 
có sắc vóc, thanh tốt, da sạm nắng, hằn nếp nhăn...
Trong khi nhu cầu thẩm mỹ về ngoại hình, lời ca, 
điệu múa của các tầng lớp thưởng thức nghệ thuật 
ngày càng cao. Chính vì thế mà chúng ta thấy ngày 
càng ít đi, lớp thanh niên trẻ không mặn mà với 
các loại hình nghệ thuật dân tộc truyền thống, do 
vậy họ không có cơ hội được truyền dạy các thể 
loại ca - nhạc và sân khấu dân gian Khmer dẫn 
đến nhiều thể loại có nguy cơ bị thất truyền, trong 
đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê Còn nếu “giải 
nghệ” lứa diễn viên đã hết tuổi nghề nhưng chưa 
đến tuổi hưu; mọi chính sách nên lồng ghép trong 
các chương trình mục tiêu để tạo điều kiện chuyển 
đổi ngành, nghề phù hợp với trình độ, năng lực của 
từng người, tạo công ăn việc làm cho đội ngũ diễn 
viên này. Đồng thời, sắp xếp bố trí cử cán bộ dự 
các lớp chính trị Cao cấp, Trung cấp chính trị theo 
quy hoạch đã được ngành thông qua.
Là dòng nghệ thuật có thể nói là “kén khán 
giả” và nhất là trong giai đoạn hiện nay khi các 
dòng nghệ thuật khác đang chiếm lĩnh thị hiếu của 
đông đảo công chúng, để mọi người hiểu biết thêm 
và trân trọng, say mê loại hình sân khấu Dù kê 
Nam Bộ Nam Bộ, cần phải tổ chức tuyên truyền, 
giới thiệu bằng những hình ảnh, sự kiện cụ thể của 
hoạt động này trên báo chí, truyền hình.
Thiết nghĩ, nếu có những giải pháp đồng bộ từ 
các cấp cùng với sự tâm huyết và quyết tâm của 
những thành viên đam mê nghệ thuật sân khấu Dù 
kê Nam Bộ, hy vọng việc bảo tồn và phát triển nghệ 
thuật truyền thống sẽ có những bước chuyển mới. 
3. Kết luận
Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền 
thống của đồng bào dân tộc Khmer nói chung, 
trong đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê nói riêng, cơ 
quan hữu quan cần tạo điều kiện để thực hiện việc 
sưu tầm, đào tạo lớp diễn viên trẻ cho những môn 
nghệ thuật đặc sắc này. Ngoài ra cần đẩy mạnh hơn 
nữa công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa văn 
nghệ vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đầu tư thỏa 
đáng xây dựng thiết chế văn hóa, tăng cường công 
tác sưu tầm phổ biến các thể loại nghệ thuật và sân 
khấu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt 
khác tạo điều kiện để văn hóa dân tộc Khmer nói 
chung và sân khấu Dù kê Nam Bộ nói riêng được 
giao lưu, hợp tác và phát triển với các vùng, miền, 
khu vực và quốc tế.
Sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản nghệ 
thuật sân khấu Dù kê ở ĐBSCL có thể được đẩy 
mạnh và đạt hiệu quả khi người dân tự giác tham 
gia. Việc giáo dục để nâng cao ý thức của người 
dân, khơi dậy ở họ lòng tự hào đối với di sản văn 
hóa của cộng đồng mình là công việc có ý nghĩa 
quan trọng để hướng người dân chủ động tìm tòi, 
sưu tầm và bảo tồn loại hình di sản sân khấu phi 
vật thể này, mặt khác, cần có sự phối hợp đồng 
bộ của chính quyền địa phương, các cơ quan, ban, 
ngành, đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa cơ sở để 
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản sân khấu 
Dù kê ở ĐBSCL một cách hiệu quả và thiết thực 
nhất. Cụ thể là cần đưa Đề án bảo tồn với những 
nội dung về đầu tư xây dựng là công trình văn hóa 
trọng điểm, mang tính hiện đại (sân khấu biểu 
diễn), đạt tầm khu vực và thế giới. Trong đó, đầu 
tư cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn 
hóa, phát triển bảo tàng cũng là một nhu cầu bức 
xúc, cần có quy hoạch phát triển lâu dài, sự quan 
tâm đầu tư đúng mức và cơ chế đặc thù cho thiết 
chế văn hóa phi vật thể quan trọng này.
Tài liệu tham khảo
Ngô Đức Thịnh. 2004. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ. Tp. Hồ 
Chí Minh.
Thạch Voi. 1988. Khái quát về người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Tiền Văn Triệu 2011. Hai loại hình sân khấu của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Nghệ 
thuật. số 330.
Trần Ngọc Thêm. 26/3/2008. Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ như một hệ thống. Xem < http://
www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/408-tran-ngoc-them-tinh-cach-van-
hoa-nguoi-viet-nam-bo.html.>
Trần Ngọc Thêm. 2001. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb.Tp.Hồ Chí Minh.
Trần Văn Bính. 2004. Văn hóa dân tộc Tây Nam Bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra. NXB Chính 
trị Quốc gia.
Trương Công Khả. 2005. Tưng bừng “Ngày hội văn hoá thể thao Khmer Nam Bộ” lần thứ 3. Báo 
Thanh Niên. 
Võ Thành Hùng. 2011. Nghi lễ Vòng đời người Khmer tỉnh Sóc Trăng. NXB Văn hóa Dân tộc. 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014112 Soá 13, thaùng 3/2014 113
xã hội học về nhu cầu của quần chúng nhân dân 
đối với loại hình nghệ thuật này, hệ thống hóa từng 
cụm chuyên đề, tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo 
khoa học chuyên đề về Sân khấu Dù kê Nam Bộ 
như Hội thảo khoa học “Nghệ thuật sân khấu Dù kê 
Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc” tổ chức 
tại Trường Đại học Trà Vinh tháng 11/2013. Sau 
khi sưu tầm sẽ phổ biến rộng rãi trong cộng đồng 
dân cư Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
Ưu thế của loại hình sân khấu Dù kê Nam Bộ 
từ xưa tới nay là thể hiện tính xã hội hóa rất cao so 
với các loại hình nghệ thuật khác, nhưng điểm yếu 
của nó là chưa có những định hướng chiến lược 
phát triển từng giai đoạn và lâu dài. Nhà nước và 
ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch cần nghiên 
cứu những yếu tố tích cực trong xã hội hóa Sân 
khấu Dù kê ở Nam Bộ thời gian qua để tiếp tục 
chỉ đạo thực hiện. Để có thể hoàn thành nhiệm 
vụ chiến lược về bảo tồn và phát huy bản sắc văn 
hóa dân tộc nói chung, của nghệ thuật sân khấu 
Dù kê Nam Bộ, dòng nghệ thuật đặc thù của Nam 
Bộ nói riêng, ngoài sự nỗ lực chủ quan của từng 
địa phương với những thế mạnh và điều kiện thực 
tế của mình, cần thiết phải có đề án cụ thể từ phía 
các cấp Trung ương. Bên cạnh việc vận động xã 
hội hóa cần có sự chủ lực tài trợ của nhà nước; tuy 
nhiên đầu tư cho chiến lược này cần tập trung, có 
trọng điểm, tránh dàn trải, chạy theo hình thức.
Bên cạnh đó, cần có chế độ, chính sách thỏa 
đáng đối với nghệ sĩ, vì việc xét tặng danh hiệu 
nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian, chế độ ưu đãi cho các 
nghệ nhân vẫn còn nhiều bất cập. Ngay các soạn 
giả cũng đã ít, thể loại nghệ thuật sân khấu lại khó, 
người biết ngôn ngữ cổ để chuyển ngữ kịch bản 
càng hiếm. Nghệ nhân Khmer ngày tuổi càng cao, 
sức yếu; dàn diễn viên của các đoàn nghệ thuật 
trung bình đã ngoài 35 - 40 tuổi, diễn viên không 
có sắc vóc, thanh tốt, da sạm nắng, hằn nếp nhăn...
Trong khi nhu cầu thẩm mỹ về ngoại hình, lời ca, 
điệu múa của các tầng lớp thưởng thức nghệ thuật 
ngày càng cao. Chính vì thế mà chúng ta thấy ngày 
càng ít đi, lớp thanh niên trẻ không mặn mà với 
các loại hình nghệ thuật dân tộc truyền thống, do 
vậy họ không có cơ hội được truyền dạy các thể 
loại ca - nhạc và sân khấu dân gian Khmer dẫn 
đến nhiều thể loại có nguy cơ bị thất truyền, trong 
đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê Còn nếu “giải 
nghệ” lứa diễn viên đã hết tuổi nghề nhưng chưa 
đến tuổi hưu; mọi chính sách nên lồng ghép trong 
các chương trình mục tiêu để tạo điều kiện chuyển 
đổi ngành, nghề phù hợp với trình độ, năng lực của 
từng người, tạo công ăn việc làm cho đội ngũ diễn 
viên này. Đồng thời, sắp xếp bố trí cử cán bộ dự 
các lớp chính trị Cao cấp, Trung cấp chính trị theo 
quy hoạch đã được ngành thông qua.
Là dòng nghệ thuật có thể nói là “kén khán 
giả” và nhất là trong giai đoạn hiện nay khi các 
dòng nghệ thuật khác đang chiếm lĩnh thị hiếu của 
đông đảo công chúng, để mọi người hiểu biết thêm 
và trân trọng, say mê loại hình sân khấu Dù kê 
Nam Bộ Nam Bộ, cần phải tổ chức tuyên truyền, 
giới thiệu bằng những hình ảnh, sự kiện cụ thể của 
hoạt động này trên báo chí, truyền hình.
Thiết nghĩ, nếu có những giải pháp đồng bộ từ 
các cấp cùng với sự tâm huyết và quyết tâm của 
những thành viên đam mê nghệ thuật sân khấu Dù 
kê Nam Bộ, hy vọng việc bảo tồn và phát triển nghệ 
thuật truyền thống sẽ có những bước chuyển mới. 
3. Kết luận
Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền 
thống của đồng bào dân tộc Khmer nói chung, 
trong đó có nghệ thuật sân khấu Dù kê nói riêng, cơ 
quan hữu quan cần tạo điều kiện để thực hiện việc 
sưu tầm, đào tạo lớp diễn viên trẻ cho những môn 
nghệ thuật đặc sắc này. Ngoài ra cần đẩy mạnh hơn 
nữa công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa văn 
nghệ vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đầu tư thỏa 
đáng xây dựng thiết chế văn hóa, tăng cường công 
tác sưu tầm phổ biến các thể loại nghệ thuật và sân 
khấu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt 
khác tạo điều kiện để văn hóa dân tộc Khmer nói 
chung và sân khấu Dù kê Nam Bộ nói riêng được 
giao lưu, hợp tác và phát triển với các vùng, miền, 
khu vực và quốc tế.
Sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản nghệ 
thuật sân khấu Dù kê ở ĐBSCL có thể được đẩy 
mạnh và đạt hiệu quả khi người dân tự giác tham 
gia. Việc giáo dục để nâng cao ý thức của người 
dân, khơi dậy ở họ lòng tự hào đối với di sản văn 
hóa của cộng đồng mình là công việc có ý nghĩa 
quan trọng để hướng người dân chủ động tìm tòi, 
sưu tầm và bảo tồn loại hình di sản sân khấu phi 
vật thể này, mặt khác, cần có sự phối hợp đồng 
bộ của chính quyền địa phương, các cơ quan, ban, 
ngành, đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa cơ sở để 
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản sân khấu 
Dù kê ở ĐBSCL một cách hiệu quả và thiết thực 
nhất. Cụ thể là cần đưa Đề án bảo tồn với những 
nội dung về đầu tư xây dựng là công trình văn hóa 
trọng điểm, mang tính hiện đại (sân khấu biểu 
diễn), đạt tầm khu vực và thế giới. Trong đó, đầu 
tư cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn 
hóa, phát triển bảo tàng cũng là một nhu cầu bức 
xúc, cần có quy hoạch phát triển lâu dài, sự quan 
tâm đầu tư đúng mức và cơ chế đặc thù cho thiết 
chế văn hóa phi vật thể quan trọng này.
Tài liệu tham khảo
Ngô Đức Thịnh. 2004. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ. Tp. Hồ 
Chí Minh.
Thạch Voi. 1988. Khái quát về người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Tiền Văn Triệu 2011. Hai loại hình sân khấu của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Nghệ 
thuật. số 330.
Trần Ngọc Thêm. 26/3/2008. Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ như một hệ thống. Xem < http://
www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/408-tran-ngoc-them-tinh-cach-van-
hoa-nguoi-viet-nam-bo.html.>
Trần Ngọc Thêm. 2001. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb.Tp.Hồ Chí Minh.
Trần Văn Bính. 2004. Văn hóa dân tộc Tây Nam Bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra. NXB Chính 
trị Quốc gia.
Trương Công Khả. 2005. Tưng bừng “Ngày hội văn hoá thể thao Khmer Nam Bộ” lần thứ 3. Báo 
Thanh Niên. 
Võ Thành Hùng. 2011. Nghi lễ Vòng đời người Khmer tỉnh Sóc Trăng. NXB Văn hóa Dân tộc. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_giai_phap_bao_ton_phat_trien_nghe_thuat_san_kh.pdf