Tiến tới hòa hợp, thống nhất giữa kế toán trong lĩnh vực nhà nước Việt Nam với chuẩn mực kế toán công quốc tế

Tóm tắt: Trong xu thế hội nhập, các quốc gia phải lập báo cáo tài chính (BCTC) hợp nhất

cho toàn bộ lĩnh vực công theo khuôn mẫu thống nhất của chuẩn mực kế toán (CMKT) công

quốc tế nhằm phản ánh tình hình tài chính, kết quả hoạt động và xác định thặng dư, thâm hụt

thuần cho từng năm để có thể so sánh trên phạm vi toàn cầu theo một tiêu chí chung nhất.

BCTC của từng quốc gia không phù hợp với CMKT công quốc tế thì không thể so sánh và

khó có thể có sự thừa nhận của quốc tế đối với quốc gia đó. Đây chính là nội dung quan

trọng mà tất cả các cam kết trong quá trình hội nhập các quốc gia phải tuân thủ.

Với yêu cầu như vậy, Việt Nam có đáp ứng được không? Có cần thiết không? Với hoạt động

kinh kế, đầu tư đa quốc gia thì có cần phải công bố các thông tin minh bạch? Điều đó sẽ

mang lại những lợi thế gì cho Việt Nam? Để trả lời những câu hỏi này, cần xem xét những

nội dung liên quan đến BCTC theo CMKT công quốc tế và theo chế độ kế toán hành chính sự

nghiệp (HCSN) ở Việt Nam

pdf 5 trang yennguyen 8320
Bạn đang xem tài liệu "Tiến tới hòa hợp, thống nhất giữa kế toán trong lĩnh vực nhà nước Việt Nam với chuẩn mực kế toán công quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiến tới hòa hợp, thống nhất giữa kế toán trong lĩnh vực nhà nước Việt Nam với chuẩn mực kế toán công quốc tế

Tiến tới hòa hợp, thống nhất giữa kế toán trong lĩnh vực nhà nước Việt Nam với chuẩn mực kế toán công quốc tế
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013 121 
TIẾN TỚI HÒA HỢP, THỐNG NHẤT GIỮA KẾ TOÁN TRONG LĨNH VỰC 
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI CHUẨN MỰC KẾ TOÁN CÔNG QUỐC TẾ
 CN. Trần Minh Loan 
 Khoa Kinh tế, trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
ThS. Lê Thị Thanh Huyền 
Học viện Ngân hàng, Phân viện Phú Yên 
Tóm tắt: Trong xu thế hội nhập, các quốc gia phải lập báo cáo tài chính (BCTC) hợp nhất 
cho toàn bộ lĩnh vực công theo khuôn mẫu thống nhất của chuẩn mực kế toán (CMKT) công 
quốc tế nhằm phản ánh tình hình tài chính, kết quả hoạt động và xác định thặng dư, thâm hụt 
thuần cho từng năm để có thể so sánh trên phạm vi toàn cầu theo một tiêu chí chung nhất. 
BCTC của từng quốc gia không phù hợp với CMKT công quốc tế thì không thể so sánh và 
khó có thể có sự thừa nhận của quốc tế đối với quốc gia đó. Đây chính là nội dung quan 
trọng mà tất cả các cam kết trong quá trình hội nhập các quốc gia phải tuân thủ. 
Với yêu cầu như vậy, Việt Nam có đáp ứng được không? Có cần thiết không? Với hoạt động 
kinh kế, đầu tư đa quốc gia thì có cần phải công bố các thông tin minh bạch? Điều đó sẽ 
mang lại những lợi thế gì cho Việt Nam? Để trả lời những câu hỏi này, cần xem xét những 
nội dung liên quan đến BCTC theo CMKT công quốc tế và theo chế độ kế toán hành chính sự 
nghiệp (HCSN) ở Việt Nam. 
1. Sự khác biệt giữa chế độ kế toán HCSN 
ở Việt Nam và CMKT công quốc tế 
a. Khác biệt quy định về hệ thống BCTC 
Theo CMKT công quốc tế (IPSAS), 
các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực công 
hàng năm phải lập BCTC là những đơn vị 
kinh tế có thể sử dụng kinh phí ngân sách 
nhà nước (NSNN) nhưng chịu sự kiểm soát 
của Chính phủ hoặc cơ quan Nhà nước có 
thẩm quyền. Các đơn vị kinh tế thuộc lĩnh 
vực công phải lập BCTC theo IPSAS là các 
đơn vị hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối 
thu, chi. Chênh lệch giữa các khoản thu (bao 
gồm cả kinh phí ngân sách cấp) đã sử dụng 
trong quá trình hoạt động là thặng dư hoặc 
thâm hụt thuần (doanh nghiệp gọi là lãi, lỗ) 
của đơn vị trong kỳ kế toán. Theo đó, 
IPSAS quy định: kế toán trên cơ sở tiền mặt 
lập một báo cáo thu – chi tiền mặt, kế toán 
trên cơ sở dồn tích lập 5 báo cáo (Báo cáo 
tình hình tài chính của đơn vị; Báo cáo kết 
quả hoạt động; Báo cáo sự thay đổi về tài 
sản thuần/Vốn chủ sở hữu; Báo cáo lưu 
chuyển tiền tệ; Chính sách kế toán và giải 
trình BCTC). 
Ở Việt Nam, chế độ kế toán HCSN 
quy định, các đơn vị HCSN phải lập 6 báo 
cáo (Báo cáo tổng hợp tình hình kinh phí và 
quyết toán kinh phí đã sử dụng; Báo cáo chi 
tiết kinh phí hoạt động; Báo cáo chi tiết 
kinh phí dự án; Báo cáo thu, chi hoạt động 
sự nghiệp và hoạt động sản xuất kinh doanh 
(SXKD); Báo cáo tình hình tăng, giảm tài 
sản cố định; Báo cáo số kinh phí chưa sử 
dụng đã quyết toán năm trước chuyển sang) 
và 4 phụ biểu (Bảng cân đối tài khoản; 
Thuyết minh báo cáo tài chính; Bảng đối 
chiếu dự toán kinh phí ngân sách tại Kho 
bạc Nhà nước; Bảng đối chiếu tình hình tạm 
ứng và thanh toán tạm ứng kinh phí ngân 
sách tại Kho bạc Nhà nước). 
- Báo cáo có liên quan đến tình hình tài 
chính 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013 122 
 + IPSAS: Bảng cân đối kế toán để 
phản ánh tình hình tài chính. 
 + Chế độ kế toán HCSN ở Việt Nam: 
Bảng cân đối tài khoản. Thực chất đây chỉ là 
một phương pháp kiểm tra của kế toán. Bảng 
cân đối tài khoản không phản ánh được tình 
hình tài chính, thực trạng, tài sản, nguồn vốn 
của đơn vị như đối với bảng cân đối kế toán. 
Do vậy, người sử dụng thông tin không thấy 
được tài sản và nợ phải trả theo hai loại ngắn 
hạn và dài hạn cũng như cơ cấu tài sản, 
nguồn vốn của đơn vị. 
- Báo cáo liên quan đến thu, chi trong quá 
trình hoạt động 
+ IPSAS: đơn vị thuộc lĩnh vực công 
phải lập Báo cáo kết quả hoạt động để phản 
ánh thu, chi trong quá trình hoạt động để xác 
định thặng dư hoặc thâm hụt của đơn vị 
trong kỳ kế toán. Toàn bộ các khoản thu bao 
gồm cả số kinh phí đã tiếp nhận và các 
khoản chi bao gồm cả số kinh phí đã sử dụng 
phát sinh trong kỳ được phản ánh vào báo 
cáo kết quả hoạt động. 
Các đơn vị thuộc lĩnh vực công phải 
xác định thặng dư hoặc thâm hụt thuần trên 
cơ sở so sánh chênh lệch các khoản thu, 
chi phát sinh trong kỳ. Và các khoản thu 
chi phát sinh trong quá trình hoạt động của 
đơn vị được phản ánh theo nguyên tắc cơ 
sở dồn tích. 
+ Chế độ kế toán HCSN ở Việt Nam: 
không lập báo cáo kết quả hoạt động mà 
toàn bộ thu, chi của đơn vị HCSN được phản 
ánh ở hai báo cáo: các khoản kinh phí đơn vị 
đã tiếp nhận và sử dụng trong kỳ kế toán 
được phản ánh riêng ở báo cáo tổng hợp tình 
hình kinh phí và quyết toán kinh phí đã sử 
dụng; các khoản thu, chi hoạt động sự 
nghiệp và hoạt động SXKD phản ánh ở báo 
cáo thu, chi hoạt động sự nghiệp và hoạt 
động SXKD. 
Toàn bộ quá trình tiếp nhận và sử 
dụng kinh phí NSNN và các khoản thu, chi 
của hoạt động sự nghiệp được phản ánh về 
cơ bản theo nguyên tắc cơ sở tiền mặt, các 
khoản thu, chi của hoạt động SXKD được 
phản ánh theo nguyên tắc cơ sở dồn tích. 
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 
+ IPSAS: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 
để xác định các nguồn của những luồng tiền 
vào, những khoản mục chi bằng tiền trong 
kỳ kế toán, và số dư tiền tệ tại ngày kết thúc 
kỳ kế toán. 
+ Chế độ kế toán HCSN ở Việt Nam 
hiện nay chưa có báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 
Do đó, để thực hiện được IPSAS thì việc đầu 
tiên bắt buộc phải tiến hành là các quy định 
về quản lý ngân sách và tài chính công phải 
được nghiên cứu, xem xét để ban hành cho 
phù hợp với thông lệ chung của các nước. 
b. Khác biệt quy định về lập BCTC hợp 
nhất 
- Theo CMKT công quốc tế: đơn vị 
kinh tế (đơn vị báo cáo) là một hoặc một 
nhóm đơn vị kiểm soát và một hoặc nhiều 
đơn vị bị kiểm soát. Đơn vị kiểm soát phải 
lập BCTC hợp nhất của các đơn vị bị kiểm 
soát. Để lập BCTC hợp nhất, đơn vị kiểm 
soát phải xác định các đơn vị bị kiểm soát. 
 Kiểm soát là quyền chi phối các 
chính sách tài chính và hoạt động của đơn vị 
khác nhằm thu được lợi ích từ hoạt động của 
các đơn vị đó và đơn vị có quyền kiểm soát 
phải tuân theo qui định của pháp luật hoặc 
theo những thoả thuận chính thức, như: đơn 
vị có thẩm quyền quyết định thành lập và chi 
phối các chính sách tài chính và hoạt động; 
có quyền giải thể, thu hồi, xử lý tài sản và có 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013 123 
trách nhiệm về các khoản nợ phải trả của các 
đơn vị khi giải thể . 
Như vậy theo IPSAS, Chính phủ và 
từng Bộ, ngành, tỉnh, thành phốđều là các 
đơn vị kinh tế, đều phải lập BCTC trên cơ sở 
hệ thống CMKT công. BCTC của Chính phủ 
theo IPSAS phải được hợp nhất từ BCTC 
của tất cả các đơn vị trung gian do Chính 
phủ kiểm soát, trong đó bao gồm cả đơn vị 
được hoặc không được Nhà nước cấp kinh 
phí, vốn; đơn vị có thể hoạt động độc lập 
không được Chính phủ hoặc cơ quan nhà 
nước có thẩm quyền quyết định thành lập 
hoặc giải thểCác đơn vị chịu sự kiểm soát 
của Chính phủ phải được hợp nhất vào 
BCTC của Chính phủ. 
- Đối với Việt Nam, việc lập Báo cáo 
quyết toán ngân sách để phục vụ điều hành 
ngân sách của Quốc hội đã quá quen thuộc, 
nhưng công việc lập BCTC cho toàn bộ khu 
vực công theo hệ thống CMKT công quốc tế 
còn quá xa lạ. Các khái niệm về khu vực 
công và sử dụng CMKT công còn quá xa lạ 
và phức tạp với Việt Nam. Như đơn vị kinh 
tế trong lĩnh vực công phải lập BCTC; 
BCTC hợp nhất; đơn vị kiểm soát; đơn vị bị 
kiểm soát; kiểm soát vì mục đích BCTC; lợi 
ích và sở hữu của cổ đông thiểu số; hoạt 
động liên doanh liên kết giữa các chính phủ 
của các nước; hoạt động đầu tư, kể cả đầu tư 
của Nhà nước đã vượt ra ngoài biên giới 
quốc gia. 
Như vậy, với những khác biệt quá lớn 
về hệ thống BCTC giữa chế độ kế toán 
HCSN ở Việt Nam và CMKT công quốc tế 
thì yêu cầu các quốc gia phải lập BCTC hợp 
nhất cho toàn bộ lĩnh vực công theo khuôn 
mẫu thống nhất của IPSAS đối với Việt Nam 
ngay lúc này chưa thể áp dụng được. 
2. Những trở ngại về lập BCTC hợp nhất 
trong toàn bộ lĩnh vực công ở Việt Nam 
và những lợi thế cho Việt Nam khi hoạt 
động kinh tế, đầu tư đa quốc gia công bố 
thông tin minh bạch 
a. Những trở ngại về lập BCTC hợp nhất 
trong toàn bộ lĩnh vực công ở Việt Nam 
Việc áp dụng CMKT công quốc tế sẽ 
mang lại nhiều lợi ích như nâng cao tính 
toàn diện, công khai và minh bạch của 
BCTC; nâng cao chất lượng và tính so sánh 
giữa các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh 
vực công cũng như tính nhất quán trong việc 
lập và báo cáo các thông tin tài chính, hạn 
chế tham nhũng 
Tuy nhiên, CMKT công quốc tế được 
xây dựng trên cơ sở nền tài chính công ở các 
quốc gia phát triển ở mức độ cao, trong đó, 
quan hệ NSNN với các đơn vị sự nghiệp 
được thực hiện theo đơn đặt hàng, hoạt động 
sự nghiệp của đơn vị này được coi là các dịch 
vụ công thực hiện theo đơn đặt hàng của Nhà 
nước và khi hoàn thành nghiệm thu sẽ được 
Nhà nước thanh toán. Các đơn vị thuộc lĩnh 
vực công ở các nước này là các đơn vị hoạt 
động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, tự 
cân đối thu, chi. Như vậy, chỉ có những nước 
phát triển mới có khả năng áp dụng ngay 
chuẩn mực này. 
Ngoài ra, trong khu vực công, thể chế 
chính trị, quan hệ cấp phát, thanh toán giữa 
NSNN với các đơn vị thuộc lĩnh vực công và 
tài chính công giữa các quốc gia còn nhiều 
khác biệt. 
Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế 
giới đã hình thành các mối quan hệ quốc tế. 
Việc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới và 
khu vực như WTO, Hiệp định thương mại 
Việt- Mỹđòi hỏi Việt Nam phải cung cấp 
thông tin có tính chuẩn mực, có khả năng so 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013 124 
sánh và phải được quốc tế thừa nhận. Tuy 
nhiên, các thông tin tài chính, kế toán hiện 
hành trong lĩnh vực công cho thấy chưa có 
sự nhất quán giữa các hệ thống kế toán hiện 
nay. Lĩnh vực công của Việt Nam xét trên 
bình diện tổng thể vẫn chưa đầy đủ, hoàn 
chỉnh, chưa phù hợp với yêu cầu và thông lệ 
quốc tế. 
Chế độ kế toán HCSN ban hành kèm 
theo Quyết định 19/2006/QĐ-BTC ngày 
30/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính được 
xây dựng và ban hành trên cơ sở Luật Ngân 
sách, Luật Kế toán và các chính sách tài 
chính áp dụng cho đơn vị HCSN. Tuy nhiên, 
trong quá trình xây dựng chế độ kế toán 
HCSN, Việt Nam chưa tham khảo CMKT 
công quốc tế nên còn nhiều điểm khác biệt 
với hệ thống CMKT công quốc tế, cụ thể: tổ 
chức ngân sách lồng ghép với nhiều cấp như 
Trung ương, tỉnh, huyện, xã, trong đó, cấp 
xã vừa là một cấp ngân sách vừa là một cấp 
dự toán; yêu cầu quản lý ngân sách và các 
quy định quản lý tài chính áp dụng cho các 
đơn vị sử dụng ngân sách và các cấp ngân 
sách khá phức tạp, không giống như các 
nước khác. 
Thực tế ở Việt Nam, hệ thống BCTC 
của đơn vị HCSN theo qui định hiện hành đã 
đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước, phù 
hơp với Luật NSNN và các chính sách quản 
lý tài chính đối với các đơn vị HCSN. Tuy 
nhiên, BCTC của đơn vị HCSN hiện nay 
mới chỉ là một bộ phận cấu thành để tổng 
hợp vào báo cáo quyết toán ngân sách nhằm 
phục vụ điều hành ngân sách của Quốc hội. 
BCTC của đơn vị HCSN hiện nay chưa phải 
là BCTC của một đơn vị kinh tế bị kiểm 
soát, phục vụ cho việc lập BCTC hợp nhất 
của Chính phủ để công khai nhằm cung cấp 
đầy đủ thông tin giúp cho tất cả công dân có 
thể kiểm tra, giám sát, đánh giá năng lực tài 
chính và kết quả hoạt động của quốc gia 
trong từng năm tài chính. 
Do đó, việc lập BCTC hợp nhất trong 
toàn bộ lĩnh vực công ở Việt Nam là cần 
thiết nhưng ngay lúc này thì chưa thể thực 
hiện. Khoảng cách giữa chế độ kế toán 
HCSN ở Việt Nam với CMKT công quốc tế 
là khá lớn. 
b. Những lợi thế cho Việt Nam khi hoạt 
động kinh tế, đầu tư đa quốc gia công bố 
thông tin minh bạch 
 Kinh tế Việt Nam đang trong quá 
trình tăng trưởng và phát triển, nhận được sự 
đánh giá cao và niềm tin của các nhà đầu tư 
quốc tế về cơ hội đầu tư trung và dài hạn. 
Hiện nay, với xu thế hội nhập, khuyến khích 
đầu tư từ nước ngoài thì vấn đề công bố 
thông tin minh bạch đối với hoạt động kinh 
tế, đầu tư đa quốc gia là cần thiết, đảm bảo 
cho việc quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà 
nước, giúp nhà nước có những định hướng 
cho phát triển kinh tế, có cái nhìn đúng đắn 
về các hoạt động đầu tư để từ đó đưa ra 
những chính sách phù hợp cho hoạt động 
đầu tư. 
 Học hỏi được kinh nghiệm quản lý, tổ 
chức, phương thức hoạt động từ các hoạt 
động đầu tư đa quốc gia. 
 Việc minh bạch thông tin giúp các 
nhà đầu tư trong nước có những quyết định 
đúng đắn, phù hợp với lợi ích của họ khi 
tham gia vào các hoạt động kinh tế. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 1-2013 125 
Tóm lại, trong xu thế hội nhập, các quốc gia 
phải lập BCTC hợp nhất cho toàn bộ lĩnh 
vực công theo khuôn mẫu thống nhất của 
IPSAS để phản ánh tình hình tài chính, kết 
quả hoạt động và xác định thặng dư, thâm 
hụt cho từng năm để có thể so sánh trên 
phạm vi toàn cầu theo một tiêu chí chung 
nhất. Điều này không chỉ là sự cần thiết, yêu 
cầu của hoạt động kinh tế, đầu tư đa quốc 
gia mà quan trọng hơn là việc công bố các 
thông tin minh bạch sẽ tạo ra lợi thế cho các 
khoản đi vay, cho vay giữa các quốc gia và 
với các tổ chức quốc tế . 
Do đó, Việt Nam cần phải ban hành 
CMKT công dựa trên cơ sở CMKT công 
quốc tế và phù hợp với hoàn cảnh trong 
nước. Để làm được điều đó phải nhanh 
chóng chuyển biến về nhận thức; phải đổi 
mới phương thức quản lý NSNN. 
Ngay từ bây giờ Việt Nam cần phải 
đưa ra lộ trình cụ thể để áp dụng, tiến tới 
thống nhất BCTC trên cơ sở kế toán dồn tích 
từ Chính phủ xuống tất cả các đơn vị. Hiện 
nay các công ty sử dụng nguồn vốn từ ngân 
sách rất nhiều, chia thành nhiều đối tượng, 
như vậy: làm thế nào để các công ty con 
cũng tuân thủ nhất quán chế độ kế toán như 
các công ty mẹ đang là vấn đề. Việt Nam sẽ 
phải tiếp tục học hỏi kinh nghiệm từ các 
nước để đưa ra lộ trình riêng cho mình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Liên đoàn kế toán quốc tế IFAC, Hệ thống chuẩn mực kế toán công quốc tế. 
[2] Bộ tài chính, Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp, 30/03/2006. 
[3] www.tapchiketoan.com. 
[4] www.thuvienphapluat.com. 
[5] www.kiemtoancom.vn. 

File đính kèm:

  • pdftien_toi_hoa_hop_thong_nhat_giua_ke_toan_trong_linh_vuc_nha.pdf