Tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam thời kỳ đầu đến năm 1975 (Dưới góc nhìn của lý thuyết phức hệ)

Tóm tắt: Phần đầu tiên của bài viết này sẽ giới thiệu chung về lý thuyết phức hệ và các khái niệm

cơ bản của lý thuyết phức hệ (giao thoa nội chỉnh thể và giao thoa liên chỉnh thể, trung tâm và

ngoại vi, phân tầng chuẩn và phân tầng phi chuẩn, hình mẫu sơ cấp và hình mẫu nhị cấp v.v.).

Chúng tôi cũng sẽ trình bày những yếu tố cấu thành phức hệ và khả năng đóng góp của lý thuyết

phức hệ trong việc nghiên cứu vị trí của văn học dịch trong một phức hệ văn học. Trên cơ sở đó,

chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu quá trình tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam từ trước tới nay.

Chúng tôi sẽ tìm hiểu các yếu tố như thể chế, văn chương, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ v.v. và

chỉ rõ các yếu tố này giao thoa, tương tác với nhau như thế nào và tác động đến việc tiếp nhận văn

học Pháp, từ đó làm nổi bật vị trí của hoạt động dịch văn học Pháp, về việc lựa chọn các tác phẩm

dịch và về các chiến lược dịch văn học của các dịch giả Việt Nam.

pdf 11 trang yennguyen 10120
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam thời kỳ đầu đến năm 1975 (Dưới góc nhìn của lý thuyết phức hệ)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam thời kỳ đầu đến năm 1975 (Dưới góc nhìn của lý thuyết phức hệ)

Tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam thời kỳ đầu đến năm 1975 (Dưới góc nhìn của lý thuyết phức hệ)
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 
 1
NGHIÊN CỨU 
Tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam 
thời kỳ đầu đến năm 1975 
(dưới góc nhìn của lý thuyết phức hệ) 
Nguyễn Duy Bình* 
Trường Đại học Vinh, 182 Lê Duẩn, Vinh, Nghệ An, Việt Nam 
Nhận ngày 03 tháng 11 năm 2014 
Chỉnh sửa ngày 11 tháng 01 năm 2015; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 01 năm 2015 
Tóm tắt: Phần đầu tiên của bài viết này sẽ giới thiệu chung về lý thuyết phức hệ và các khái niệm 
cơ bản của lý thuyết phức hệ (giao thoa nội chỉnh thể và giao thoa liên chỉnh thể, trung tâm và 
ngoại vi, phân tầng chuẩn và phân tầng phi chuẩn, hình mẫu sơ cấp và hình mẫu nhị cấp v.v...). 
Chúng tôi cũng sẽ trình bày những yếu tố cấu thành phức hệ và khả năng đóng góp của lý thuyết 
phức hệ trong việc nghiên cứu vị trí của văn học dịch trong một phức hệ văn học. Trên cơ sở đó, 
chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu quá trình tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam từ trước tới nay. 
Chúng tôi sẽ tìm hiểu các yếu tố như thể chế, văn chương, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ v.v... và 
chỉ rõ các yếu tố này giao thoa, tương tác với nhau như thế nào và tác động đến việc tiếp nhận văn 
học Pháp, từ đó làm nổi bật vị trí của hoạt động dịch văn học Pháp, về việc lựa chọn các tác phẩm 
dịch và về các chiến lược dịch văn học của các dịch giả Việt Nam. 
Từ khóa: Lý thuyết phức hệ, văn học dịch, giao thoa, văn học Pháp. 
1. Đặt vấn đề∗ 
1.1. Ngày nay, không ai phủ nhận thực tế 
rằng văn học Pháp đã có ảnh hưởng rất lớn đến 
văn học và ngôn ngữ Việt Nam. Tuy nhiên, có 
thể khẳng định rằng lâu nay, hoạt động dịch văn 
học Pháp sang tiếng Việt được ít nhà nghiên 
cứu quan tâm đến bởi truyền thống văn hóa của 
chúng ta thường xem nhẹ văn học dịch và các 
_______ 
∗ ĐT.: 84-982812309 
 Email: nguyendbinh@hotmail.com 
dịch giả, coi “dịch là phản” và dịch giả là “kẻ 
nhai lại”. Đã có một số ít nhà nghiên cứu quan 
tâm nhưng các công trình của họ chỉ giới hạn ở 
nghiên cứu tuyến tính mà sao nhãng tính động, 
tính đa chiều, đa ngành của hoạt động này. Để 
phần nào bồi lấp lỗ hổng này, lý thuyết phức hệ 
(polysystem theory) có thể được xem là một lý 
thuyết khả quan bởi nó xem văn học dịch là một 
thể loại văn học với những đóng góp lớn lao 
cho nền văn học và văn hóa đích. Theo lý 
thuyết phức hệ, văn học dịch được xem như 
một hệ thống vận động trong sự tương tác của 
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 
2 
các hệ thống khác như văn hóa, xã hội, chính 
trị, lịch sử... Nói cách khác, để có cái nhìn toàn 
diện hơn về vấn đề này, chúng ta phải đặt diễn 
ngôn văn học trong diễn trường của các diễn 
ngôn khác. Dưới ánh sáng của lý thuyết phức 
hệ, chúng ta có thể trả lời một cách thỏa đáng 
các câu hỏi sau: hoạt động dịch văn học Pháp 
đóng vị trí như thế nào trong nền văn học Việt 
Nam? Những yếu tố nào ảnh hưởng tới hoạt 
động đó? Những tác phẩm nào được chọn dịch? 
Trong bối cảnh văn hóa, xã hội, chính trị nào? 
Động cơ dịch thuật của các dịch giả là gì? Các 
tác giả, tác phẩm dịch được tiếp nhận ra sao? 
Trong giới hạn bài viết này, chúng tôi sẽ cố 
gắng chứng minh giả thuyết trên bằng việc khảo 
sát hoạt động dịch văn học Pháp ở Việt Nam 
theo dòng lịch sử: giai đoạn từ đầu đến năm 
1930, từ năm 1930 đến năm 1954, từ năm 1954 
đến năm 1975. 
1.2. Thuyết phức hệ ra đời vào những năm 
1970. Khái niệm phức hệ (polysystems) xuất 
hiện lần đầu tiên trong bài tham luận của Itamar 
Even-Zohar, giáo sư chuyên ngành thi pháp so 
sánh, văn học so sánh và nghiên cứu dịch thuật 
tại Trường Đại Học Tel-Aviv, tại Hội thảo về 
chủ đề “Lý luận về lịch sử văn học”. Về sau, 
nhiều nhà nghiên cứu khác đã theo hướng 
nghiên cứu này, có thể kể đến James Holmes, 
André Lefèvre, Susan Bassnett, Claudio 
Guillen, Pierre Brunel, Yves Chevrel, José 
Lambert... Thuyết phức hệ kế thừa chủ nghĩa 
hình thức Nga của những năm 1920 với những 
công trình nghiên cứu của Iouri Tynjanov và 
Roman Jakobson và khai thác triệt để lý thuyết 
về “trường” của Pierre Bourdieu. 
Itamar Even-Zohar định nghĩa thuyết phức 
hệ như sau: 
“Thuyết phức hệ là một kết cấu các hệ 
thống có thứ bậc, trong đó, các phân tầng khác 
nhau của toàn bộ phức hệ dịch chuyển và tương 
tác lẫn nhau. Trong phức hệ, nếu như vị trí cao 
nhất thuộc về một nền văn học cách tân thì phân 
tầng thấp thuộc về nền văn học thủ cựu. Mặt 
khác, nếu các hình thức thủ cựu nằm ở vị trí 
trên cùng thì các hình thức cách tân, đổi mới 
nằm ở phân tầng thấp. Nếu không thì đó sẽ là 
thời kỳ ngưng trệ.” [1] 
Thuyết phức hệ cho rằng văn học, trong đó 
có văn học dịch, là một hệ thống không biệt lập, 
nó nằm trong một kết cấu rộng hơn bao gồm 
nhiều hệ thống phi văn học khác như hệ thống 
tư tưởng, hệ thống văn hóa, hệ thống xã hội, hệ 
thống tôn giáo, hệ thống ngôn ngữ... Các hệ 
thống này tương tác, giao thoa lẫn nhau tạo nên 
sự biến chuyển vừa liên tục vừa linh hoạt về vị 
thế của từng hệ thống. Người ta gọi đó là giao 
thoa liên hệ thống. Trong từng hệ thống cũng có 
các tiểu hệ thống. Các tiểu hệ thống này cũng 
vận hành tương tự như các hệ thống trong phức 
hệ và sự giao thoa của chúng được gọi là sự 
giao thoa nội hệ thống. Giao thoa nội hệ thống 
có thể được hiểu là sự phân tầng (stratification) 
trong hệ thống, nó dựa trên sự đối lập giữa phân 
tầng chuẩn và phân tầng phi chuẩn. “Chuẩn” ở 
đây được hiểu là trội, là nòng cốt, là chủ đạo, là 
điển phạm. 
Sự đối lập giữa phân tầng chuẩn và phân 
tầng phi chuẩn tương ứng với sự đối lập giữa 
trung tâm và ngoại vi. Ở đây có sự đấu tranh 
của các phân tầng trong phức hệ văn học. Phân 
tầng nào mạnh, chuẩn mực, điển phạm thì 
chiếm lấy vị trí trung tâm, phân tầng nào yếu, 
không đáp ứng được các chuẩn mực đưa ra thì 
bị đẩy ra ngoại vi. Các phân tầng nằm ở ngoại 
vi không phải vì thế mà chịu nằm yên một chỗ. 
Chúng cố gắng thay đổi, vận động, biến chuyển 
để chuyển dịch về phía trung tâm của phức hệ. 
Nền văn học dân tộc (chính thống) và văn 
học dịch có thể được xem là hai hệ thống xung 
đột lẫn nhau trong phức hệ (từ đây, chúng tôi 
dùng danh từ phức hệ như là kết cấu các hệ 
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 3
thống). Lẽ tất nhiên, trong cuộc tranh giành vị 
trí giữa hai hệ thống này, văn học dịch thường 
yếu thế hơn và thường bị đẩy về phía ngoại vi. 
Nhưng cũng có những trường hợp văn học dịch 
chiếm lấy trung tâm phức hệ văn học và nó là 
yếu tố mang tính cách tân cho nền văn học dân 
tộc. Itamar Even-Zohar đưa ra ba trường hợp 
mà văn học dịch có thể giữ lấy vị trí trung tâm 
trong phức hệ văn học: 
a) Khi phức hệ văn học chưa kết tinh, tức là 
vẫn còn non trẻ. Văn học dịch đáp ứng nhu cầu 
của phức hệ văn học yếu kém này trong việc sử 
dụng ngôn ngữ mới được hình thành để tạo ra 
nhiều thể loại văn học nhất với mục đích biến 
ngôn ngữ đó thành một ngôn ngữ văn học thực 
thụ, đáp ứng nhu cầu của công chúng độc giả 
vừa mới lộ ra. Vì các nhà văn thuộc một nền 
văn học non trẻ chưa có khả năng sáng tác ngay 
tất cả các tác phẩm văn học, họ tận dụng kinh 
nghiệm của các nền văn học nước ngoài. Văn 
học dịch chính vì thế mà trở thành một trong 
những chỉnh thể quan trọng nhất. 
b) Khi một nền văn học đang nằm ở vị trí 
ngoại vi hoặc yếu kém. Những lỗ hổng của nền 
văn học đó sẽ được lấp đầy, toàn phần hoặc bán 
phần, bởi văn học dịch. 
c) Khi có những đột biến, khủng hoảng, 
hoặc khoảng trống trong văn học dân tộc [2]. 
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ vận dụng 
một số khái niệm lý thuyết phức hệ nêu trên để 
tìm hiểu một cách sâu sát, trên cả bình diện lịch 
đại lẫn bình diện đồng đại, tiến trình tiếp nhận 
văn học Pháp ở Việt Nam vào thế kỷ XX. 
2. Tiếp nhận văn học Pháp ở Việt Nam giai 
đoạn từ đầu đến 1930 
Từ năm 1884, năm mà Trương Minh Ký 
cho xuất bản cuốn Truyện Phan Sa diễn ra quốc 
ngữ, cho đến những năm 1930, nhiều nhà 
nghiên cứu cho rằng dịch văn học chiếm vị trí 
trung tâm trong nền văn học Việt Nam. Alain 
Guillemin đánh giá đây là thời của các dịch giả 
(le temps des traducteurs) [3], Phạm Thế Ngũ 
cho rằng tất cả các nhà văn thuộc thế hệ này ít 
nhiều đều có dịch văn học [4], còn Trần Đình 
Hượu và Lê Chí Dũng thì nhận xét: “Chưa bao 
giờ công chúng được đọc cả một nền văn xuôi 
nước ngoài bằng tiếng mẹ đẻ nhiều đến như 
vậy” [5]. Sự lên ngôi của văn học dịch nói 
chung và dịch văn học Pháp nói riêng ở giai 
đoạn này có thể được giải thích bằng sự tương 
tác của nhiều hệ thống: hệ thống văn học dân 
tộc, hệ thống thể chế, hệ thống văn hóa - giáo 
dục, hệ thống báo chí. Nhận định này tương 
ứng với trường hợp (a) mà Even-Zohar đã đưa 
ra và chúng tôi đã trích dẫn ở trên. 
Cuộc khủng hoảng của nền văn học Việt 
Nam ở giai đoạn này được thể hiện ở cả nội 
dung lẫn hình thức. Khi các nhà văn, nhà thơ 
giai đoạn này, vốn đang bị giam hãm trong tập 
tính truyền thống, trong những hình thức và thể 
loại văn học cổ điển, bỗng tiếp xúc với những 
cách sống mới, những công nghệ mới, một cách 
tư duy mới đòi hỏi “tính chính xác, rõ ràng, 
logic, mối quan tâm về bố cục, thị hiếu sáng tạo 
và phát kiến” [6] thì họ cảm thấy vô cùng bỡ 
ngỡ, mất phương hướng và đôi khi bất lực trong 
một trường văn hóa đang ở giai đoạn chuyển 
tiếp, đang ở giai đoạn “Âu học vẫn chưa vin 
được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ” 
[7]. Bên cạnh đó, có thể nói giai đoạn này thực 
dân Pháp đã thôn tính Việt Nam (mặc dù có 
một số phong trào phản kháng như Phong trào 
Cần vương, Khởi nghĩa Yên Bái v.v). Trước 
sức mạnh và chính sách nô dịch văn hóa của 
người Pháp, có một bộ phận trí thức An Nam 
chấp nhận sự hiện diện của họ và thậm chí cộng 
tác với họ, như Huỳnh Tịnh Của, Phạm Quỳnh, 
Nguyễn Văn Vĩnh... Sự thống trị của người 
Pháp dĩ nhiên có những tác động rất lớn đến 
quá trình tiếp biến văn hóa Pháp ở một bộ phận 
người Việt. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, 
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 
4 
được khởi xướng năm 1907, năm thành lập 
trường dạy học tư thục cùng tên, đã có ảnh 
hưởng rất lớn trong các tầng lớp nhân dân trong 
việc nâng cao dân trí, ý thức dân tộc, tinh thần 
yêu nước. Chủ trương dịch sách Đông Tây sang 
tiếng Việt của Đông Kinh Nghĩa Thục để giữ 
gìn và phát triển chữ quốc ngữ đã được đông 
đảo trí thức Việt Nam đón nhận. Cũng về lĩnh 
vực giáo dục, trong giai đoạn này, thực dân 
Pháp đã thành lập hai trường đào tạo thông 
ngôn: Trường Thông Ngôn được thành lập năm 
1860 tại Nam Kỳ và Trường Thông Ngôn Yên 
Phụ năm 1886. Mục đích thành lập của hai 
trường này là nhằm đào tạo thông ngôn cho các 
cơ quan hành chính của thực dân Pháp nhưng 
không phải vì thế mà học sinh của hai trường 
này khi ra trường không tham gia dịch văn học, 
đơn cử như Trương Minh Ký, Phạm Quỳnh, 
Nguyễn Văn Vĩnh, Đoàn Phú Tứ v.v... Nhìn 
vào chương trình của các trường học Pháp Việt 
giai đoạn này, chúng ta thấy những kiến thức về 
văn hóa, văn học và ngôn ngữ được chú trọng 
một cách rõ rệt. Việc thành lập trường đại học 
Pháp đầu tiên tại Việt Nam vào năm 1906 cũng 
không nằm ngoài ý đồ truyền bá tư tưởng chính 
trị, triết học và văn học Pháp của người Pháp. 
 Có thể nói, trong những thập kỷ đầu của 
thế kỷ XX, ở Việt Nam đã có hầu hết các loại 
báo: công báo, báo, tạp chí, từ báo có bảo trợ 
của thực dân Pháp đến báo tư nhân. Gia Định 
báo, Lục tỉnh Tân văn, Đông Dương Tạp chí, 
Nam Phong Tạp chí, Thực nghiệp dân báo, Hữu 
Thanh tạp chí, Phụ nữ tân văn, An Nam tạp chí 
v.v đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời 
sống văn hóa của Việt Nam hồi đó và đã trở 
thành mảnh đất phì nhiêu cho dịch văn học và 
triết học phát triển. Đặc biệt, chúng ta không 
thể không kể đến vai trò của Nam Phong Tạp 
chí và Đông Dương Tạp chí. Hai tạp chí này là 
nơi các dịch giả Pháp ngữ công bố các công 
trình dịch thuật văn học cũng như triết học: 
những Ronsard, Descartes, Boileau, Bossuet, 
Corneille, Molière, La Fontaine, Fénélon, 
những Pascal, Montesquieu, Diderot, Rousseau, 
Renan, Taine, Hugo, Bourget, Loti, 
Maupassant, France, Dumas đã được dịch và 
trích dịch trong các tạp chí này. 
Nội trong hệ thống dịch văn học cũng có sự 
tương tác của các tiểu hệ thống trào lưu và thể 
loại. Trong giai đoạn này, với cái nhìn toàn 
cảnh về văn học Pháp, chúng ta có thể thấy 
nhiều trào lưu, trường phái văn học: chủ nghĩa 
cổ điển, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng 
mạn, chủ nghĩa Dada, chủ nghĩa siêu thực... 
Thế nhưng, các dịch giả ở giai đoạn này gần 
như chỉ chọn các tác phẩm tiểu thuyết, kịch cổ 
điển và các tác phẩm thơ thuộc trường phái lãng 
mạn. Dưới góc nhìn của lý thuyết phức hệ, có 
thể nói chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng 
mạn chiếm vị trí trung tâm trong phức hệ văn 
học dịch Việt Nam giai đoạn này. Điều này có 
thể được giải thích bằng sự tương đồng về tư 
tưởng và mỹ cảm giữa các nhà văn cổ điển 
Pháp và các dịch giả Việt Nam cuối thế kỷ XIX 
đầu thế kỷ XX. Các tác phẩm văn học cổ điển 
Pháp thường có nội dung giáo huấn và do vậy 
được các dịch giả Việt Nam giai đoạn này chú 
trọng. Hẳn vì thế mà Tuồng Lôi Xích của 
Corneille, Người biển lận của Molière, Tê-lê-
mạc phiêu lưu ký của Fénélon, Những kẻ khốn 
nạn của Hugo, Ba chàng ngự lâm pháo thủ của 
Dumas đã được chọn dịch và đã rất được độc 
giả Việt Nam thời đó hoan nghênh. Vả lại, 
những bận tâm về vấn đề luân lý có thể giải 
thích tại sao những tác phẩm văn học Pháp đầu 
tiên được dịch sang tiếng Việt không phải là 
tiểu thuyết, truyện kể mà là ngụ ngôn La 
Fontaine. Có lẽ vì thế mà trong một bài báo 
đăng trên Nam Phong Tạp chí, số 27, tháng 5 
năm 1923, Vũ Đình Long có viết: “Hiển nhiên 
là đạo đức không đủ để tạo ra các giá trị thẩm 
mỹ, nhưng không có đạo đức thì không thể có 
giá trị thẩm mỹ. (...) Văn học phản đạo đức 
không phải là văn học. Tất cả những gì phản 
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 5
đạo đức là phản lại nghệ thuật” [16]. Bên cạnh 
sự gặp gỡ về đạo đức là sự tương đồng về tâm 
trạng giữa các nhà văn, nhà thơ Pháp thế kỷ 
XIX và giới văn nghệ sĩ và dịch giả Việt Nam 
đầu thế kỷ XX. Nếu như các nhà văn nhà thơ 
Pháp thế kỷ XIX chìm đắm trong nỗi đau thế kỷ 
(le mal du siècle) thì các nhà văn, nhà thơ cũng 
như một bộ phận tiểu tư sản Việt Nam bế tắc 
trong nỗi buồn thế hệ: u sầu, tuyệt vọng, vỡ 
mộng, hoang mang, cô đơn, chán nản... Tất cả 
như là hệ quả của chủ nghĩa cá nhân đúng nghĩa 
lần đầu tiên thâm nhập vào đời sống tình cảm, 
suy tư của thế hệ này. Về thể loại, chúng ta có 
thể dễ dàng nhận ra các dịch giả Việt Nam giai 
đoạn này có xu hướng dịch thơ hơn là dịch tiểu 
thuyết và kịch. Theo thống kê sơ bộ của chúng 
tôi, giai đoạn này có khoảng 50 người dịch thơ. 
Phần lớn không phải là nhà thơ. Các nhà thơ 
tham gia dịch thơ Pháp rất ít, gồm Á Nam Trần 
Tuấn Khải, Đông Hồ, Nguyễn Giang (con trai 
Nguyễn Văn Vĩnh). Tác phẩm thơ Pháp đầu 
tiên được dịch sang tiếng Việt là Ngụ ngôn La 
Fontaine, nếu có thể coi ngụ ngôn là thi phẩm. 
Còn về thơ đúng nghĩa, chúng ta có thể thống 
kê được khoảng 300 bài thơ  ... í Văn học giai đoạn này cho 
thấy số bài báo nói về văn học nước ngoài rất ít. 
Văn học các nước xã hội chủ nghĩa được chú 
trọng hơn nhiều, trong đó văn học Xô-Viết 
chiếm vị trí đầu tiên, tiếp theo là văn học Brazil, 
Algérie, Trung Quốc, Roumanie, (Đông) Đức... 
Tổng kết sau đây của Lưu Liên có thể là chưa 
đầy đủ nhưng đã thể hiện phần nào diện mạo 
của văn học dịch ở miền Bắc trước năm 1975: 
“Các nhà xuất bản thời gian vừa qua một 
mặt vì hoàn cảnh có chiến tranh, mặt khác có 
thể vì chưa chủ động trong kế hoạch chọn lựa 
và tổ chức dịch, nên đã để xảy ra tình trạng 
không cân đối: chưa dịch những nhà văn lớn lại 
dịch những nhà văn không tên tuổi, chưa dịch 
những tác phẩm lớn của nhà văn tiêu biểu lại 
dịch những tác phẩm ít có giá trị. Có thể nói 
trong thời gian qua sách văn học dịch được xuất 
bản một cách không hệ thống và không đủ.” [10] 
Lý do tiếp theo khiến hoạt động dịch văn 
học Pháp giai đoạn này không phát triển, đó là 
bởi văn học các nước tư bản khi thâm nhập vào 
Việt Nam phải thông qua một bộ lọc văn hóa 
rất tinh vi. Chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa hiện 
sinh hay chủ nghĩa cấu trúc bị lên án kịch liệt. 
Phân tích sự tiếp nhận nhà văn Pháp nổi 
tiếng lúc bấy giờ là Albert Camus sẽ cho chúng 
ta thấy rõ sự xung đột mãnh liệt giữa các phân 
tầng văn học. Sự tiếp nhận nhà văn thuộc hạng 
cây đa cây đề này của Pháp ở Bắc Việt giai 
đoạn này là mang tính “hai mặt”. Một mặt các 
nhà phê bình miền Bắc công nhận những nét 
tích cực của họ, mặt khác họ lên tiếng phê phán 
nặng nề những gì theo họ là phản động, phản 
văn học. Ví dụ: nếu như Hoàng Trinh, trong bài 
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 
8 
báo “An-Be Ca-Muyx và thuyết phi lý trong 
văn học”, Tạp chí Văn học, số 1 năm 1968, một 
mặt ca ngợi Albert Camus đã từng tham gia 
kháng chiến chống phát xít Đức và ủng hộ cách 
mạng Madagascar và phong trào cộng sản Hy 
Lạp, đã từng miêu tả cuộc sống của những 
người lao động nghèo ở Algérie trong tác phẩm 
Mặt trái và bề mặt, Ngộ nhận, Caligula, Người 
nổi loạn, đã xây dựng thành công các nhân vật 
như Rieux, Rambert, Tarou trong Dịch hạch, 
những người chiến đấu không mệt mỏi để cứu 
nhân loại thoát khỏi đại dịch ; mặt khác, Hoàng 
Trinh chỉ trích mạnh mẽ tính phi lý trong văn 
chương của Camus. Ông viết: 
“Xã hội tư sản các nước phương Tây càng 
khủng hoảng, tư tưởng sợ chiến tranh xâm lược, 
sợ hi sinh chết chóc càng thấm sâu vào một số 
người thì những tư tưởng triết học của Ca-muyx 
trong khuôn khổ chung của triết học sinh tồn 
càng có thêm đất để tác động và gây thêm nhiều 
hậu quả. [...] Và giữa lúc nhân dân các nước xã 
hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và phong 
trào độc lập dân tộc ở các nước đang thừa thắng 
xông lên, đẩy lùi chủ nghĩa đế quốc và chủ 
nghĩa tư bản, đứng đầu là bọn hiếu chiến Mỹ, 
thì nhiều tác phẩm sinh tồn ví dụ như Con 
người nổi loạn của An-be Ca-Muyx chẳng hạn, 
như những chiếc gậy thọc ngang, đã gây thêm 
hoài nghi và hằn thù đối với phe xã hội chủ 
nghĩa, chỗ dựa của loài người tiến bộ.” 
Chính vì thế mà không có tác phẩm nào của 
Albert Camus được dịch ở miền Bắc giai đoạn 
này, cho dù dịch giả Dương Tường có kể lại là 
ông đã đọc Người dưng lần đầu năm 1956 và 
lần thứ 2 năm 1957 nhưng mãi đến năm 1994, Nxb 
Văn học mới đặt hàng ông dịch cuốn này. [11] 
Vì lý do đã phân tích ở trên, dịch văn học, 
trong đó có dịch văn học Pháp, không thực sự 
được chú trọng. Vai trò của dịch giả bị xem 
nhẹ, số lượng dịch phẩm văn học Pháp rất ít. 
Trong những năm 1960, các dịch giả nổi tiếng 
như Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Đỗ 
Đức Hiểu v.v cùng nhóm Lê Quý Đôn đã có 
tham vọng dịch thuật và nghiên cứu có hệ thống 
văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Pháp 
nhưng chỉ vài năm sau ngày thành lập, nhóm 
này đã tan rã, gần như trùng với giai đoạn Nhân 
văn - Giai phẩm. Sự tan rã nhanh chóng của 
nhóm Lê Quý Đôn thể hiện vị trí ngoại biên của 
văn học dịch. 
 Các tác phẩm văn học Pháp được các dịch 
giả ở miền Bắc chọn dịch chủ yếu vẫn là các tác 
phẩm cổ điển và các tác phẩm hiện thực chủ 
nghĩa. Các tác giả được dịch nhiều nhất vẫn là 
Honoré de Balzac với 4 cuốn Vỡ mộng (Trọng 
Đức, 1964), Ơ giê ni Gơ răng đê (Huỳnh Lý, 
1966), Lão Goriot (Lê Huy, 1967), Miếng da 
lừa (Đỗ Đức Dục, 1973); Victor Hugo với bản 
dịch Những người khốn khổ do nhóm Lê Quý 
Đôn dịch vào năm 1959; Maupassant với Viên 
mỡ bò (Hướng Minh, 1968); Stendhal với Đỏ 
và đen (Đoàn Phú Tứ, 1971)... 
Tóm lại, có thể nói, trong phức hệ miền Bắc 
giai đoạn này, có những chuẩn mực văn học, 
trong đó có dịch văn học Pháp, được “điển 
phạm hóa” (canonisées), hợp pháp hóa và 
chiếm vị trí trung tâm. Trong khi đó, những trào 
lưu, trường phái văn học, triết học đi ngược với 
quan điểm văn học chính thống đều bị đồng loạt 
tẩy chay, và vì thế bị đẩy ra vùng ngoại biên 
của phức hệ văn học. 
4.2. Dịch văn học Pháp ở miền Nam 
Công bằng mà nói, văn học dịch ở miền 
Nam phát triển rầm rộ hơn, cập nhật hơn ở 
miền Bắc. Dịch văn học, mà trọng tâm là dịch 
văn học Pháp, chiếm vị trí trung tâm của phức 
hệ miền Nam. Trong những năm 1970, trong 
tổng số các tác phẩm được xuất bản thì có đến 
80% là dịch phẩm văn học nước ngoài với 
khoảng 200 tác giả được dịch [12]. Theo điều 
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 9
tra của Trần Trọng Đăng Đàn được thực hiện 
vào tháng 7 năm 1976, xét về tác phẩm được 
dịch, các công trình nghiên cứu và bài báo xuất 
bản, văn học Pháp đứng đầu trong số nền văn 
học được yêu thích ở miền Nam giai đoạn trước 
1975. Tiếp theo là văn học Trung Quốc. Văn 
học Mỹ chỉ xếp thứ 3 còn văn học Nga chiếm vị 
trí thứ 4. Việc văn học dịch ở miền Nam phát 
triển như thế là vì sự giao thoa giữa các hệ 
thống thể chế, độc giả, xuất bản, báo chí, giáo 
dục v.v... 
Về thể chế, có thể nói, chính quyền Sài Gòn 
ít hay nhiều có quan tâm đến việc xúc tiến dịch 
văn học. Hơn nữa, chưa bao giờ trong lịch sử 
văn hóa Việt Nam, ngành xuất bản lại phát triển 
rầm rộ như vậy. Ai cũng có thể làm xuất bản vì 
thủ tục rất đơn giản: xin giấy phép xuất bản ở 
Sở phối hợp Nghệ thuật và Sở kiểm duyệt rồi 
đưa sách đi in. Bên cạnh đó, chúng ta có thể 
thấy sự bùng nổ của báo chí. Hàng loạt tạp chí 
ra đời như Sáng tạo, Bách khoa, Hiện đại, Thế 
kỷ hai mươi, Văn, Nhân loại... Số lượng dịch 
phẩm được đăng tải trong các tạp chí như Bách 
Khoa và Văn phải nói là rất nhiều. Một điểm 
nữa cũng không kém phần quan trọng, đó là yếu 
tố giáo dục. Có thể nói, trong giai đoạn này ở 
miền Nam, trong chương trình đào tạo đại học, 
văn học và triết học đóng một vai trò rất quan 
trọng. Và văn học hãy còn là lựa chọn hàng đầu 
của sinh viên. Cuối cùng, có thể nói, văn học 
miền Nam sau năm 1968 có nhiều đột biến, thậm 
chí rơi vào khủng hoảng vì chiến tranh, kiểm duyệt, 
v.v... Vì lý do này mà văn học dịch phát triển để "bù 
vào chỗ cái thiếu của nhà văn Việt Nam. Thiếu về 
sự đa dạng, về tầm cỡ, về tư tưởng thời đại" [14]. 
Về sự giao thoa nội hệ thống, chúng ta thấy 
trong việc lựa chọn các tác phẩm dịch, có 
những trào lưu, trường phái văn học chiếm vị trí 
trung tâm phức hệ miền Nam trong khi ở miền 
Bắc lại bị đẩy ra vùng ngoại vi như chúng ta đã 
thấy. Các phân tầng kết tinh thành trung tâm 
của phức hệ gồm các trào lưu triết học như cấu 
trúc luận, hiện tượng luận, chủ nghĩa Dada, chủ 
nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh v.v... 
Chẳng hạn như trên Bách khoa, người ta có thể 
tìm thấy khoảng mười bài báo của Trần Hương 
Tử (Thái Kim Đỉnh) giới thiệu về các tác giả 
như: Jaspers, Marcel, Heidegger, Kierkegaard, 
Husserl, Ponty, Sartre v.v... Nguyễn Văn Trung 
cũng là một trong những nhà nghiên cứu quan 
tâm đặc biệt đến các trào lưu triết học và văn 
học của phương Tây, ông đã có những bài báo 
giới thiệu khá đầy đủ những gương mặt như 
Alain Robbe Grillet, Nathalie Sarraute, Michel 
Butor, Sartre, Camus... hàng chục năm trước 
trong Sáng Tạo, Bách Khoa, Thông Cảm, Thế 
kỷ XX [15]. 
Về văn học, Nhà xuất bản Giao Điểm được 
thành lập năm 1964 chủ trương chủ yếu xuất 
bản các tác phẩm nước ngoài và chú trọng các 
tác giả Albert Camus, Merleau Ponty và Jean-
Paul Sartre. Mặt khác, trong khi Cô Liêu (Vũ 
Đình Lưu) quan tâm đến Françoise Sagan, 
Albert Camus, Julien Green, v.v... thì Đoàn 
Thêm, Tràng Thiên có những bài viết về Saint-
John Perse, Claude Simon và Alain Robbe-
Grillet. Trong 12 năm tồn tại, tạp chí Văn dành 
khoảng 90 số đặc biệt cho văn học nước ngoài. 
Chẳng hạn như số đặc biệt ngày 15 tháng Giêng 
năm 1964 và ngày 1 tháng giêng năm 1965 nói 
về Albert Camus, số đặc biệt ngày 1 tháng 9 
năm 1965 nói về Jean-Paul Sartre, số đặc biệt 
ngày 1 tháng 10 năm 1964 nói về André 
Maurois, số đặc biệt ngày 1 tháng 11 năm 1964 
nói về André Malraux, v.v... 
Các tác giả Pháp được chọn dịch giai đoạn 
này ở miền Nam đứng đầu là Albert Camus, sau 
đó đến Jean-Paul Sartre, tiếp theo là Françoise 
Sagan, André Gide, Saint-Exupéry, André 
Maurois, v.v.... 
Qua việc phân tích các yếu tố chi phối vị trí 
của hoạt động dịch văn học Pháp ở miền Nam, 
qua việc xem xét việc lựa chọn các tác phẩm 
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 
10 
văn học Pháp để dịch của các dịch giả miền 
Nam, chúng ta càng thấy rõ hơn sự khác biệt cơ 
bản giữa phức hệ miền Bắc và phức hệ miền 
Nam. Qua đây chúng ta có thể thấy sự biến đổi 
linh hoạt của phức hệ: tùy sự tương tác giữa các 
hệ thống, nó có thể tự tách ra và mỗi tiểu hệ 
thống có thể tự tạo cho mình một trung tâm 
riêng, với các quy luật hoạt động riêng. 
5. Kết luận 
Từ góc nhìn của lý thuyết phức hệ, chúng ta 
thấy từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 1930, 
dịch văn học Pháp chiếm vị trí trung tâm trong 
trường văn học Việt Nam. Từ năm 1930 đến 
năm 1954, hoạt động dịch văn học Pháp không 
được chú trọng. Từ năm 1954 đến năm 1975, 
trong khi ở miền Bắc, hoạt động dịch văn học 
Pháp được cho là thứ yếu thì ở miền Nam, văn 
học Pháp chiếm một vị trí đáng kể trong trường 
văn học miền Nam. Hơn nữa, các tác phẩm văn 
học Pháp thường được các dịch giả Việt Nam 
chọn dịch tùy theo các chuẩn mực tiếp nhận của 
từng thời và từng miền. Trong nửa đầu thế kỷ 
XX, các tác phẩm được dịch là các tác phẩm 
thuộc chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, 
hay tiểu thuyết phiêu lưu. Từ năm 1954 đến 
năm 1975, các dịch giả miền Bắc chủ yếu dịch 
các tác phẩm văn học Pháp từ thế kỷ 17 đến thế 
kỷ XIX và các tác phẩm có nội dung cách mạng 
hay hiện thực chủ nghĩa trong khi ở miền Nam 
thì lại khác, các dịch giả đua nhau dịch các tác 
phẩm đương đại và nổi tiếng ở Pháp thuộc chủ 
nghĩa hiện sinh, văn học phi lý, tiểu thuyết mới, 
chủ nghĩa siêu thực, v.v... Vị trí của hoạt động 
dịch văn học Pháp, việc lựa chọn các tác phẩm 
để dịch sang tiếng Việt là kết quả của cuộc 
xung đột gay gắt giữa tiếp biến văn hóa và 
kháng cự văn hóa, kết quả này chịu sự tác động 
sâu sắc của những yếu tố xã hội, chính trị, văn 
học, ngôn ngữ, v.v... Qua đây, chúng ta có thể 
thấy rõ khả năng áp dụng thuyết phức hệ vào 
việc nghiên cứu văn học dịch với tư cách là một 
thể loại. Theo tinh thần của thuyết phức hệ, với 
những liên hệ cộng hưởng từ việc khảo sát liên 
ngành, chúng ta có thể có một cái nhìn toàn 
cảnh hơn về lịch sử dịch văn học. Điều mà 
chúng tôi đã cố gắng chứng minh trong bài này, 
đó là “dịch không còn là một hiện tượng với 
bản chất và biên giới mãi mãi cố định mà là 
một hoạt động phụ thuộc vào các mối quan hệ 
trong một hệ thống văn hóa đặc thù nào đó.” [2] 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát 
triển khoa học và công nghệ quốc gia 
(NAFOSTED) trong đề tài mã số VII1.3-
2011.13. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Even-Zohar Itamar, “The Position of Translated 
Literature within the Literary Polysystem” (Vị 
trí của văn học dịch trong phức hệ văn học), 
Literature and Translation: New Perspectives in 
Literary Studies, Nxb Acco, Leuven, 1978. 
[2] Even-Zohar Itamar, “Polysystem Studies” 
(Nghiên cứu lý thuyết phức hệ), Poetics Today, 
số đặc biệt, tập 11:1, Duke University Press, 
1990. 
[3] Guillemin Alain, “Le pinceau, la plume et le 
souci de soi. L’influence de la littérature 
vietnamienne sur la littérature française” (Bút 
lông, bút mực và nỗi lo về mình. Ảnh hưởng 
của văn học Việt Nam với văn học Pháp), Le 
Goût de l’enquête (Pour Jean Claude Passeron), 
l’Harmattan, Paris, 2001. 
[4] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân 
biên (Tập 3), Nxb Đồng Tháp, 1997. 
[5] Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Văn học Việt 
Nam, giai đoạn giao thời 1900 – 1930, Nxb Đại 
học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1988. 
N.D. Bình / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 1-11 11
[6] Nguyễn Phú Phong, “Ảnh hưởng của văn học 
Pháp”, Việt Nam, chữ viết, ngôn ngữ và xã hội, 
NXB ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, 2005. 
[7] Ngô Đức Kế, “Luận về chính học cùng tà thuyết”, 
Tổng tập văn học Việt Nam (Tập 21), Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội, 1996. 
[8] Tri Tân, số mùa xuân năm 1944. 
[9] Thúy Toàn, Không phải của riêng ai - dịch văn 
học, văn học dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999. 
[10] Lưu Liên, “Sách văn học dịch”, Tạp chí Văn học, 
số 4/1974. 
[11] Đặng Tiến, “L’Etranger de Camus au Vietnam” 
(Người xa lạ của Camus ở Việt Nam), L’Aventure 
des lettres françaises en extrême Asie, Nxb You-
Feng, Paris, 2005. 
[12] Nguyễn Khắc Viện và Phong Hiền, “Le néo-
colonialisme américain au Sud-Vietnam (1954-
1975)” (Chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở 
miền Nam Việt Nam, 1954-1975), Etudes 
vietnamiennes, số 69/1982. 
[13] Nguyễn Kiên, Le Sud-Vietnam depuis Dien Bien 
Phu (miền Nam Việt Nam từ Điện Biên Phủ), 
François Maspero, Paris, 1963. 
[14] Nguyễn Văn Lục, “20 năm văn học dịch thuật 
miền Nam 1955-1975”, Hợp lưu, số 79, 2004. 
[15] Nguyễn Trọng Văn, “Những đứa con hoang của 
Nguyễn Văn Trung”, Bách Khoa, số 264, tháng 
Giêng năm 1968. 
[16] Bùi Xuân Bào, Le roman vietnamien 
contemporain (Tiểu thuyết Việt Nam đương đại), 
Tủ sách Nhân văn Xã hội, Sài Gòn, 1972. 
Reception of French Literature in Vietnam 
from Beginning to 1975 (Seen from Polysystem Theory) 
 Nguyễn Duy Bình 
Vinh University, 182 Lê Duẩn street, Vinh, Nghệ An., Vietnam 
Abstract: This article, in the first part, introduces polysystem theory and its fundamental concepts. 
We also present the elements of polysystem and the potential contribution of polysystem theory in the 
study on position of translated literature in a literary poly-system. Accordingly, we focus on the 
reception of French literature in Vietnam so far. In addition, we explore the elements such as literary 
institution, politics, culture, language,... and specify how they interfere and interact with each other 
and affect French literature reception, which is, as a consequence, to shed light on the position of 
French literary translation activity, especially the selection of works and strategies for literary 
translation. 
Keywords: Polysystem theory, translated literature, interference, French Literature. 

File đính kèm:

  • pdftiep_nhan_van_hoc_phap_o_viet_nam_thoi_ky_dau_den_nam_1975_d.pdf