Tìm hiểu những giá trị cơ bản của tôn giáo truyền thống ở Việt Nam

Tóm tắt: Sự xuất hiện từ rất sớm, và có khả năng tồn tại độc lập

với thể chế chính trị, cùng những tác động không nhỏ của tôn giáo

tới con người, xã hội và văn hóa đã buộc khoa học xã hội và chính

trị học phải nhìn nhận lại tôn giáo như một thực thể xã hội. Điều

này đã tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức về tôn giáo

nói chung và hệ giá trị của tôn giáo nói riêng. Bài viết này tâp

trung vào việc tìm hiểu và làm rõ những giá trị cơ bản của tôn giáo

truyền thống ở Việt Nam trên các khía cạnh: luân lý, giáo dục, đạo

đức và lịch sử.

pdf 13 trang yennguyen 4500
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu những giá trị cơ bản của tôn giáo truyền thống ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu những giá trị cơ bản của tôn giáo truyền thống ở Việt Nam

Tìm hiểu những giá trị cơ bản của tôn giáo truyền thống ở Việt Nam
92 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
NGUYỄN NGỌC MAI* 
TÌM HIỂU NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA TÔN GIÁO 
TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM 
Tóm tắt: Sự xuất hiện từ rất sớm, và có khả năng tồn tại độc lập 
với thể chế chính trị, cùng những tác động không nhỏ của tôn giáo 
tới con người, xã hội và văn hóa đã buộc khoa học xã hội và chính 
trị học phải nhìn nhận lại tôn giáo như một thực thể xã hội. Điều 
này đã tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức về tôn giáo 
nói chung và hệ giá trị của tôn giáo nói riêng. Bài viết này tâp 
trung vào việc tìm hiểu và làm rõ những giá trị cơ bản của tôn giáo 
truyền thống ở Việt Nam trên các khía cạnh: luân lý, giáo dục, đạo 
đức và lịch sử. 
Từ khóa: Tôn giáo truyền thống, giá trị, luân lý, đạo đức, thẩm 
mỹ, ý thức hệ, mật mã văn hóa. 
1. Dẫn nhập 
Không giống như các tôn giáo lớn khác ở Việt Nam, tôn giáo truyền 
thống Việt Nam tồn tại khá đa dạng dưới rất nhiều loại hình thờ cúng 
khác nhau mà nếu phân loại thì có thể chia thành các hình thức sau: thờ 
nhân thần (gồm những người có công với dân, với nước như đánh giặc, 
lập làng, lập ấp, truyền nghề, chữa bệnh Những đối tượng này được 
thờ tự tại các đình, đền, miếu và đều được dân tôn xưng là thần, thánh 
hoặc nhà nước phong kiến phong thần (hiện nay các cơ sở thờ tự còn lưu 
giữ được khá nhiều sắc phong như thế); thờ cúng tổ tiên (là hình thức thờ 
cúng linh hồn tổ tiên trong gia đình, gia tộc); thờ nhiên thần (là hình 
thức thờ các sức mạnh huyền bí của tự nhiên được coi là có thần: thần 
núi, thần nước, thần rừng, thần đất, thần cây, thần rắn, thần đá, v.v.. 
Đặc trưng của các hình thái tôn giáo này là không có thiết chế chặt chẽ 
quy củ mà khá mở và dễ biến đổi (các tầng lớp ý nghĩa, hoặc hình thức tổ 
chức lễ nghi cũng như đối tượng tín đồ và giới luật tuân thủ các cấm kị). 
Các phương thức thực hành nghi lễ được tổ chức và thực hiện bởi các 
cộng đồng có niềm tin chung và mang bản sắc vùng, miền, địa phương 
* TS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 
Nguyễn Ngọc Mai. Tìm hiểu những giá trị cơ bản... 93 
rất rõ rệt. Vì vậy, để đánh giá được giá trị của các loại hình tôn giáo này 
là điều không dễ. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào một số đặc trưng và các ý 
nghĩa cơ bản của nó mà định vị giá trị của các loại hình tôn giáo này trên 
một số phương diện như sau: 
2. Về phương diện lịch sử 
2.1. Tôn giáo truyền thống ở Việt Nam tồn tại như một tài liệu dã sử 
về quá trình hình thành và phát triển của các cộng đồng tộc người 
Ở khía cạnh này, biểu hiện rõ rệt nhất là sự hiện diện của tục thờ vua 
tổ và các anh hùng có danh, vô danh mà các ngôi đền, đình còn lại cho 
tới hôm nay như một bằng chứng hùng hồn về một chặng đường đấu 
tranh, xây dựng và gìn giữ độc lập tộc người/ dân tộc. Việc duy trì các 
nghi lễ thờ tự hằng năm với quy cách thể thức lễ nghi bài bản như một 
minh chứng về một sự thật không thể chối cãi về sự tồn tại, ngự trị, bao 
phủ của các triều đại đến hệ thống làng xã. Quan trọng hơn, đó còn là sự 
khẳng định quyền sở hữu, quyền hùng cứ một phương của cư dân Việt 
Nam từ thủa Lạc Việt. Nối tiếp Hùng Vương, Thục Phán và sau này là 
các vua Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn đã trở thành những điểm mốc của 
lịch sử dân tộc. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng như “đóng một 
cái đinh” trong ý thức hệ của người dân Việt về tinh thần độc lập, tự 
cường và ý chí không chịu khuất phục ngoại bang. Tinh thần này về sau 
thể hiện khá rõ rệt trong “Nam quốc sơn hà”. Sự thực đó đã được khẳng 
định trong suốt diễn tiến lịch sử chiến tranh giữ nước của người Việt 
Nam từ năm 179 TCN đến năm 1975. 
Song song với hệ thống thờ cúng vua tổ trong tôn giáo truyền thống ở 
Việt Nam còn có sự hiện diện một hệ thống các đình làng là nơi thờ cúng 
các vị thành hoàng làng - ma làng (theo cách gọi của người thiểu số). Đó 
là những hạt nhân của văn hóa làng, là lịch sử làng, để rồi từ đó thế ứng 
xử Việt Nam ra đời, hình thành và quy chiếu toàn cục văn hóa Việt Nam 
sau này: ứng biến linh hoạt như nước. Không chỉ dừng ở đó, những tập 
quán, kị hèm xung quanh nghi lễ tế tự tại các cơ sở tôn giáo đình làng 
còn cho thấy thiết chế tôn giáo này vẫn tồn tại như một hệ các mật mã 
văn hóa phản ảnh về sự thực thời kỳ khởi nguyên và sự khẳng định quyền 
bá chủ của các thế lực địa phương qua các thời kỳ khác nhau. Câu 
chuyện về thần Cao Lỗ và vị trí của Thần trong tâm thức dân gian và 
những đối trọng về hệ ý thức sau này của thể chế quân chủ xung quanh 
việc thêu dệt nên hình tượng Đô Lỗ - người chế tác nỏ thần không chỉ 
94 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
phản ánh dấu tích tôn sùng đá mà còn phản ảnh những khủng hoảng tâm 
linh của thời kỳ chuyển giao Hùng Vương - Thục Phán thông qua việc tự 
thuật lý lịch và vị thế của mình giữa thần Cao Lỗ và Cao Biền. Điều này 
không chỉ bộc lộ một sự thật về quá trình chia sẻ quyền lực giữa vùng cao 
với vùng thấp; giữa thần đá với thần đầm lầy, sông nước tức là yếu tố 
vùng cao phải yếu thế đi, thậm chí nhường chỗ cho yếu tố thấp. Có thể 
nói, đó là thời kỳ đánh dấu hình thái kinh tế nương rẫy bị thay thế bởi 
kinh tế lúa nước, yếu tố đồng bằng trở thành thế mạnh, địa hình cho việc 
xác lập một nền văn minh mới - văn hóa lúa nước, văn minh sông Hồng. 
2.2. Về phương diện luân lý - đạo đức 
Trong tôn giáo truyền thống, các đối tượng thiêng (chủ thể được thờ 
phụng) chiếm tỷ lệ khá cao là những nhân vật có công với nhân dân, đất 
nước trên các lĩnh vực: đánh giặc, dạy nghề, lập làng mở đất, dạy ca múa, 
vui chơi hay thậm chí chỉ là người chết vào giờ thiêng, có khả năng tác 
động đến sự an nguy của dân làng... Việc thờ phụng tế lễ trao truyền qua 
các thế hệ người Việt từ xưa cho đến nay thực tế cũng chính là sự giáo 
dục con người về cách thức và sự tuân thủ trong các chiều kích ứng xử: 
với con người có ơn nghĩa, nhân tình là biết ơn trọng thị; với thiên nhiên 
là hài hòa, kính nhường. Đó là thế ứng xử mang tính vĩ mô đã quán 
xuyến mọi lĩnh vực của đời người sống trên dải đất Việt Nam. Bằng 
phương châm chung với tiền nhân là kính - thờ, cách quy định thế ứng xử 
này thể hiện bằng việc thờ phụng hương khói và tế lễ hằng năm, hằng 
tháng đều chỉ là tạo ra thói quen và được duy trì qua các thế hệ, thông 
qua đó cũng giáo dục con người biết hướng tới những điều lớn lao hơn, 
biết sống và hành động vì những mục đích cao cả. Tư tưởng “uống nước 
nhớ nguồn” vì thế đã trở thành lẽ sống, thành thước đo đạo lý làm người 
của dân tộc Việt Nam. 
Tuy nhiên, trong ứng xử với thần của người Việt Nam thì đó lại là mối 
quan hệ hai chiều: có đi có lại, hay nói một cách khác đó là đòi quyền 
được dân chủ giữa người - thần. Tư thế này thể hiện ở chỗ có kính - thờ 
nhưng không phải là khiếp sợ, tránh xa mà là đến gần và bằng mọi cách 
xác lập mối quan hệ tương hỗ có qua có lại, trách nhiệm luôn đi liền với 
quyền lợi. Con người có trách nhiệm thờ cúng thần linh và ngược lại thần 
linh (kể cả tổ tiên đến ông trời) đều có trách nhiệm phù hộ độ trì cho con 
người. Vì thế, phong tục xưa kia nhiều làng hạn hán cúng mãi, cầu mãi 
mà chưa được như ý dân làng đem bài vị thần (bằng gỗ) ra phơi nắng; khi 
Nguyễn Ngọc Mai. Tìm hiểu những giá trị cơ bản... 95 
lụt lội cầu thần mà không được đem tượng thần (bằng đất) ra ngâm nước! 
(Trần Ngọc Thêm, 1997). Tình trạng này cũng còn thấy cả ở trong lời 
khấn thần linh của các tộc người Tây Nguyên với công thức: “hỡi các 
thần (kể tên từng vị), chúng tôi muốn (nêu yêu cầu), chúng tôi đã cho các 
vị (liệt kê các vật hiến tế), mong các vị giúp chúng tôi đạt được ý muốn. 
Một số nơi còn thêm lời giao hẹn: nếu các vị không giúp chúng tôi sang 
năm chúng tôi không cúng các vị nữa! (Tô Ngọc Thanh, 1995). Như vậy, 
việc sử dụng lễ vật trong cúng thần ở người Việt Nam thực ra chỉ là để 
mong có thêm nhiều vật chất nữa. Đó là tư duy rất thực tế, đời thường 
của cư dân nông nghiệp trồng lúa. Ở đây, ta thấy quyền năng của thần 
trong tư duy người Việt Nam không chỉ và không phải để cứu rỗi linh 
hồn hay xoa dịu sự tổn thương về nội tâm, sự mệt mỏi về tinh thần hoặc 
lý giải giúp con người những câu hỏi tối thượng về cuộc sống sau cái 
chết mà với người Việt Nam các thần ngự trên cao, ngự trong tâm tưởng 
họ là để đáp ứng nhu cầu về cơm ăn, áo mặc và sự sung sướng trong cuộc 
sống vật chất. Tư duy này quán xuyến hết thảy trong các lời kêu cầu tới 
thần của cả người miền xuôi lẫn miền núi, cả dân tộc chủ thể và dân tộc ít 
người. Đây là phương diện ứng xử mang quy phạm đạo đức với tinh thần 
dân chủ điển hình trong tôn giáo truyền thống ở Việt Nam khác hẳn với 
các tôn giáo ngoại lai (chỉ có ở Việt Nam khi đi thi, làm ăn, dựng vợ gả 
chồng hay cầu con, cầu của, cầu mạnh khỏe tất cả đều được bày tỏ 
trước hương án thần linh) và cầu xin trợ giúp. 
Nhiều nghiên cứu về tôn giáo truyền thống ở Việt Nam đã gọi/ đặt tên 
cho quy phạm ứng xử này là thể hiện tính dân chủ, trên thực tế đó chỉ là 
biểu lộ hay phản ánh về một thực tế luôn luôn bất an của những cư dân 
sống trên một dải đất nhạy cảm cả về địa sinh quyển và địa chính trị. 
Thần, Thánh đối với người Việt Nam không quan trọng ở nguồn gốc xuất 
thân mà là ở căn tính và chức năng của họ trong mối tương quan với nhu 
cầu của người sống. Trong tâm thức dân gian, thần, thánh là kết tinh của 
trí tuệ và những quyền năng mà con người mong mỏi có được để thiết 
lập, xây dựng một cuộc sống hiện sinh tốt đẹp mà ở đó có cơm ăn áo 
mặc, con người có sức khỏe, có con đàn cháu đống Vì thế, tôn giáo 
truyền thống ở Việt Nam, của Việt Nam mang ý nghĩa hiện sinh sâu sắc. 
Đây chính là khía cạnh lý giải vì sao dân Việt thờ cả tướng lĩnh Trung 
Hoa (Sĩ Nhiếp, Sầm Nghi Đống). Như William James phát biểu: “tín 
ngưỡng có hiệu lực không phải vì chúng đáng tin cậy mà chúng đáng tin 
cậy vì chúng có hiệu lực”1. 
96 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
3. Về phương diện thẩm mỹ 
3.1. Thế giới siêu nhiên với tính đa thần của người Việt Nam được 
xây dựng, dàn dựng như một mẫu mực cho cuộc đời này hướng tới 
Với cuộc sống vất vả, thường xuyên phải đối mặt với mọi nguy cơ 
trong cuộc sống do thiên tai giáng xuống, hiểu rõ sức người hữu hạn nên 
khát vọng thường trực của người Việt Nam là chinh phục được thiên nhiên, 
chiến thắng hung ác bạo tàn để xây dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc. 
Tư duy ấy đã được các thế hệ người Việt Nam bồi đắp, xây dựng và kết 
tinh thành những hình tượng thánh thần: đó là những mô típ thần thiêng 
vừa hiểu thấu con người vừa làm thay con người, thậm chí sống thay con 
người khi mà thể chế hay những trói buộc của giai cấp thống trị đương thời 
khiến họ không thể/ không có cách nào để sống như mình mong muốn. Từ 
khía cạnh này nên thần thoại/ ngọc phả về các thần, thánh ở Việt Nam xét 
về khía cạnh thẩm mỹ giống như những thiên anh hùng ca trên mọi khía 
cạnh từ làm ăn đến đánh giặc; từ sáng tạo vũ trụ đến vui chơi. Hình tượng 
Nữ Oa đội đá vá trời, nàng Ải Lậc Cậc của người Tày sáng tạo ra thế giới; 
truyền thuyết dựng núi cao làm tường thành để ngăn lụt lội của Sơn Tinh; 
hóa phép một đêm thành phố xá bán buôn tấp nập và dạy dân lam lũ làm 
thương mại của Chử Đồng Tử; dùng tre đằng ngà đập tan quân xâm lược 
của Thánh Gióng hay ngao du thiên hạ sống cuộc đời tự do tự tại và 
khuyến thiện trừng ác của bà Chúa Liễu; bày đặt trò chọn nam nữ hát đối 
đáp nhau để giao duyên ân tình của Vua bà đất Kinh Bắc, v.v.. Tất cả 
những biểu tượng thiêng đó chính là kết tinh của mơ ước chế ngự thiên 
nhiên, tinh thần ham sống và khát vọng sống tự do vượt ra ngoài vòng 
kiềm tỏa của những giáo lý Khổng giáo vay mượn trói buộc biết bao thế hệ 
người dân, người phụ nữ của đất này. Rõ rệt hơn và cũng biểu lộ hơn là 
hình tượng những nữ thần đại diện cho khát vọng sống, khát vọng yêu, 
khát vọng phồn thực vẫn điềm nhiên hiển lộ giữa đất kinh kỳ nơi đóng đô 
của triều đình quân chủ Khổng giáo mà Bà Banh/ Bà Đanh là những đại 
diện tiêu biểu cho dù họ là những thần linh có nguồn gốc ngoại. 
3.2. Nhờ cảm xúc tôn giáo, con người có thể nhìn thấy cuộc sống từ 
một góc độ mới, biết suy ngẫm về tính thường biến của vạn vật 
Cảm xúc tôn giáo là một hiện tượng phức tạp nó bao hàm quan niệm 
về thế giới, các giá trị cụ thể, các tâm thế và phản ứng gắn liền với chúng. 
Cảm xúc tôn giáo khi xuất hiện có ảnh hưởng nhiều đến lối sống và các 
quan niệm, giá trị của cá nhân chủ thể. 
Nguyễn Ngọc Mai. Tìm hiểu những giá trị cơ bản... 97 
Trong tôn giáo nói chung thì tình cảm tôn giáo là yếu tố đóng vai trò 
như là động lực để định hình niềm tin tôn giáo. Nhiều nhà tâm lý học đã 
coi tình cảm tôn giáo như là nguồn gốc cơ bản của tôn giáo, nó là sự 
thống nhất đặc biệt giữa lòng khâm phục và sự sợ hãi thần linh. Tình cảm 
tôn giáo cũng có 2 mặt: tình cảm tích cực (tình yêu, sự kính phục, tôn 
sùng với Thần chủ và với cộng đồng tôn giáo) và tình cảm tiêu cực (phụ 
thuộc, lo lắng và sợ hãi)2. Từ khía cạnh này cho thấy, tôn giáo vừa có 
chức năng an ủi, giúp các cá nhân giải tỏa được các trạng thái stress 
(căng thẳng thần kinh), tìm được những giải pháp cho một số tình huống 
mà con người bế tắc trước thực tại cuộc sống3. Mặt khác, lại trói buộc 
con người với các lực lượng siêu nhiên và buộc phải thực hành các chuẩn 
mực của giáo phái. Cảm xúc khi tham gia tôn giáo cũng có những giai 
đoạn phát triển khác nhau trong quá trình thực hành nghi lễ tôn giáo. 
Theo Vũ Dũng (1998), cảm xúc tôn giáo khi xuất hiện thường trải qua 3 
giai đoạn : 
Giai đoạn bắt đầu, cường độ tình cảm tôn giáo tăng từ từ, các cảm xúc 
tiêu cực chiếm ưu thế, người hướng dẫn nghi lễ kêu gọi sự ăn năn, hối 
lỗi sự kêu gọi này tác động lên toàn bộ hệ thống tác động tâm - sinh lý 
những người tham dự lễ thức làm cho cường độ cảm xúc tăng lên. 
Giai đoạn thứ hai, cường độ tình cảm tăng lên, tình cảm chuyển sang giai 
đoạn đạt cường độ cao nhất, nội tâm tín đồ có sự chuyển biến quan trọng, 
những cảm xúc tiêu cực chuyển hóa thành những cảm xúc tích cực, từ cảm 
xúc sợ hãi, mặc cảm, tội lỗi chuyển thành cảm xúc thanh thản, vui sướng. 
Giai đoạn thứ ba, giai đoạn kết thúc khi cường độ cảm xúc đạt tới 
đỉnh cao thì xuất hiện quá trình làm dịu bớt những kích thích xúc cảm, 
tình cảm trở về gần như cường độ ở thời điểm khởi đầu nhưng là mức độ 
của các cảm xúc tích cực: thanh thản nhẹ nhàng, đôi khi có cả niềm hy 
vọng. Ở nhiều đối tượng, tâm hồn hồi tỉnh, được giải phóng, dễ chịu hơn, 
sảng khoái hơn và trong sáng hơn. Tất nhiên, tham gia vào quá trình giải 
phóng cảm xúc này còn có khá nhiều yếu tố: sinh lý, ăn chay, cơ chế tâm 
lý, bắt chước và lây lan tâm lý 
Nghiên cứu của William James cho biết cảm xúc tôn giáo mang lại cho 
con người cảm nhận thấy phép màu; cảm nhận thấy quan niệm mới và các 
giá trị mới; cảm nhận thấy tính thần thánh và thâm thúy. Khi cảm xúc tôn 
giáo xâm chiếm toàn bộ trí tuệ, tình cảm, giá trị và quan hệ sinh tồn của 
con người, nó đụng chạm tới ý thức cơ bản và nền tảng về sự nhất thể hóa4. 
98 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
 Cảm xúc tôn giáo được lý giải như thế nào lại phụ thuộc vào văn hóa, 
tư tưởng và ngôn ngữ của mỗi cá nhân, tộc người và được thừa nhận ở 
thời điểm mà người ta cảm nhận. Trong nhiều trường hợp cảm xúc tôn 
giáo diễn ra bất ngờ và hướng cuộ ... ứ tình cảm tiêu cực: sự phụ thuộc, lo lắng và sợ hãi, có thể 
coi đó là trạng thái bất an. Khi đến với nghi lễ lên đồng hầu bóng thì các 
căn Đồng đã trực tiếp trải nghiệm và lĩnh hội được sự thanh thản thoải mái 
mà bản thân họ có được sau nghi lễ. Trong đó, còn phải kể đến sự tham gia 
và hiệu quả đặc biệt vào quá trình này của các hệ thống thanh âm khiến 
Nguyễn Ngọc Mai. Tìm hiểu những giá trị cơ bản... 99 
nhiều người nhạy cảm có ngay được cảm xúc tích cực ở mức độ đỉnh cao. 
Kết thúc cuộc hầu đồng, họ lấy lại được tâm thế thăng bằng, sự thanh thản 
thoải mái, sáng suốt và hưng phấn. Điều này có tác dụng chuyển hóa trạng 
thái tâm lý tiêu cực trước khi lên đồng sang dạng tâm lý tích cực sau khi 
lên đồng. Lẽ đương nhiên nó có tác dụng mạnh trong việc củng cố niềm tin 
tôn giáo vốn dĩ trước đó chỉ là mơ hồ về Thần Thánh (trong quan điểm của 
họ, như vậy là được Thánh tiếp lộc, tiếp sức). Từ đây cho thấy, nghi lễ lên 
đồng chính là phương tiện cộng hưởng với nhiều yếu tố khác có tác dụng 
chuyển hóa nhận thức tâm linh các căn Đồng, xác lập một niềm tin tôn 
giáo vững bền nơi ý thức của họ”9. 
3.3. Tôn giáo truyền thống tạo nên di sản văn hóa dân tộc Việt Nam 
Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn từng nhận định: văn hóa dân gian Việt Nam 
đã làm nên dân tộc Việt Nam, khi văn hóa dân gian còn thì dân tộc Việt 
Nam còn. Các nhà nghiên cứu văn hóa đã chỉ ra và chứng minh bằng rất 
nhiều dẫn chứng về dân tộc Việt Nam có thể mất nước nhưng chưa bao 
giờ mất làng. Và làng còn thì dân tộc, quốc gia vẫn còn. Văn hóa làng đã 
trở thành hằng số văn hóa, thành then chốt cho mọi thể chế cai trị, khi 
nắm được làng là nắm được dân và có dân là còn nước 
Văn hóa làng với hằng số cây đa, bến nước, sân đình. Cây đa là nơi 
tỏa bóng mát cho người dân mỗi khi làm lụng vất vả khó nhọc nghỉ ngơi, 
nhưng ở đó cũng có thần phù độ; sân đình là nơi diễn ra tất cả những hoạt 
động của cộng đồng làng, là nơi vui chơi, nơi tất cả mọi thành viên từ lý 
trưởng đến mõ làng đều được bình đẳng trước thần, là nơi cả cộng đồng 
thực hành những điều tốt đẹp nhất để hướng về thần, mong được thần 
phù trợ. Quan trọng hơn, hạt nhân tôn giáo ấy lại là nơi thể hiện hết thảy 
tài năng, tư duy và mơ ước của con người. Những nghệ thuật tinh xảo, 
khéo léo của người Việt xưa về hội họa, về kiến trúc và điêu khắc đều 
được thể hiện tại đình. Những di sản kiến trúc ấy đến nay vẫn khẳng định 
giá trị vững bền thách thức với thời gian và là những công trình kiến trúc, 
nghệ thuật vô giá. Những bức mê, cốn, chạm lộng, bong kênh trên các 
cột, kèo, vì của đình Tây Đằng, Kim Liên, Chu Quyến, So (Hà Nội); 
đình Thổ Hà, Phù Lão (Bắc Giang) là những di sản kiến trúc có giá trị. 
Như vậy, đình không chỉ là cơ sở tôn giáo đơn thuần mà còn là nơi thăng 
hoa của nghệ thuật, của cái đẹp của những ước mơ và tư duy tự do bay 
bổng, thậm chí ở đó còn là cả một minh triết dân gian. Với chức năng đa 
dạng ấy, đình thờ thần thành hoàng làng không chỉ là biểu tượng tâm linh 
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
mà còn là biểu tượng của tâm tư, nguyện vọng và tình cảm, trí tuệ được 
thăng hoa: “qua đình ngả nón trông đình/ Đình bao nhiêu ngói, thương 
mình bấy nhiêu”. Đình với người Việt Nam không chỉ là chốn thâm 
nghiêm tôn giáo, mà còn là biểu tượng của chân - thiện - mĩ, biểu tượng 
của những gì tốt đẹp nhất: “Trúc sinh trúc mọc đầu đình/ Em xinh em 
đứng một mình cũng xinh” hay: “Hôm qua tát nước đầu đình/ Để quên 
chiếc áo trên cành hoa sen”. 
Thử tưởng tượng ở chốn làng quê Việt xưa im lìm trong tiếng gà trưa, 
xôn xao, ai oán trong mùa sưu thuế, nếu không có lễ hội làng thì người dân 
lam lũ bao đời sẽ thăng hoa cảm xúc ở đâu. Lễ hội làng là thời điểm để 
thực hành nghi lễ tế thần nhưng cũng là đỉnh điểm thời khắc mạnh của văn 
hóa làng. Ngày kị thần cũng là ngày làng mở hội, toàn dân trong bản hạt 
đều có dịp mở mày mở mặt với nhau và với thiên hạ. Người ta đua nhau, 
thi với nhau về sản vật chăn nuôi, trồng cấy, cũng là ngày từ người chân 
lấm hàn vi nhất trong làng cũng có dịp được mặc manh áo mới để ngẩng 
mặt với hàng xóm, cũng là ngày dân thiên hạ nô nức tới /đi trảy hội để giao 
lưu, để đổi trao và cũng là để học hỏi, tìm hiểu nhau (ngày nay những sắc 
thái này vẫn giữ nguyên nếp cũ). Từ những hội lễ, lễ hội này mà các sắc 
thái văn hóa ra đời và trở thành những sản phẩm mà ngày nay chúng ta 
đang khoe với thế giới để được công nhận là di sản văn hóa nhân loại. Đó 
là nghệ thuật cồng chiêng trong lễ hội Tây Nguyên (xuất phát là nghi lễ tôn 
giáo để cúng thần Sơ gơng - thần chiêng); di sản dân ca quan họ Bắc Ninh 
(xuất phát từ tục hát thờ vua Bà); hát Dậm Ninh Bình (xuất phát từ múa hát 
thờ thần núi Cấm) và hát văn, múa bóng (xuất phát từ hát thờ thánh Mẫu); 
Ca trù cũng bắt đầu từ lễ tế Thổ ở đình làng. Cũng như vậy, lễ hội Xên 
bản, Xên mường của người Thái là từ tục thờ thần bản mường và là dịp để 
người Thái phô diễn điệu múa xòe mê hoặc; và lễ hội Sơn Đông của người 
Mông thờ cây chè tổ cũng là dịp để người Mông múa điệu khèn gọi bạn 
suốt ngày đêm. Ở khía cạnh này, biểu diễn cho thần linh xem chỉ là cái cớ 
để tâm hồn con người lam lũ được thăng hoa và biểu diễn tại không gian 
thiêng chính là cái cớ để mọi hành vi nghệ thuật có thể vượt ngưỡng mà 
không lo sợ bị khống chế, trừng phạt. 
 Bến nước cũng là điểm tập trung của làng, là nơi diễn ra các cuộc rước 
nước về làm lễ mộc dục vì thế bến nước trở thành thiêng thành nơi cả cộng 
đồng tụ hội để trao đổi, để giao tiếp và rồi để họat động thương mại chốn 
làng quê, chợ búa thực ra là từ đọc chệch từ chợ bến. Có hệ thống chợ bến 
mới nảy sinh câu truyện tình lãng mạng nhất hành tinh giữa cô gái khuê 
Nguyễn Ngọc Mai. Tìm hiểu những giá trị cơ bản... 101 
các con gái Vua Hùng với chàng trai tứ cố vô thân họ Chử để rồi tồn tại 
minh chứng cho đến ngày nay đền thờ 2 người vẫn hiện diện trên dải đất 
thuộc Bãi Tự nhiên bên bờ Sông Hồng cuộn đỏ phù sa. 
Như vậy, tôn giáo truyền thống không chỉ là bệ đỡ tinh thần cho con 
người Việt Nam suốt bao thế kỷ mà còn là nơi giải đáp cho những ước 
nguyện hiện sinh, cho cuộc sống lam lũ được thăng hoa, cho cảm xúc 
không còn bó cứng bởi luật lệ của làng. Ở đó thần tha thứ, chứng giám và 
ủng hộ tất cả kể cả những hành vi mà các tôn giáo ngoại lai quy định cấm 
kị hay hệ tư tưởng Khổng giáo vay mượn dụng công cấm đoán. Người 
nông dân Việt Nam vẫn được thỏa nguyện hát hò, tìm hiểu, yêu đương 
nhau mà không phải sợ sệt10. Ở góc độ Tâm lý học, chỉ khi cảm xúc được 
thăng hoa thì sáng tạo mới bắt đầu. Thần, thánh ở Việt Nam là như vậy: 
chứng kiến và ủng hộ, phúc đáp và thu nhận, khơi nguồn tất cả những gì 
con người nhất. Đó chính là triết lý của tôn giáo truyền thống Việt Nam. 
Như vậy, với vị trí là bệ đỡ tinh thần, sự hiện diện của các linh thần và 
nơi thờ tự, các tôn giáo truyền thống đóng vai trò là hạt nhân kiến tạo nên 
những di sản văn hóa cho dân tộc Việt Nam 
4. Về phương diện ý thức hệ 
Một trong những yếu tố nổi bật trong tôn giáo truyền thống ở Việt 
Nam là yếu tố Nữ - âm trội vượt trong hàng ngũ các linh thần phò trợ. 
Tổng kết của Mai Thị Ngọc Chúc và Đỗ Thị Hảo cho biết có tới 75 nữ 
thần được thờ tự ở Việt Nam. Trong đó, đặc biệt nổi lên các nữ tối linh 
thần có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt 
Nam. Đó là những Liễu Hạnh của châu thổ Bắc Bộ; Thiên Yana của 
duyên hải Miền Trung, Bà Đen của Nam Trung Bộ và Bà Chúa Xứ của 
Tây Nam Bộ. Trong văn hóa Việt Nam/ Phương Nam, yếu tố nữ được coi 
như một mấu chốt quan trọng của việc tiếp nối và giữ gìn truyền thống 
văn hóa. Nó như một tấm “barie ngăn trở” sự xâm lăng văn hóa ngoại và 
đồng thời cũng là biểu hiện của hệ ý thức dân tộc luôn khẳng định tính dị 
biệt của mình và phản ứng mạnh mẽ với văn hóa Hán trọng nam mà câu 
chuyện lẫy nỏ thần được giao cho Mị Châu giữ là một bằng cứ (Mị Châu 
là danh xưng ám chỉ vị trí của người phụ nữ quý tộc xưa, đó là tên chung 
chỉ các bà chúa - Mệ Nàng). Việc lẫy nỏ giao Mị Châu trông giữ nếu nhìn 
từ phương diện xã hội xưa sẽ thấy vai trò chính của nó là “tính cách 
truyền theo dòng mẹ và vai trò cao của người đàn bà trong xã hội xưa, 
qua đó thì hiểu rằng việc giữ nỏ có ý nghĩa là việc giữ gìn truyền thống” 
102 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
(Tạ Chí Đại Trường, 2000: 27). Các yếu tố này nếu đươc xem xét kỹ sẽ 
thấy mật độ khá dầy trong văn hóa tôn giáo truyền thống với tỷ lệ giới 
khá cao trong hệ thống ứng xử linh thiêng của người Việt Nam. Nếu gạt 
bỏ lớp văn hóa bên ngoài sẽ thấy rất rõ biểu hiện hạt nhân Việt lúa nước 
bên trong. Dù là trên bề mặt của văn hóa Phật giáo: chùa Dặn (Rặn)/ Dâu 
ở Bắc Ninh; Bà Đậu, Bà Giàn 
Man Nương (“người đàn bà bản xứ” (thấp kém)) không phải là một 
tên riêng mà là tên chỉ chung những người phụ nữ thời kỳ thị tộc mẫu hệ 
(náng mán = nàng chửa). Đó cũng là dấu hiệu của một quyền uy xã hội 
đã thấy nơi những con người lịch sử: Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Hòn đá 
cầu mưa “có dáng hình một sinh thực khí nam” từ khởi thủy đó, đến nay 
vẫn còn trong chùa Dâu với danh hiệu Đức Thạch Quang (Phật). Các phụ 
tính thiêng liêng của Thần trở thành các Phật Mây, Mưa, Sấm, Chớp lấn 
át các Phật chính thức, tất cả dù có uy vũ đến đâu cũng phải chịu tôn 
xưng Man Nương là tổ, dù rằng đền thờ Bà hiện nay chỉ là chùa làng11. 
 Rồi hàng loạt các thần linh nữ khác để tồn tại được trong thời kỳ văn 
hóa quân chủ Khổng giáo phải hóa thân thành các tướng lĩnh của Bà 
Trưng, Bà Triệu nhưng vẫn thể hiện rất rõ đặc tính tinh thần của văn hóa 
nông nghiệp Phương Nam: bà chúa rừng thành bà Bát Nàn; các mẫu 
Thượng Ngàn. Rõ rệt nhất của tinh thần dị biệt với Phương Bắc là các 
Thạch linh, thần núi (theo nguyên lý trồi lên, cứng rắn là thuộc dương) 
nhưng ở Việt Nam cơ bản đều mang tính cách nữ: Mẫu Sơn (Lạng Sơn), 
Mẫu Cửu Trùng (Tam Đảo); Thiên Ya Na/Hòn Chén (Huế); Bà Chúa Xứ/ 
Núi Sam (An Giang) Hệ thống các nữ thần này đã cho thấy ý thức hệ 
về một tư duy đối trọng với văn hóa phụ hệ của Hán bang. 
Tục hèm trong lễ hội thờ thần ở các địa phương trên cả nước chính là 
những bí mật làng xã. Nó không chỉ nói lên thân phận các thần linh được 
giấu kín, được bọc bằng vỏ ngoài phù hợp với tư duy của giai cấp thống 
trị mà ở đây các hèm đã chứng tỏ một quy luật rằng ý chí làng xã luôn 
tồn tại trong tâm thức người dân. Nếu phép vua có tính nhân văn thì song 
hành cùng tồn tại với lệ làng (trường hợp lễ hội thờ ông Đùng, bà Đà), 
trong trường hợp phép vua không còn nhân tính thì sẽ là phép vua thua lệ 
làng. Đó là lý do khi triều đình sát hạch một loạt các thần để “cấp phép”, 
phong hàm thượng, trung, hạ đẳng thần năm 1572 thì các thần của dân 
gian đã mang một lý lịch mới, một vỏ bọc mới, nhưng nội hàm, hạt nhân 
của lễ hội thờ thần vẫn là các trò diễn hèm hết sức hấp dẫn và vẫn vẹn 
Nguyễn Ngọc Mai. Tìm hiểu những giá trị cơ bản... 103 
nguyên tinh thần phồn thực - ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp. 
Có thể kể ra vô số những lễ hội thờ thần như thế: trò Tùng - Dí; Tứ nghệ 
(lễ hội đền Hùng); Trò chen (lễ hội Nga Hoàng); trò tắt đèn (lễ hội Rã 
La); trò chơi hang (chùa Thầy); xấp xí Thái; bắt chạch trong chum 
5. Kết luận 
Đóng vai trò là hạt nhân của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước và lúa 
cạn, tôn giáo truyền thống ở Việt Nam đã lưu giữ trong lòng nó biết bao 
những hằng số, thông tin và mật mã văn hóa của dân tộc Việt Nam. Mặc 
dù chưa bao giờ giữ vị trí quốc giáo hay quốc đạo nhưng tôn giáo truyền 
thống Việt Nam giống như một dòng mạch ngầm, thấm đẫm, lan tỏa vào 
toàn bộ hệ thống văn hóa Việt Nam. Nó không chỉ quy định thế ứng xử, 
tâm hồn tính cách người Việt Nam mà còn có khả năng quy chiếu, hội tụ 
và lập thành rào cản với văn hóa bên ngoài. 
Có đặc điểm không cao siêu với những hệ thống luân lý trừu tượng 
khó hiểu, tôn giáo truyền thống ở Việt Nam giản dị và hiện diện giữa đời 
thường của con người. Nó “chịu trách nhiệm” cung ứng các “chất liệu 
xúc tác” cho nhu cầu thường trực của đời sống tâm lý, tâm linh, tinh thần, 
tình cảm của con người trong cuộc sống hiện sinh hằng ngày. Chính điều 
này khiến nó trở nên có giá trị hữu dụng và gắn bó mật thiết với con 
người, đời người. 
Với những đặc điểm và chức năng nêu trên, tôn giáo truyền thống của 
Việt Nam cũng đồng thời là yếu tố cơ bản, cấu thành nên đời sống tâm 
linh và bản sắc văn hóa Việt Nam./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Triết học tôn giáo, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004: 62. 
2 Vũ Dũng (1998), Tâm lý học tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 91. 
3 Từ tác dụng này mà tôn giáo dẽ bị lợi dụng vào những mục dích tiêu cực. 
4 William James, “Đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo”, trong Triết học tôn giáo, 
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004: 19. 
5 William James, “Đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo”, sđd: 19. 
6 Biểu thị tri thức mà con người ta nhận được bằng con đường siêu tự nhiên. 
7 William James, “Đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo”, sđd: 51. 
8 William James, “Đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo”, sđd: 19. 
9 Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị, Nxb. Văn hóa, Hà 
Nội: 253. 
10 Rất nhiều tục lệ các địa phương cho phép trai gái chòng ghẹo nhau, thậm chí yêu 
đương nhau tại đình: lễ hội làng Rã La có tục tắt đèn; lễ hội làng Nga Hoàng có 
tục chen; lễ hội chùa Thầy có tục chơi hang Cắc Cớ 
104 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2016 
11 Phan Đại Doãn, Lê Văn Mĩ (1987), “Phật Giáo dân gian vùng Dâu”, Văn hóa 
Dân gian, số1: 68, 71. Theo Nguyễn Duy Hinh (1987), “Hệ tư tưởng trước Lý”, 
Nghiên cứu Lịch sử, số 5-6: 54, 60, thì hòn đá thiêng chùa Dâu lâu nay “mất 
tích” vừa được tìm thấy “cất giấu trong chùa”, là một hòn đá tròn “chế tác nhẵn 
nhụi, có dáng một sinh thực khí nam”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Dũng (1998), Tâm lý học tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
2. Phan Đại Doãn, Lê Văn Mĩ (1987), “Phật Giáo dân gian vùng Dâu”, Văn hóa 
Dân gian, số 1. 
3. Ngô Văn Doanh (2008), Tháp bà Thiên yana hành trình của một nữ thần, Nxb. 
Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
4. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb. Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
5. Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị, Nxb. Văn hóa, Hà 
Nội. 
6. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã việt Nam, Nxb. Văn hóa 
dân tộc, Hà Nội. 
7. Tạ Chí Đại Trường (2000), Thần và người đất Việt, Nxb. Văn nghệ, Hoa Kỳ. 
8. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa, Hà 
Nội 
9. Triết học tôn giáo, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. 
Abstract 
RESEARCH ON FUNDAMENTAL VALUES OF THE 
TRADITIONAL RELIGIONS IN VIETNAM 
Religions appeared early, and they could exist independently with 
political institutions. The significant impacts of religion on human being, 
society and culture have led recognization religions as a social entity of 
the social sciences and politics. This has created the new changes in the 
perception of religion in general and of religious values in particular. 
This article examines and clarifies the basic values of the traditional 
religions in Vietnam on these aspects such as ethic, education, and 
history. 
Keywords: Aesthetic, cultural cryptography, ethic, ideology, 
morality, traditional religion, value. 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_nhung_gia_tri_co_ban_cua_ton_giao_truyen_thong_o_vi.pdf