Tìm hiểu văn hóa đọc của sinh viên ngành Thông tin học trường Đại học Cần Thơ

Tóm tắt: Bài viết trình bày sơ lược về cách tiếp cận với văn hóa đọc trong giai đoạn hiện nay.

Phân tích thực trạng văn hóa đọc của sinh viên ngành thông tin học Trường Đại học Cần Thơ, từ đó

đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa đọc cho sinh viên ngành thông tin nói riêng, sinh

viên Trường Đại học Cần Thơ và bạn đọc nói chung

pdf 8 trang yennguyen 4720
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu văn hóa đọc của sinh viên ngành Thông tin học trường Đại học Cần Thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu văn hóa đọc của sinh viên ngành Thông tin học trường Đại học Cần Thơ

Tìm hiểu văn hóa đọc của sinh viên ngành Thông tin học trường Đại học Cần Thơ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
31THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
Lâm Thị Hương Duyên, Lưu Mỹ Chi
Trường Đại học Cần Thơ
TÌM HIỂU VĂN HÓA ĐỌC CỦA SINH VIÊN 
NGÀNH THÔNG TIN HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ 
1. Đặt vấn đề
Văn hóa đọc là một trong những yếu tố 
then chốt để góp phần hình thành những 
công dân có hiểu biết, có trách nhiệm, bắt 
kịp với sự phát triển của thời đại. Rèn luyện 
và phát triển văn hóa đọc trong nhà trường 
sẽ là yếu tố thúc đẩy quá trình học tập và 
nghiên cứu của sinh viên (SV), giúp cho 
việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ đạt hiệu 
quả, từ đó nâng cao hiệu quả của việc dạy 
học. Tại trường Đại học Cần Thơ (ĐHCT), 
nơi có hơn 50.000 người học ở các bậc, 
chương trình đào tạo cũng được thiết kế có 
chú trọng phát triển kỹ năng, văn hóa. Mặc 
dù chưa có một khảo sát cụ thể nào về vấn 
đề này, song cũng tương tự như tình hình 
chung của toàn xã hội, việc đọc của SV bị 
ảnh hưởng rất nhiều từ các nguyên nhân 
chủ quan và khách quan. Những nguyên 
nhân dễ thấy là sự xuất hiện của Internet, 
các ứng dụng giải trí trên thiết bị di động, 
sự ra đời của mạng xã hội, làm thêm, đã 
tiêu tốn nhất nhiều thời gian của các bạn 
trẻ, do đó SV còn ít thời gian tập trung vào 
việc đọc sách, đọc tài liệu có giá trị cho 
ngành nghề và làm giàu vốn sống và các 
kỹ năng cần thiết. Do sự phát triển mạnh 
mẽ của Internet, cơ sở dữ liệu, việc xem xét 
văn hóa đọc ngày nay cần được mở rộng 
sang cả các loại hình tài liệu số hóa mà 
các thư viện hay các nhà cung cấp đã xây 
dựng, đã tổ chức và cung cấp truy cập cho 
bạn đọc. Bài báo trình bày kết quả khảo sát 
thực trạng, đồng thời chỉ ra những thuận lợi 
và khó khăn ảnh hưởng đến việc đọc của 
sinh viên trong ngành, đề xuất một số giải 
pháp nhằm nâng cao văn hóa đọc cho SV 
ngành nói riêng, SV trường ĐHCT và người 
đọc nói chung.
2. Sơ lược về văn hóa đọc 
Đọc sách trong thế kỷ 21 không còn giới 
hạn trong việc đọc sách in. Tác giả Loan, 
F. A. (2012) cho rằng, phạm vi của việc đọc 
đã mở rộng tới các nguồn Internet, điều 
này làm thay đổi văn hóa đọc truyền thống 
của các độc giả. Phạm vi của nguồn đọc 
đã thay đổi đáng kể, bao gồm các trang 
web, sách điện tử, tạp chí điện tử và các tài 
liệu đa phương tiện khác. Đồng quan điểm 
này, tác giả Trần Đức Vượng (2013) cũng 
khẳng định rằng, khái niệm về sách không 
còn giới hạn dưới dạng ấn phẩm nữa mà 
Tóm tắt: Bài viết trình bày sơ lược về cách tiếp cận với văn hóa đọc trong giai đoạn hiện nay. 
Phân tích thực trạng văn hóa đọc của sinh viên ngành thông tin học Trường Đại học Cần Thơ, từ đó 
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao văn hóa đọc cho sinh viên ngành thông tin nói riêng, sinh 
viên Trường Đại học Cần Thơ và bạn đọc nói chung.
Từ khóa: Văn hóa đọc; kỹ năng đọc; sinh viên; ngành thông tin học
Reading culture of LIS students at Can Tho University
Abstract: The article introduces the research methodology in studying the reading culture at 
present. Then it analyzes the current status of the reading culture of students majoring in information 
science at Can Tho University. Finally, the article provides some recommendations to improve the 
reading culture for students majoring in information science in particular as well as students at Can 
Tho University and readers in general.
Keywords: Reading culture; reading skill; students; information science. 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
32 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
thêm vào đó là sách điện tử lưu trong đĩa 
CD-ROM hoặc được chuyển tải trên mạng 
Internet. Vì vậy, nội hàm của văn hoá đọc 
được mở rộng, đặc trưng của văn hoá đọc 
cũng thay đổi. Văn hoá đọc truyền thống 
tức là đọc sách báo in trên giấy còn văn 
hoá đọc hiện đại bao gồm cả đọc trên các 
thiết bị điện tử như màn hình máy vi tính 
hay điện thoại di động. Vấn đề là đọc cái gì 
chứ không phải là đọc trên sách in hay trên 
sách điện tử. Nhìn nhận ở một góc độ khái 
quát hơn, tác giả Nguyễn Hữu Viêm (2009) 
đã đưa ra ý kiến về khái niệm văn hóa đọc 
trong một bài viết đăng trên trang của Thư 
viện Quốc Gia Việt Nam, ông cho rằng: 
“Văn hoá đọc là một khái niệm có hai 
nghĩa, một nghĩa rộng và một nghĩa hẹp. Ở 
nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và 
chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân, của cộng 
đồng xã hội và của các nhà quản lý và cơ 
quan quản lý nhà nước”. “Như vậy, văn hoá 
đọc ở nghĩa rộng là sự hợp thành của ba 
yếu tố, hay chính xác hơn là ba lớp như ba 
vòng tròn không đồng tâm, ba vòng tròn 
giao nhau. Còn ở nghĩa hẹp, đó là ứng xử, 
giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. 
Ứng xử, giá trị và chuẩn mực này cũng gồm 
ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc 
và kỹ năng đọc. Ba thành phần này cũng 
là ba lớp, ba vòng tròn không đồng tâm, 
ba vòng tròn giao nhau.” Như vậy, văn hóa 
đọc chỉ được hình thành khi hội đủ ba yếu 
tố, đó là: thói quen đọc, sở thích đọc và 
kỹ năng đọc. Trong phạm vi bài viết này, 
văn hóa đọc được xem là thói quen đọc, 
sở thích đọc, kỹ năng đọc đối với cả 2 định 
dạng của tài liệu (in ấn và trực tuyến) với 
các mục đích đọc để nâng cao sự hiểu biết, 
làm giàu vốn sống và giải trí lành mạnh.
Hiện nay, mức độ quan tâm của đông 
đảo công chúng đối với sách (nhất là sách 
văn học) đã tụt giảm đến mức báo động 
(Hoàng Tân, 2012). Trần Ngọc Hương với 
“Văn hóa đọc trong sinh viên hiện nay” 
(2015) thống kê được mỗi người dân Việt 
Nam đọc chỉ 0,8 bản sách/năm trong khi 
bình quân một người Pháp đọc 15 quyển 
sách/năm; người Mỹ đọc 12 quyển/năm hay 
gần hơn là Malaysia, theo số liệu thống kê 
năm 2012, mỗi người dân nước này đọc từ 
10-20 quyển sách/năm. Về thói quen đọc 
tài liệu, Anna Jönsson and Josefin Olsson 
(2008) đề cập đến trong nghiên cứu của 
mình về tình trạng dừng việc đọc ngay sau 
khi kết thúc kỳ thi trong đa số SV. Các tài 
liệu như sách, báo, SV chỉ đọc khi giảng 
viên yêu cầu làm tiểu luận, bài tập lớn hay 
thuyết trình về một đề tài hoặc chỉ khi gần 
đến kỳ thi. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ 
khi bị áp chế, bắt buộc, SV mới có ý thức 
đọc. Bàn về các yếu tố tác động đến văn 
hóa đọc, yếu tố đầu tiên là ý thức cá nhân, 
theo Anna Jönsson and Josefin Olsson thì 
nguyên nhân văn hóa đọc xuống cấp là 
do quan điểm “đọc để vượt qua các kỳ thi 
và được xem như là một cách để đạt được 
thành công trong việc học” ở đa số SV. Đọc 
sách như một phần việc bắt buộc họ phải 
làm chứ không phải do tự nguyện. Yếu tố 
tác động đến văn hóa đọc kế tiếp là tác 
động của gia đình. Theo Sister Namibia, 
tác giả bài viết “The hope of a reading 
culture” (2015) thì sự thiếu kết nối giữa cha 
mẹ và con cái gây nên cản trở cho sự phát 
triển của văn hóa đọc. Việc đọc có thể gặp 
nhiều khó khăn và ít gây thú vị hơn đối với 
những ai tự đọc mà không có sự khuyến 
khích của cha mẹ. Liên quan đến những 
thuận lợi và khó khăn trong phát triển 
văn hóa đọc, đối với tài liệu in ấn, kết quả 
nghiên cứu của Wei& Pandian (2012) thể 
hiện rằng đa phần các SV nhận thấy các 
tài nguyên in rất dễ để đọc, họ có thể đọc 
lại các văn bản bất cứ khi nào họ muốn. 
Bên cạnh đó, tài liệu in ấn mang lại nhiều 
sự thuận tiện trong khi nghiên cứu vì độc 
giả có thể dễ dàng ghi chú và làm nổi bật 
các điểm quan trọng. Ngoài ra, Nicholas 
et al. (2008) khi tiến hành một nghiên cứu 
về hành vi đọc trong một môi trường ảo đã 
thấy rằng việc đọc chuyên sâu ở các tài 
liệu in ấn là dễ dàng hơn so với tài liệu trực 
tuyến. Bên cạnh đó, Đỗ Tấn Ngọc (2015) 
cho rằng yếu tố làm cản trở việc đọc là do 
giá sách quá cao so với mức thu nhập của 
số đông người dân mà chất lượng sách 
thì chưa được đảm bảo. Hậu quả của việc 
này là nhiều sách với nội dung không lành 
mạnh tràn lan trên thị trường, làm ảnh 
hưởng về vật chất lẫn tinh thần của người 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
33THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
đọc. Việc đọc tài liệu trực tuyến cũng có 
nhiều mặt hạn chế. Theo Wei & Pandian 
khi sử dụng các công nghệ số, vấn đề SV 
gặp phải nhiều nhất là phụ thuộc vào các 
kết nối Internet, đôi khi chậm hoặc bị gián 
đoạn và có thể tìm được nguồn thông tin 
đáng tin cậy. 
3. Văn hóa đọc của sinh viên ngành 
thông tin
Để tìm hiểu văn hóa đọc của sinh viên 
ngành Thông tin Trường Đại học Cần Thơ, 
chúng tôi đã tiến hành khảo sát 149 sinh 
viên trong tổng số 243 sinh viên theo học 
ngành này (tỷ lệ lấy mẫu là 60,81%; độ tin 
cậy 95% và sai số 5%). Phương pháp khảo 
sát là trả lời bảng hỏi. Bảng hỏi được thiết 
kế gồm 21 câu, đa phần là câu hỏi đóng, 
được phát ngẫu nhiên đến đối tượng khảo 
sát ở các phòng học dành cho SV ngành. 
Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm 
phân tích thống kê SPSS, phiên bản 16.0.
3.1. Thói quen đọc của sinh viên 
ngành thông tin học
Thói quen đọc một phần chịu tác động 
bởi nhận thức cá nhân về văn hóa đọc. 
Trước khi tìm hiểu về thói quen đọc của 
SV, tác giả đã khảo sát để đánh giá nhận 
thức của SV về phạm vi của khái niệm văn 
hóa đọc. Kết quả cho thấy, có đến 70% 
SV nghĩ rằng văn hóa đọc thể hiện ở việc 
đọc cả hai loại hình tài liệu, 25% trả lời là 
tài liệu ở dạng in ấn, 5% SV trả lời tài liệu 
điện tử. Như vậy đa phần các đáp viên đều 
xác định được phạm vi của khái niệm văn 
hóa đọc đúng với yêu cầu phát triển của 
các loại hình thông tin và hình thức lưu trữ 
thông tin trong giai đoạn hiện nay.
Thêm vào đó, thói quen đọc là việc thực 
hiện việc đọc như một hoạt động thường 
xuyên. Để đánh giá thói quen đọc của mỗi 
cá nhân, chúng ta cần xem xét trên nhiều 
yếu tố.
Yếu tố đầu tiên cần xét đến đó là các 
thời điểm SV ngành thông tin học (TTH) 
đọc tài liệu.
Bảng 1. Thời điểm thường đọc tài liệu
Thời điểm thường đọc tài liệu Tỷ lệ chọn
Trong thời gian học tập tại trường, khi Thầy/Cô yêu cầu 27%
Trong thời gian học tập tại trường (thậm chí khi Thầy/Cô không yêu cầu) 15%
Khi gần tới kỳ thi, kiểm tra 22%
Trong các kỳ nghỉ lễ, nghỉ hè 6%
Khi có thời gian rảnh 28%
khác 2%
Kết quả khảo sát cho thấy, có 28% SV 
đọc trong thời gian rảnh, đọc tài liệu trong 
thời gian học tập tại trường; khi Thầy/Cô 
yêu cầu là 27%; khi gần tới kỳ thi, kiểm tra 
chiếm 22%; đọc tài liệu trong thời gian học 
tập tại trường khi giáo viên không yêu cầu 
chiếm 15%; chỉ có 6% SV đọc trong các kỳ 
nghỉ lễ, nghỉ hè và 2% đọc trong các thời 
điểm khác.
Qua khảo sát mức độ thường xuyên của 
việc đọc tài liệu đối với SV ngành TTH, kết 
quả thu được 54% số lượng SV trả lời “thỉnh 
thoảng” và 40% trả lời “thường xuyên”. Chỉ 
có 5% “rất thường xuyên” và 1% trả lời là 
không bao giờ. Như vậy, tỷ lệ SV ngành 
TTH có đọc tài liệu khá cao.
Tìm hiểu nhận thức của SV ngành TTH 
về các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa đọc. 
55% cho rằng ý thức cá nhân tác động đến 
văn hóa đọc; 21% tỷ lệ SV trả lời tác động 
của nhà trường, tác động của xã hội là 
16%; tác động của cha mẹ, gia đình là 6%.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
34 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
Bảng 2. Yếu tố tác động văn hóa đọc
Yếu tố tác động đến văn 
hóa đọc
Tỷ lệ 
chọn
Ý thức cá nhân 55%
Tác động của cha mẹ/Gia đình 6%
Tác động của nhà trường 21%
Tác động của xã hội 16%
Khác 2%
3.2. Sở thích đọc của sinh viên ngành 
thông tin học
Khảo sát về loại tài liệu ưu tiên đọc, 66 
trên tổng số 149 SV ngành TTH đọc cái tài 
liệu mang tính giải trí, 56 SV đọc các tài liệu 
chuyên ngành và chỉ có 27 SV đọc các loại 
tài liệu khác. Như vậy, SV ngành TTH chủ 
yếu đọc các tài liệu giải trí và tài liệu liên 
quan đến chuyên ngành học của mình, họ 
rất ít quan tâm đến các kiến thức liên quan 
đến lịch sử, doanh nhân, kinh tế Khảo sát 
SV ngành về sự yêu thích của họ đối với tài 
liệu ở dạng in ấn và dạng trực tuyến. Kết 
quả là 51% SV trả lời thích đọc tài liệu ở 
dạng in ấn và 49% SV thích tài liệu ở dạng 
trực tuyến. Điều này cho thấy SV ngành 
TTH có sự yêu thích đối với tài liệu in ấn và 
trực tuyến là gần như nhau. Đối với tài liệu 
chuyên ngành, có 33 SV đọc tài liệu ở dạng 
in ấn, 23 SV chọn đọc ở dạng trực tuyến. 
Đối với tài liệu giải trí, có 29 SV đọc ở dạng 
in ấn, 37 SV đọc ở dạng trực tuyến.
Các tài liệu in ấn, đặc biệt là sách đã gắn 
liền với đời sống tinh thần của mọi người 
từ rất lâu. Những tài liệu này chỉ đơn thuần 
là chữ in trên giấy, không có các hình ảnh 
nhấp nháy hay những yếu tố gây nhiễu nên 
việc đọc lúc này không bị gián đoạn hay làm 
mất sự tập trung. Có thể vì lý do này nên lựa 
chọn “có thời gian nghiền ngẫm” nhận được 
31% câu trả lời từ các SV ngành TTH khi 
được hỏi về nguyên nhân thích đọc tài liệu 
in ấn. Tiếp đến lý do “có thể ghi chú” được 
22% đáp viên lựa chọn. Nhiều người có thói 
quen ghi chú hay đánh dấu những đoạn 
văn yêu thích lên những trang giấy, vì yếu tố 
này họ sẽ yêu thích việc đọc sách hơn. Một 
nguyên nhân nữa làm SV ngành TTH thích 
đọc tài liệu in ấn đó là “cảm giác được sở 
hữu” với 17% lượt chọn. Nhiều người thích 
cảm giác cầm trên tay các quyển sách vì 
nó có thể đọc bất cứ lúc nào và dễ dàng 
mang tặng cho người khác. Ngoài ra các 
yếu tố “kích cỡ chữ, minh họa, màu chữ, 
chất lượng giấy, phù hợp” cũng được SV 
ngành TTH trả lời với 12% và “không bị phụ 
thuộc thiết bị công nghệ” là 14%. Có thể 
thấy rằng, việc đọc sách giấy cũng mang 
lại nhiều sự tiện lợi, cụ thể đó là việc không 
cần kết nối mạng và không bị phụ thuộc vào 
nguồn điện. Bên cạnh đó, việc đọc trên giấy 
cũng làm giảm sự mỏi mắt cho người đọc. 
Trong khi đó nguyên nhân các SV thích đọc 
tài liệu trực tuyến được ghi nhận lần lượt là 
thông tin phong phú (26%), đa phần miễn 
phí (20%), phương tiện đọc linh hoạt và 
được hỗ trợ hiệu ứng nghe nhìn (17%), có 
thể phóng to, thu nhỏ chữ (14%) và các lý 
do khác.
Bảng 3. Mối quan hệ giữa loại tài liệu và loại hình tài liệu
Loại hình tài liệu
 Tổng
 Loại tài liệu
Tài liệu 
in ấn
Tài liệu 
trực tuyến
Tài liệu chuyên ngành Lượt lựa chọn 33 23 56
Tài liệu giải trí Lượt lựa chọn 29 37 66
Tài liệu khác Lượt lựa chọn 14 13 27
Tổng Lượt lựa chọn 76 73 149
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
35THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
3.3. Kỹ năng đọc
Khi hỏi về nguồn thông tin ưu tiên khi 
tìm kiếm tài liệu phục vụ nghiên cứu, có 
36% SV ngành TTH lựa chọn các trang 
web, 33% SV tìm trong sách hay các tài 
liệu in, 19% SV tìm kiếm thông tin trong 
các tạp chí trực tuyến hay CSDL, và 12% 
trả lời tìm trong thư viện trực tuyến. Bên 
cạnh thói quen sử dụng nguồn thông tin, 
phương pháp đọc cũng góp phần quan 
trọng để đạt được hiệu quả trong việc đọc 
tài liệu. Đọc hiểu và đọc biết là hai kỹ năng 
cơ bản để việc đọc sách đạt được hiệu quả, 
đặc biệt là đối với các tài liệu chuyên môn 
cần đọc và nghiên cứu sâu. Trong khi việc 
đọc đoạn mở đầu và kết thúc chương trước, 
sau đó mới tiến hành đọc toàn bộ chương 
cần đọc là việc nên làm để nắm được sơ 
lược nội dung trước khi quyết định đọc toàn 
bộ nội dung của chương đó thì chỉ có 16% 
SV lựa chọn. 
Có đến 60% SV đọc mục lục để xác định 
chương nào cần đọc, việc này có mặt hạn 
chế là tên của chương chỉ phản ánh một 
phần nội dung chính của toàn bộ chương 
đó. Cho nên, đôi khi việc đọc mục lục để 
xác định tài liệu nào phục vụ nhu cầu đọc 
sẽ gây sự thiếu sót.
Một yếu tố quan trọng để việc đọc biết 
có hiệu quả là ghi chép lại nội dung chính 
của mỗi chương sau khi đọc. Kỹ năng 
này giúp cho việc ghi nhớ nội dung chính 
của tài liệu dễ dàng hơn và được 20% SV 
ngành TTH đã từng sử dụng. Điều này cho 
thấy rằng SV cần được rèn luyện thêm 
các kỹ năng đọc cần thiết, không chỉ đối 
với tài liệu tiếng nước ngoài và cả tài liệu 
tiếng Việt.
3.4. Thuận lợi tác động đến việc đọc 
tài liệu
Sinh viên ngành TTH nhận được sự hỗ 
trợ nhiều nhất từ việc thư viện cung cấp tài 
liệu đa dạng, trang thiết bị phong phú với 
36%. Điều này cho thấy thư viện đã tạo các 
điều kiện thuận lợi để thúc đẩy việc đọc 
trong sinh viên. Tiếp đến là bản thân yêu 
thích việc đọc với 32% và do chương trình 
học/Thầy/Cô khuyến khích đọc là 25%. 
Theo dữ liệu khảo sát, có đến 27% sinh 
viên ngành TTH đọc tài liệu khi Thầy/Cô 
yêu cầu khi học tập tại trường. Chiếm tỷ 
lệ thấp nhất là gia đình khuyến khích đọc 
với 7%. 
Hình 1. Thuận lợi trong việc đọc của SV ngành TTH
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
36 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
3.4. Khó khăn ảnh hưởng đến văn hóa 
đọc
Các khó khăn chủ quan và khách quan 
của việc đọc các loại hình tài liệu lần lượt 
được ghi nhận như không có thời gian do đi 
học, đi làm thêm; không có động lực đọc, 
không thích đọc là các nguyên nhân chủ 
quan điển hình ảnh hưởng đến việc đọc tài 
liệu truyền thống. Trong khi đó, đối với tài 
liệu trực tuyến cũng có những cản trở mang 
tính chủ quan ảnh hưởng đến việc đọc như: 
ảnh hưởng đến sức khỏe, dễ bị những yếu 
tố khác chi phối khi đọc,
Hình 2. Khó khăn chủ quan khi đọc tài liệu in ấn
Hình 3. Khó khăn chủ quan khi đọc tài liệu trực tuyến
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
37THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
Những khó khăn mang tính khách quan 
đối với việc đọc tài liệu in là giá thành cao 
(51%), một số có kích thước cồng kềnh 
(26%), chất lượng các tài liệu kém được 
13% SV lựa chọn. Khi được hỏi về khó 
khăn khách quan khi đọc tài liệu trực tuyến, 
47% SV trả lời “một số cần tài khoản, mua 
quyền đọc”, 36% SV cảm thấy khó khăn 
khi bị phụ thuộc vào đường truyền hay các 
thiết bị công nghệ, 13% SV trả lời là “không 
ghi chú được”.
4. Một số đề xuất nâng cao văn hóa 
đọc của sinh viên ngành thông tin học 
Bảng xếp hạng 61 nước đọc sách nhiều 
nhất do một trường đại học Mỹ là Central 
Connecticut State University thực hiện, 
trong đó có đến ba nước Đông Nam Á, 
Singapore xếp thứ 36, Malaysia xếp thứ 
53, và Indonexia đứng thứ 60. Việt Nam 
không có trong danh sách xếp hạng này. 
Nguyễn Hữu Viêm (2009) cũng cho rằng, 
văn hóa đọc ở nước ta vẫn còn nhiều mặt 
hạn chế. Bên cạnh đó, tác giả cũng khẳng 
định rằng, chỉ có thể phát triển nền văn hoá 
đọc Việt Nam hiện đại, xây dựng một xã 
hội ham đọc, để đáp ứng với xã hội thông 
tin, nền kinh tế tri thức và một xã hội phát 
triển bền vững, có thể xứng ngang tầm với 
các nước phát triển trong khu vực và trên 
thế giới, khi phát triển đồng loạt nhiều lĩnh 
vực khác nhau liên quan tới đọc. Như vậy, 
để văn hóa đọc ở nước ta không là “huyền 
thoại” như bài viết của tác giả Hồ Anh Thái 
(2016), cải thiện văn hóa đọc cần sự chung 
tay từ nhiều phía.
SV ngành TTH sau này sẽ là những 
người quản lý kho tri thức của nhân loại, 
việc nâng cao văn hóa đọc đối với đối 
tượng này là vô cùng cần thiết. Ở bài viết 
này, tác giả xin đưa ra các giải pháp nhằm 
khắc phục những vấn đề đang tồn tại liên 
quan đến văn hóa đọc của SV ngành TTH 
nói riêng, cho SV đại học nói chung.
- Đối với Trường, Khoa: Nhà trường nên 
tổ chức các hoạt động nhằm khuyến khích 
thói quen đọc sách trong SV như: triển lãm 
sách, báo, tạp chí, tổ chức hội nghị bạn 
đọc, thi đọc sách, thuyết trình, giới thiệu về 
sách, kể chuyện sách phối hợp với các nhà 
xuất bản, nhà sách tặng sách và bán sách 
trợ giá, giảm giá cho SV đặc biệt là trong 
Ngày Sách và Bản quyền thế giới 23/4 và 
Ngày Đọc sách Việt Nam 21/4 hàng năm. 
Bên cạnh đó, nhà trường nên tăng cường 
đầu tư vốn tài liệu in, trực tuyến phục vụ 
việc học chuyên sâu cho SV. Các câu lạc 
bộ, các buổi tọa đàm về nâng cao kỹ năng 
đọc trong SV là điều vô cùng cần thiết. Thư 
viện Trường nên tạo điều kiện thuận lợi cho 
SV sử dụng tài liệu.
- Đối với ngành, bộ môn, giảng viên: 
Ngành, bộ môn nên tổ chức các câu lạc 
bộ chia sẻ kinh nghiệm đọc sách để SV 
giữa các lớp có dịp gặp gỡ, trao đổi về sở 
thích đọc. Đây là một biện pháp hiệu quả 
để truyền cảm hứng đọc giữa các bạn SV. 
Giảng viên cần trở thành tấm gương về 
văn hóa đọc để SV noi theo. Bài giảng cần 
được lồng ghép nhiều vấn đề về phát triển 
văn hóa đọc cũng như yêu cầu các bài đọc 
bắt buộc trong 2 tiết tự học và có cơ chế 
kiểm tra việc đọc đó của SV. 
- Đối với SV: SV nên thay đổi nhận thức 
về việc đọc tài liệu. Nên xem việc đọc là 
việc làm để thư giản, đừng áp đặt việc đọc 
là một hoạt động mất thời gian và “nặng 
nề”. Muốn làm điều này, SV nên bắt đầu 
hình thành thói quen đọc từ những thể loại 
tài liệu mà bản thân thật sự yêu thích. Khi 
đã quen với việc đọc chữ, SV sẽ cảm thấy 
không còn thấy áp lực đối với việc đọc 
những tài liệu mà họ từng cho rằng “quá 
nhiều chữ” trước đây. Sẽ rất hiệu quả nếu 
các SV truyền cho nhau hứng thú đối với 
việc đọc. Có nhiều cách để làm được việc 
này như: cùng nhau đi đến nhà sách vào 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
38 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
mỗi dịp cuối tuần, hay cùng tham gia các 
ngày hội sách do các nhà sách tổ chức, 
chia sẻ với nhau những quyển sách hay 
để cùng nhau đọc cũng là một biện pháp 
hữu ích giúp tạo động lực đọc cho nhau và 
lại tiết kiệm. Đối với các tài liệu trực tuyến, 
ảnh hưởng sức khỏe là vấn đề nhiều SV 
gặp phải. Để hạn chế tối đa ảnh hưởng của 
việc đọc các tài liệu trực tuyến, SV có thể 
áp dụng nhiều cách như: Thực hiện theo lời 
khuyên của các bác sĩ chuyên khoa mắt, 
đó là vị trí màn hình máy tính nên được 
đặt cách mắt 50 đến 60 cm, đối với tài liệu 
in ấn là 50 cm; Điều chỉnh độ sáng màn 
hình cho vừa phải, chỉ đọc ở nơi có đủ ánh 
sáng, tuyệt đối không đọc khi phòng đã tắt 
hết đèn hay ánh sáng tối. Điều này nên áp 
dụng đối với mọi loại hình tài liệu; Không 
chăm chú đọc quá lâu mà cần có thời gian 
cho mắt nghỉ ngơi hợp lý. Có một quy tắc 
khá thú vị có thể áp dụng khi đọc tài liệu 
trực tuyến, đó là quy tắc 20-20-20: đó là cứ 
sau 20 phút làm việc với máy tính, hãy nhìn 
vào một vật nào đó trong 20 giây ở cách xa 
20 feet (khoảng 6m). Sự nghỉ ngơi này sẽ 
giúp mắt và hệ thần kinh được thư giãn.
Kết luận
Để việc đọc sách đạt được hiệu quả, SV 
cần nâng cao kỹ năng đọc sách cho bản 
thân. Đối với tài liệu trực tuyến, vì lượng 
thông tin quá lớn mà lại thiếu kiểm duyệt 
nên việc trang bị các kỹ năng thông tin cơ 
bản để có được các nguồn thông tin chất 
lượng là điều vô cùng cần thiết. Biện pháp 
nên áp dụng trong trường hợp này là SV 
nên tham gia các lớp học phần “Đào tạo kỹ 
năng thông tin” do Trung tâm Học liệu hay 
thư viện Trường tổ chức. Tác giả hy vọng 
bài nghiên cứu sẽ giúp ích cho việc nâng 
cao văn hóa đọc và từ đó cải thiện hiệu quả 
học tập và chất lượng làm việc sau khi ra 
trường cho sinh viên ngành TTH nói riêng, 
và sinh viên nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anna Jönsson & Josefin Olsson 
(2008). Reading culture and literacy in 
Uganda. Retrieved from 
bitstream/2320/3405/1/08-7.pdf
2. Đỗ Tấn Ngọc (2015). Nỗi lo về văn hóa 
đọc, truy cập từ 
vi-vn/61/43/van-hoa-the-thao-giai-tri/moi-lo-
ve-van-hoa-doc/355528.html
3. Hoàng Tân (2012). Sách và văn hóa 
đọc, truy cập từ 
theodongthoisu/2012/3/283129/.
4. Hồ Anh Thái (2016). Ham đọc chỉ là huyền 
thoại. Truy cập từ: 
van-hoa-nghe-thuat/20161017/ham-doc-chi-
la-huyen-thoai/1187566.html
5. Loan, F. A. (2012). Impact of the internet 
surfing on reading practices and choices.
Webology, 9(1), 1-10. Retrieved from 
6. Nicholas, D., Huntington, P., Jamali, H.R., 
Rowlands, I., Dobrowolski, T., & Tenopir, C. 
(2008). Viewing and Reading Behaviour in a 
Virtual Environment: The Full-Text Download 
and What Can Be Read Into It. School of 
Information Sciences Publications and Other 
Works.
7. Nguyễn Hữu Viêm (2009).Văn hóa đọc 
và phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam, truy cập 
từ 
va-phat-trien-van-hoa-doc-o-viet-nam.html.
8. Sister Namibia (2015). The hope 
of a reading culture. 27(2), 14-15. 
Retrieved from 
docview/1712607825?accounti d=39958
9. Trần Đức Vượng (2013). Văn hóa đọc và 
văn hóa điện tử giao hòa. Tạp chí Sách và đời 
sống, (76).
10. Trần Ngọc Hương (2015). Văn hóa đọc 
trong SV hiện nay, truy cập từ: 
edu.vn/trangchu/index.php/vi/cac-khoa/Tin-
bai-cua-khoa-48/Van-hoa-doc-trong-sinh-vien-
hien-nay-318/
11. Wei, V. C. P., & Pandian, A. (2012). 
Reading in Malaysia: university students 
interaction with print and technology. 
International Journal of Arts & Sciences, 5(5), 
377-385. Retrieved from 
com/docview/1355855285?accountid=39958
(Ngày tòa soạn nhận được bài: 18-9-2017; 
Ngày phản biện đạt giải: 6-12-2017; Ngày chấp 
nhận đăng: 20-12-2017)

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_van_hoa_doc_cua_sinh_vien_nganh_thong_tin_hoc_truon.pdf