Tín dụng ngân hàng đối với phát triển cây cà phê ở tỉnh Lâm Đồng

Là một tỉnh nằm trên địa bàn Tây Nguyên, Lâm Đồng được coi là một tỉnh có thế mạnh phát triển nông nghiệp, trong đó cây cà phê là một trong những thế mạnh của tỉnh. Trong những năm qua,

nguồn vốn tín dụng ngân hàng đóng một vai trò quan trọng cho đầu tư phát

triển cây cà phê trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, để cây cà phê phát

triển hơn nữa thì rất cần được đầu tư vốn đúng mức, trong khi nguồn vốn tự

có và các nguồn vốn khác còn hạn chế, thì nguồn vốn tín dụng ngân hàng vẫn

là một trong những nguồn vốn chủ yếu, quan trọng để đầu tư cho cây cà phê

phát triển trong thời gian tới. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá khái

quát thực trạng về cây cà phê và thực trạng đầu tư tín dụng đối với cây cà phê

trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp

nhằm phát triển cây cà phê trong thời gian tới

pdf 6 trang yennguyen 5720
Bạn đang xem tài liệu "Tín dụng ngân hàng đối với phát triển cây cà phê ở tỉnh Lâm Đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tín dụng ngân hàng đối với phát triển cây cà phê ở tỉnh Lâm Đồng

Tín dụng ngân hàng đối với phát triển cây cà phê ở tỉnh Lâm Đồng
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Phát Triển Kinh Tế Địa Phương
75
1. Đặt vấn đề
Là một tỉnh có diện tích trồng 
cà phê đứng thứ hai của cả nước, 
trong những năm qua cây cà phê đã 
góp phần không nhỏ vào việc phát 
triển kinh tế xã hội của tỉnh Lâm 
Đồng (cà phê đóng góp vào 60% 
GDP của tỉnh [4]), cũng như góp 
phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định 
trật tự xã hội và mang lại nguồn 
thu ngoại tệ không nhỏ về cho địa 
phương. Tuy có bước phát triển 
đáng kể, song việc phát triển cây 
cà phê trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng 
vẫn còn nhiều vấn đề cần được 
nghiên cứu và có hướng khắc phục 
để cây cà phê phát triển đúng với 
tiềm năng, thế mạnh của mình, như: 
phát triển chưa theo qui hoạch, một 
phần không nhỏ diện tích cây già 
cỗi, năng suất và chất lượng chưa 
cao, chưa có giải pháp thiết thực để 
nâng giá trị xuất khẩu, sản xuất còn 
manh mún, v.v.. Có nhiều nguyên 
nhân dẫn đến những vấn đề như 
trên, song một trong những nguyên 
nhân là do chưa được đầu tư vốn 
đúng mức, trong đó có nguồn vốn 
tín dụng ngân hàng. 
2. cơ sở lý thuyết
Tín dụng ngân hàng là quan hệ 
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn 
từ ngân hàng cho khách hàng trong 
một thời gian nhất định với một 
khoản chi phí nhất định. Cũng như 
quan hệ tín dụng khác, tín dụng 
ngân hàng chứa đựng 3 nội dung.
- Có sự chuyển nhượng quyền 
sử dụng vốn từ người sở hữu sang 
cho người sử dụng. 
- Sự chuyển nhượng này mang 
tính chất tạm thời.
- Sự chuyển nhượng này có 
kèm theo chi phí.
Trong bài viết này, tín dụng cho 
vay cây cà phê được hiểu là: ngân 
hàng chuyển một lượng giá trị (tiền 
tệ hoặc hiện vật) sang người đi 
vay (tổ chức, cá nhân vay phục vụ 
mục đích phát triển cây cà phê) và 
người đi vay có trách nhiệm hoàn 
trả ngân hàng nơi cho vay cả gốc 
và lãi vay. Khách hàng vay phát 
triển cây cà phê: bao gồm khách 
hàng trồng, chăm sóc, chế biến, 
tiêu thụ cà phê
3. Thực trạng cây cà phê trên 
địa bàn tỉnh Lâm Đồng
Trong cơ cấu cây trồng của tỉnh 
Lâm Đồng, cây cà phê luôn là một 
trong những loại cây trồng chủ lực 
và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng 
giá trị sản xuất nông nghiệp, đóng 
góp lớn vào nguồn thu ngân sách, 
cũng như góp phần ổn định đời 
sống của một bộ phận không nhỏ 
của người dân trên địa bàn tỉnh. 
Tính đến hết năm 2012, diện tích 
cây cà phê trên toàn địa bàn tỉnh 
Lâm Đồng đạt khoảng 142.905 
ha, chiếm 26% tổng diện tích và 
đứng thứ 2 về sản lượng của cả 
nước với khoảng 330.000 tấn/
năm. Năm 2012, toàn tỉnh đã xuất 
khẩu trực tiếp trên 80.000 tấn cà 
Tín dụng ngân hàng đối với phát triển 
cây cà phê ở tỉnh Lâm Đồng 
TS. Vũ VăN ThỰc 
Là một tỉnh nằm trên địa bàn Tây Nguyên, Lâm Đồng được coi là một tỉnh có thế mạnh phát triển nông nghiệp, trong đó cây cà phê là một trong những thế mạnh của tỉnh. Trong những năm qua, 
nguồn vốn tín dụng ngân hàng đóng một vai trò quan trọng cho đầu tư phát 
triển cây cà phê trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, để cây cà phê phát 
triển hơn nữa thì rất cần được đầu tư vốn đúng mức, trong khi nguồn vốn tự 
có và các nguồn vốn khác còn hạn chế, thì nguồn vốn tín dụng ngân hàng vẫn 
là một trong những nguồn vốn chủ yếu, quan trọng để đầu tư cho cây cà phê 
phát triển trong thời gian tới. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá khái 
quát thực trạng về cây cà phê và thực trạng đầu tư tín dụng đối với cây cà phê 
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp 
nhằm phát triển cây cà phê trong thời gian tới .
Từ khoá: Lâm Đồng, tín dụng ngân hàng, cây cà phê.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Phát Triển Kinh Tế Địa Phương
76
phê nhân, tăng 29,5% so với năm 
2011. Cà phê là mặt hàng mang lại 
nguồn thu ngoại tệ lớn nhất trong 
tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh 
Lâm Đồng (chiếm trên 70% kim 
ngạch xuất khẩu); thị trường xuất 
khẩu chủ yếu là các nước EU, 
Philippines, Nhật, Mỹ, Singapore, 
Ấn Độ, Trung Quốc, v.v.. Đến nay, 
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng có 65 
đơn vị, 2 chi nhánh và 564 hộ cá thể 
tham gia thu mua, kinh doanh, sản 
xuất, sơ chế, chế biến cà phê, chủ 
yếu tập trung tại các huyện như: 
Lâm Hà, Di Linh, Bảo Lâm, Đức 
Trọng, TP. Bảo Lộc và TP. Đà Lạt. 
Sản phẩm cà phê xuất khẩu chủ 
yếu được thực hiện dưới dạng thô 
nên giá trị xuất khẩu đem lại chưa 
cao, sản lượng cà phê chế biến tinh 
chỉ đạt 309 tấn, chiếm một lượng 
rất nhỏ trên tổng số sản phẩm xuất 
khẩu. Với số lượng cà phê đã xuất 
khẩu tăng mạnh trong những năm 
qua, cà phê Lâm Đồng đã góp phần 
đưa VN trở thành nước chiếm vị trí 
số một thế giới về xuất khẩu cà phê 
Robusta [2].
4. Thực trạng tín dụng ngân 
hàng đối với cây cà phê tại tỉnh 
Lâm Đồng
Trong những năm qua, dư nợ 
cho vay lĩnh vực cà phê tại các ngân 
hàng thương mại (NHTM) trên địa 
bàn Lâm Đồng liên tục tăng, qua 
đó đã góp phần không nhỏ đối với 
phát triển cây cà phê trên địa bàn 
tỉnh Lâm Đồng. Dưới đây là dư 
nợ cho vay cà phê trong giai đoạn 
2010-2012 tại các NHTM trên địa 
bàn tỉnh Lâm Đồng: 
Bảng 1 cho thấy dư nợ cho 
vay phân theo thời hạn vay tăng 
trưởng khá cao trong giai đoạn 
vừa qua, cụ thể: năm 2011 dư 
nợ tăng so với năm 2010 là 220 
tỷ đồng, tỷ lệ tăng 8,9%, trong 
đó dư nợ ngắn hạn tăng 192 tỷ 
đồng, tỷ lệ tăng 12,37%, dư nợ 
trung, dài hạn tăng 28 tỷ đồng, tỷ 
lệ tăng 3,1%; đặc biệt năm 2012 
dư nợ cho vay trong lĩnh vực cà 
phê tăng cao so với năm 2011, 
cụ thể dư nợ năm 2012 tăng so 
với năm 2011 là 1.044 tỷ đồng, 
tỷ lệ tăng 38,9%, trong đó dư nợ 
ngắn hạn tăng 839 tỷ đồng, tỷ lệ 
tăng 48,1% và dư nợ trung, dài 
hạn tăng 205 tỷ đồng so với năm 
2011, tỷ lệ tăng 21,8%.
- Dư nợ cho vay theo mục 
đích vay vốn: Vốn tín dụng cho 
cây cà phê trên địa bàn tỉnh Lâm 
Đồng hầu hết được tập trung vào 
đối tượng trồng, chăm sóc, thu 
mua và chế biến cà phê, giai đoạn 
năm 2010 đến 2012, dư nợ cho 
vay các đối tượng này có bước 
tăng trưởng khá, cụ thể: 
Bảng 2 cho thấy năm 2011 
cho vay trồng, chăm sóc cà phê 
tăng so với năm 2010 là 107 tỷ 
đồng, tỷ lệ tăng 6,6%; cho vay 
thu mua, chế biến cà phê tăng so 
với năm 2010 là 113 tỷ đồng, tỷ 
lệ tăng 14,9%. Năm 2012, cho 
vay trồng, chăm sóc cà phê tăng 
so với năm 2011 là 865 tỷ đồng, 
tỷ lệ tăng 47,8% và cho vay thu 
mua, chế biến cà phê tăng so với 
năm 2011 là 179 tỷ đồng, tỷ lệ 
tăng 20,5%. Số liệu trên chỉ ra 
nguồn vốn tín dụng ngân hàng 
chủ yếu tập trung cho vay đối với 
đối tượng trồng, chăm sóc, thu 
mua và chế biến là chính, các đối 
Chỉ tiêu
Năm 
2010 Năm 2011 Năm 2012
Dư nợ Dư nợ Mức tăng
Tỷ lệ 
tăng
(%)
Dư nợ Mức tăng
Tỷ lệ 
tăng 
(%)
Trồng, chăm sóc 1.702 1.809 107 6,3 2.674 865 47,8
Thu mua, chế biến 759 872 113 14,9 1.051 179 20,5
Tổng cộng 2.461 2.681 220 8,9 3.725 1.044 38,9
Chỉ tiêu
Năm 
2010 Năm 2011 Năm 2012
Dư nợ Dư nợ
Mức 
tăng
Tỷ lệ 
tăng
(%) Dư nợ
Mức 
tăng
Tỷ lệ 
tăng 
(%)
Ngắn hạn 1.552 1.744 192 12,37 2.583 839 48,1
Trung, dài hạn 909 937 28 3,1 1.142 205 21,8
Tổng cộng 2.461 2.681 220 8,9 3.725 1.044 38,9
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Dư nợ ngắn hạn
Dư nợ trung, dài hạn
Tổng dư nợ
Bảng 1: Dư nợ cho vay phân theo theo thời hạn
Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Lâm Đồng [3]
Đơn vị tính: tỷ đồng
 Bảng 2: Dư nợ cho vay phân theo mục đích vay vốn 
Đơn vị tính: tỷ đồng
Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Lâm Đồng [3].
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Phát Triển Kinh Tế Địa Phương
77
tượng khác như cho vay đổi mới 
công nghệ, tiếp thị, tuyên truyền 
quảng cáo giới thiệu sản phẩm, 
v.v.. chưa được các ngân hàng 
trên địa bàn chú trọng cho vay.
- Dư nợ phân theo đối tượng 
khách hàng ngày càng mở rộng 
và phát triển, đặc biệt là hộ gia 
đình, cá nhân, điều đó được thể 
hiện qua các số liệu Bảng 3:
Bảng 3 cho thấy dư nợ cho 
vay theo đối tượng khách hàng 
có bước tăng trưởng đáng kể, 
trong đó dư nợ cho vay khách 
hàng cá nhân luôn chiếm tỷ 
trọng lớn trong tổng dư nợ qua 
các năm, cụ thể: năm 2011 dư nợ 
cho vay cá nhân, hộ gia đình tăng 
420 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 20,3%; 
dư nợ cho vay các tổ chức kinh 
tế giảm 200 tỷ đồng, tỷ lệ giảm 
8,8%. Năm 2012, dư nợ cho vay 
cá nhân hộ gia đình tăng 890 tỷ 
đồng, tỷ lệ tăng 35,8% và cho 
vay các tổ chức kinh tế tăng 154 
tỷ đồng, tỷ lệ tăng 38,9%. Sở dĩ 
dư nợ cho vay cá nhân, hộ gia 
đình luôn cao hơn so với các tổ 
chức kinh tế là do đa số diện tích 
trồng cà phê trên địa bàn tỉnh 
Lâm Đồng thuộc sở hữu của các 
cá nhân, hộ gia đình, sở hữu từ 
các tổ chức kinh tế chiếm tỷ lệ 
không cao (chỉ chiếm 17,09% 
trên tổng dư nợ [2]), phần lớn dư 
nợ đi vay của các tổ chức kinh tế 
là phục vụ mục đích thu mua và 
chế biến cà phê là chính.
5. Nguyên nhân hạn chế của 
đầu tư tín dụng ngân hàng đối 
với cây cà phê
Nguồn vốn huy động của các 
NHTM trên địa bàn chưa đáp ứng 
yêu cầu tăng trưởng dư nợ, đặc 
biệt là nguồn vốn trung và dài 
hạn; phương thức cho vay còn 
khá đơn điệu, các NHTM trên địa 
bàn đa số là sử dụng phương thức 
cho vay từng lần, các phương 
thức khác như: phương thức hạn 
mức tín dụng, cho vay lưu gốc, 
cho vay hợp vốn chưa áp dụng 
hoặc có thì phát sinh ít; chưa mở 
rộng các đối tượng đầu tư vào các 
đối tượng ứng dụng khoa học kỹ 
thuật công nghệ, quảng bá giới 
thiệu sản phẩm v.v. Đối tượng 
khách hàng vay chưa thực sự 
mở rộng; mô hình tài trợ còn khá 
đơn điệu; trình độ đội ngũ cán bộ 
tín dụng cũng như đạo đức nghề 
nghiệp của cán bộ tín dụng phần 
nào chưa đáp ứng được yêu cầu, 
v.v.. Bên cạnh những hạn chế về 
đầu tư tín dụng còn có những 
hạn chế khác như: việc phát triển 
cây cà phê ở nhiều nơi vẫn còn 
mang tính tự phát, chưa được 
qui hoạch bài bản; hoạt động 
sản xuất kinh doanh cà phê còn 
nhỏ lẻ, manh mún, chính vì vậy, 
nhiều diện tích cà phê chưa mang 
lại hiệu quả như mong đợi; chưa 
ứng dụng triệt để qui trình công 
nghệ hiện đại trong khâu khâu 
tuyển chọn giống, chăm sóc, thu 
hoạch, sơ chế, bảo quản. Sự phối 
hợp giữa 4 nhà: Nhà nước, nhà 
doanh nghiệp, nhà khoa học và 
nhà nông chưa tốt nên hoạt động 
sản xuất và kinh doanh cà phê 
chưa đạt năng suất, chất lượng 
và hiệu quả; hoạt động tổ chức 
sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản 
phẩm còn yếu, hầu hết ở quy mô 
còn nhỏ, vai trò của các doanh 
nghiệp, hợp tác xã còn yếu; sự 
hỗ trợ của các cấp, các ngành và 
các cơ quan chức năng của nhà 
nước còn nhiều hạn chế...đó là 
những nguyên nhân chính dẫn 
đến cây cà phê trên địa bàn tỉnh 
Lâm Đồng chưa thực sự phát huy 
được hết tiềm năng, thế mạnh 
của mình.
6. Một số giải pháp nhằm góp 
phần phát triển cây cà phê trên 
địa bàn tỉnh Lâm Đồng
Một là, đa dạng hóa các mô 
hình tài trợ vốn: nhằm đáp ứng 
tối đa khả năng nguồn vốn tài 
trợ cho phát triển đối với cây cà 
phê, ngoài các hình thức cho vay 
truyền thống, các NHTM nên 
nghiên cứu mở rộng các mô hình 
tài trợ cho sự phát triển của cây 
cà phê, một số mô hình cụ thể là: 
ngân hàng cho vay một phần và 
bảo lãnh một phần; ngân hàng 
bảo lãnh hoặc cho vay 100% vốn 
vay; đối với nhà xưởng máy móc 
thiết bị có giá trị lớn thì thông 
qua các công ty con ngân hàng 
có thể mua lại của khách hàng 
và cho khách hàng thuê lại; ngân 
hàng bảo lãnh vay vốn 100% dự 
án xin vay. 
Hai là, tăng cường huy động 
vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung, 
dài hạn: theo dự báo của Chi 
Chỉ tiêu
Năm 
2010 Năm 2011 Năm 2012
Dư nợ Dư nợ
Mức 
tăng
Tỷ lệ 
tăng, 
giảm
(%)
Dư nợ
Mức 
tăng
Tỷ lệ 
tăng 
(%)
Cá nhân, hộ gia đình 2.065 2.485 420 20,3 3.375 890 35,8
Tổ chức kinh tế 396 196 (200) (50,5) 350 154 78,6
Tổng cộng 2.461 2.681 220 8,9 3.725 1.044 38,9
Bảng 3: Dư nợ cho vay phân theo đối tượng khách hàng
Đơn vị tính: tỷ đồng
Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Lâm Đồng [3].
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Phát Triển Kinh Tế Địa Phương
78
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp 
và Phát triển nông thôn tỉnh 
Lâm Đồng, chỉ riêng nhu cầu 
vốn trồng mới cây cà phê và tái 
canh, cải tạo giống cà phê trên 
địa bàn tỉnh Lâm Đồng từ nay 
đến 2015 là: 4.429 tỷ đồng, trong 
đó nguồn vốn tự có khách hàng 
tham gia là 1.329 tỷ đồng, chiếm 
30%; nguồn vốn cần các NHTM 
tham gia: 3.100 tỷ đồng, chiếm 
70% [2]. Trong khi nguồn vốn 
huy động toàn hệ thống của mỗi 
NHTM còn hạn chế, hơn nữa các 
NHTM không chỉ đầu tư riêng 
cho cây cà phê mà còn cho vay 
nhiều ngành nghề và mục đích 
kinh doanh khác nhau. Do đó, 
muốn mở rộng cho vay thì các 
NHTM trên địa bàn cần tăng 
cường huy động vốn để đáp ứng 
nhu cầu tăng trưởng dư nợ cây 
cà phê. Để đáp ứng nhu cầu tăng 
trưởng dư nợ, các NHTM trên 
địa bàn cần tăng cường huy động 
vốn, giải pháp đưa ra là tiếp tục 
mở rộng các hình thức huy động 
vốn như tiết kiệm bậc thang, tiết 
kiệm gởi góp, phát hành chứng 
chỉ tiền gởi, kỳ phiếu ngân hàng, 
hình thức tiền gởi đầu tư tự động, 
v.v.. Bên cạnh đó, các NHTM 
nên nghiên cứu hình thức huy 
động mới như: tiền gởi gắn liền 
với mục đích gởi tiền như: tiết 
kiệm tích lũy để mua tài sản, tiết 
kiệm đi du lịch, tiết kiệm gắn với 
mục đích nhân đạo, v.v.. Mở rộng 
mạng lưới giao dịch, nâng cao 
chất lượng phục vụ khách hàng; 
tăng cường quảng cáo giới thiệu 
sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến 
với khách hàng, v.v.. Ngoài ra, 
các NHTM nên chủ động tiếp 
cận với các tổ chức kinh tế, các 
quỹ đầu tư để huy động vốn.
Ba là, mở rộng đối tượng cho 
vay và khách hàng vay: Ngoài 
việc cho vay chi phí trồng, chi 
phí vật tư, nhà xưởng, máy móc 
thiết bị, v.v.. như hiện nay, các 
NHTM cần mở rộng cho vay 
các đối tượng khác như: chi phí 
nghiên cứu và đổi mới qui trình 
công nghệ, chi phí quảng cáo và 
giới thiệu sản phẩm, máy móc 
thiết bị tiên tiến nhằm nâng cao 
chất lượng sản phẩm, đáp ứng 
yêu cầu ngày càng cao của nhà 
nhập khẩu và giúp cho người 
tiêu dùng trong và ngoài nước 
biết đến thương hiệu cà phê Lâm 
Đồng nhiều hơn. Bên cạnh đó, 
các NHTM cần mở rộng hơn nữa 
cho vay đối với khách hàng thu 
mua, chế biến và xuất khẩu cà 
phê.
Bốn là, ngân hàng thương mại 
đứng ra bảo lãnh cho nhà cung 
ứng nguyên vật liệu và nhà thu 
mua để ứng trước tiền cho người 
sản xuất cà phê: Nhằm đáp ứng 
nhu cầu về vốn trong lúc chưa thu 
hoạch, nhà cung cấp nguyên vật 
liệu và nhà thu mua sản phẩm có 
thể ứng trước vốn cho người sản 
xuất cà phê để người sản xuất cà 
phê có vốn đầu tư cho sản xuất. 
Để có thể thực hiện tốt điều này, 
các NHTM nghiên cứu hình thức 
bảo lãnh thanh toán cho người 
sản xuất cà phê, trong trường 
hợp người sản xuất cà phê không 
thanh toán cho nhà cung ứng hay 
nhà thu mua thì các NHTM sẽ trả 
thay cho khách hàng. Hình thức 
này sẽ giúp cho người trồng cà 
phê vẫn có vốn trong khi ngân 
hàng chỉ là người trung gian bảo 
lãnh giữa người vay và nhà cung 
ứng nguyên liệu, nhà tiêu thụ 
hàng hoá, không cần giải ngân 
vốn vay nhưng người sản xuất cà 
phê vẫn có vốn đầu tư cho sản 
xuất.
Năm là, đơn giản hóa qui trình 
thủ tục cho vay: thủ tục vay vốn 
rườm rà, phức tạp làm cho khách 
hàng nói chung, đối tượng khách 
khàng vay vốn nhằm mục đích 
cho phát triển cà phê nói riêng 
còn có tâm lý e ngại đến với ngân 
hàng. Do đó, các NHTM xem xét 
rút ngắn thời gian thẩm định cho 
vay trung bình từ 5 đến 7 ngày 
như hiện nay xuống còn 2 đến 
3 ngày. Ngoài ra, các NHTM 
nghiên cứu giảm bớt những thủ 
tục rườm rà không cần thiết như: 
bỏ xác nhận của Ủy ban Nhân 
dân phường, xã trên giấy đề nghị 
vay vốn, bỏ thủ tục công chứng 
mà chỉ cần đi đăng ký giao dịch 
đảm bảo... xây dựng định mức 
kinh tế kỹ thuật và các dự án vay 
vốn mẫu theo hướng động nhằm 
rút ngắn thời gian lập dự án cho 
khách hàng.
Sáu là, nâng cao trình độ và 
đạo đức nghề nghiệp của cán bộ 
ngân hàng: trình độ của cán bộ 
ngân hàng trên địa bàn còn có 
những bất cập điều đó ảnh hưởng 
không nhỏ đến chất lượng thẩm 
định và xử lý nhanh bộ hồ sơ 
cho vay đối với khách hàng. Do 
đó, các NHTM trên địa bàn tỉnh 
Lâm Đồng nên thường xuyên 
đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán 
bộ của mình, chú trọng đào tạo 
các nghiệp vụ: thẩm định, phân 
tích tài chính, luật pháp, kỹ năng 
giao tiếp khách hàng,...cán bộ 
yếu về nghiệp vụ nào thì đào tạo 
về nghiệp vụ đó, không đào tạo 
tràn lan, tránh lãng phí cho ngân 
hàng. Ngoài ra, các NHTM cần 
thường xuyên giáo dục đạo đức 
nghề nghiệp đối với cán bộ ngân 
hàng nhằm ngăn ngừa và hạn chế 
tiêu cực phát sinh ảnh hưởng đến 
khả năng tiếp cận vốn của khách 
hàng, cũng như ảnh hưởng đến 
uy tín của ngân hàng.
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Phát Triển Kinh Tế Địa Phương
79
Bảy là, tăng cường hoạt động 
marketing ngân hàng: Để người 
dân trên địa bàn tỉnh biết nhiều 
hơn về sản phẩm dịch vụ ngân 
hàng và chính sách cho vay đối 
với cây cà phê, thiết nghĩ các 
NHTM cần tăng cường quảng 
cáo giới thiệu sản phẩm dịch vụ 
ngân hàng đến với khách hàng; 
nên đa dạng hóa các hình thức 
quảng cáo, chú trọng quảng cáo 
trên các kênh như: báo in, báo 
hình, báo nói, qua Internet, tờ 
rơi...hình thức quảng cáo cần: 
hấp dẫn, ngắn gọn, dễ hiểu và 
thấm sâu vào tiềm thức của mỗi 
người dân.
Tám là, mở rộng phương thức 
cho vay: Ngoài phương thức 
cho vay như thời gian qua, các 
NHTM sớm nghiên cứu phương 
thức cho vay lưu gốc đối với cây 
cà phê, nhằm giảm bớt chi vay 
đi lại, thủ tục hồ sơ vay vốn cho 
người vay, cũng như giảm khối 
lượng công việc cho cán bộ ngân 
hàng.
Chín là, giải pháp đảm bảo 
tiền vay: Các ngân hàng nên 
xem xét mở rộng hình thức đảm 
bảo tiền vay như cầm cố máy 
móc thiết bị, giá trị cây cà phê, 
nhà xưởng gắn liền với quyền 
sử dụng đất. Bên cạnh đó, cần 
định giá tài sản đảm bảo theo giá 
thị trường (đặc biệt là quyền sử 
dụng đất nông nghiệp) thay vì 
định giá theo giá công bố của uỷ 
ban nhân dân tỉnh như hiện nay. 
Ngoài ra, căn cứ vào xếp hạng 
tín nhiệm nội bộ, các NHTM nên 
mạnh dạn cho vay không có tài 
sản đảm bảo đối với khách hàng 
có mức xếp hạng tín nhiệm cao.
Mười là, cần đa dạng hoá 
nguồn vốn đầu tư: Để cây cà 
phê trên địa bàn tỉnh có thể phát 
triển nhanh hơn nữa thì ngoài 
việc đầu tư trồng, chăm sóc và 
chế biến cà phê rất cần đầu tư 
cơ sở hạ tầng (đường xá, điện, 
thủy lợi, kho ngoại quan...) nhằm 
phục vụ việc lưu thông phân phối 
sản phẩm cũng như gia tăng giá 
trị nội tại của sản phẩm. Do đó, 
ngoài nguồn vốn tự có, nguồn 
vốn vay thì rất cần huy động từ 
các nguồn vốn khác như: nguồn 
vốn từ ngân sách nhà nước, vốn 
xã hội hoá, vốn tài trợ của các tổ 
chức nước ngoài...
Mười một, xây dựng chính 
sách trợ giá, tạm trữ và bảo hiểm 
đối với lĩnh vực cà phê: Hàng 
nông sản nói chung, cà phê nói 
riêng thường xảy ra tình trạng 
giá cả bấp bênh, mất mùa, v.v.. 
Nhằm giảm thiểu rủi ro cho 
khách hàng, thiết nghĩ Nhà nước 
cần sớm nghiên cứu và đưa ra 
chính sách trợ giá, thu mua tạm 
trữ đối với mặt hàng cà phê, bên 
cạnh đó cần nghiên cứu cho các 
công ty bảo hiểm tham gia bảo 
hiểm giá và bảo hiểm mất mùa 
đối với cây cà phê, từ đó giúp 
cho người sản xuất kinh doanh 
cà phê yên tâm và mạnh dạn hơn 
nữa trong việc đầu tư phát triển 
sản xuất kinh doanh.
Mười hai, nghiên cứu hoàn 
chỉnh quy hoạch vùng chuyên 
canh cây cà phê: Cũng như nhiều 
ngành nông nghiệp khác trong 
cả nước, do công tác qui hoạch 
chưa được thực hiện một cách 
nghiêm túc, cho nên việc trồng 
cà phê trên địa bàn tỉnh vẫn còn 
mang tính tự phát, từ đó rất dễ 
diễn ra hiện tượng: cà phê được 
mùa nhưng mất giá, diện tích 
trồng không mang lại năng suất 
caoDo đó, để cây cà phê phát 
triển một cách bền vững, các 
ngành các cấp trên địa bàn tỉnh 
cần phối hợp với các địa phương 
khác có thế mạnh trồng cà phê, 
các ngành ở trung ương và các 
nhà khoa học xây dựng cụ thể, chi 
tiết vùng qui hoạch chuyên canh 
cà phê phù hợp với thổ nhưỡng, 
khí hậu và khả năng tiêu thụ sản 
phẩm, từ đó giúp cây cà phê phát 
triển một tốt hơn.
Mười ba, liên doanh liên kết 
để tạo ra vùng sản xuất lớn tập 
trung: Tình trạng sản xuất manh 
mún, không phù hợp với việc ứng 
dụng khoa học kỹ thuật vào sản 
xuất đang diễn ra đối với phần 
lớn người sản xuất cà phê ở Lâm 
Đồng. Để khắc phục được tình 
trạng này, một đề xuất được đưa 
ra là người sản xuất cà phê có đất 
trồng cà phê cạnh nhau nên liên 
doanh liên kết với nhau để thành 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Phát Triển Kinh Tế Địa Phương
80
vùng sản xuất tập trung với qui 
mô lớn, dễ áp dụng tiến bộ kỹ 
thuật vào sản xuất, tạo thuận lợi 
hơn trong việc đầu tư cơ sở hạ 
tầng kỹ thuật, mô hình liên kết 
đưa ra là thành lập các hợp tác 
xã, các công ty cổ phần, công ty 
tránh nhiệm hữu hạn để hợp tác 
cùng phát triển.
Mười bốn, ứng dụng công 
nghệ mới vào sản xuất, chế biến 
và bảo quản sau thu hoạch: Với 
diện tích trồng tương đối lớn, thu 
hoạch và bảo quản còn mang tính 
chất thủ công cho nên năng suất, 
chất lượng của mặt hàng cà phê 
còn khá khiêm tốn so với một số 
quốc gia khác trên thế giới, dẫn 
đến giá trị mang lại từ cây cà 
phê trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng 
còn chưa cao. Do đó, rất cần có 
sự chung tay giúp sức của chính 
quyền các cấp, các nhà khoa học 
nghiên cứu giúp cho người trồng 
cà phê ứng dụng công nghệ tiên 
tiến vào sản xuất, chế biến và 
bảo quản sau thu hoạch nhằm 
tăng năng suất, chất lượng và 
nâng cao giá trị của sản phẩm. 
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác 
khuyến nông, như mở lớp đào 
tạo, tập huấn cho nông dân; xây 
dựng mô hình sản xuất, chế biến 
và nhân rộng mô hình, xây dựng 
chính sách thu hút nguồn nhân 
lực giỏi, liên kết với các nhà 
khoa học, viện nghiên cứu hỗ trợ 
đào tạo, tư vấn kỹ thuật và cung 
cấp thông tin.
Mười lăm, xây dựng mối liên 
kết giữa bốn nhà: Giải pháp này 
đã được nhiều chuyên gia trong 
và ngoài nước khuyến nghị, tuy 
nhiên trên thực tế việc gắn kết 
giữa bốn nhà chưa thực sự phát 
triển và phát huy được tính hiệu 
lực, hiệu quả của nó. Do đó, 
trong thời gian tới cần có sự gắn 
kết chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà 
doanh nghiệp, nhà khoa học và 
nhà sản xuất, trong đó nhà doanh 
nghiệp cần có một vai trò quan 
trọng hơn trong mối liên kết này, 
vì vậy Nhà nước nên có chính 
sách miễn, giảm thuế đối với 
các doanh nghiệp đầu tư đổi mới 
trang thiết bị công nghệ, hoặc hỗ 
trợ về mặt ứng dụng tiến bộ khoa 
học kỹ thuật cho nông dân thông 
qua các nhà khoa học.
Mười sáu, mở rộng thị trường: 
đa số sản phẩm cà phê sản xuất 
ra là dùng cho xuất khẩu. Do 
đó, ngoài thị trường xuất khẩu 
truyền thống như hiện nay, cần 
nghiên cứu mở rộng thị trường 
xuất khẩu ra các nước trong 
khối ASEAN, Nam Mỹ, các 
nước châu Phi, Trung Đông và 
thị trường các nuớc Đông Âu
Ngoài ra, cần chú trọng hơn nữa 
đến thị trường trong nước, ngoài 
các thị trường ở các đô thị lớn 
như hiện nay, nhà phân phối cà 
phê nên phát triển rộng ra các 
thị trường ở các tỉnh miền Tây 
Nam Bộ, miền Trung, các tỉnh 
miền Bắc... Để mở rộng được thị 
trường ngoài việc thường xuyên 
nâng cao chất lượng, mẫu mã sản 
phẩm thì việc quảng cáo, giới 
thiệu sản phẩm cà phê đến người 
tiêu dùng là một trong những vấn 
đề cần được người sản xuất kinh 
doanh cà phê, cũng như các cấp 
chính quyền đặc biệt quan tâm để 
mở rộng thị trường, tăng giá trị 
cho sản phẩm.
Mười bảy, xây dựng thương 
hiệu cà phê: cà phê Lâm Đồng 
chỉ thực sự có chỗ đứng vững 
chắc trên thị trường khi cà phê 
tỉnh Lâm Đồng xây dựng thành 
công cho riêng mình một thương 
hiệu riêng. Để có thể thực hiện 
được điều đó thì những người 
sản xuất kinh doanh cà phê phải 
luôn quan tâm đặt chất lượng 
cà phê lên hàng đầu. Muốn vậy, 
việc tổ chức quản lý và sản xuất 
kinh doanh, chăm sóc, thu hoạch 
và bảo quản sau thu hoạch, chế 
biến, chính sách giá cả, quảng 
bá thương hiệu; công tác kiểm 
tra, giám sát về mặt kỹ thuật và 
chất lượng phải được tiến hành 
chặt chẽ và thực hiện một cách 
đồng bộ, từ đó giúp sản phẩm cà 
phê Lâm Đồng ngày càng có chỗ 
đứng trên thị trường. 
Tóm lại, tiềm năng và thế 
mạnh phát triển cây cà phê trên 
địa bàn tỉnh Lâm Đồng là rất lớn, 
nếu được đầu tư vốn đúng mức 
và có những giải pháp, bước đi 
phù hợp thì tương lai không xa, 
cây cà phê trên địa bàn tỉnh Lâm 
Đồng sẽ có chỗ đứng nhất định, 
có thể phát triển ngang tầm với 
các các nước có thế mạnh về sản 
phẩm cà phê, qua đó sẽ góp phần 
không nhỏ vào sự phát triển kinh 
tế xã hội của địa phương và cả 
nướcl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thạch Bình (2013), “Tín dụng cho cây cà 
phê”, Thời báo ngân hàng.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát 
triển Nông thôn tỉnh Lâm Đồng (2013), 
Kế hoạch đầu tư tín dụng tái canh, cải 
tạo giống cà phê tại Lâm Đồng.
Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Lâm 
Đồng (2010-2012), Báo cáo cho vay 
vùng nguyên liệu.
Diệu Hiền (2013), “Triển khai chương trình 
Coffee Made Happy”. Báo Lâm Đồng.
Hán Minh Thọ (2013), “Agribank: tạo 
thế chân kiềng phát triển cà phê Tây 
Nguyên”, Báo Dân Việt.
Nguyễn Minh Kiều (2011), Tín dụng và 
thẩm định tín dụng ngân hàng, NXB 
Lao động xã hội.

File đính kèm:

  • pdftin_dung_ngan_hang_doi_voi_phat_trien_cay_ca_phe_o_tinh_lam.pdf