Trách nhiệm xã hội của ngân hàng thương mại cổ phần: Nghiên cứu đa khía cạnh

TÓM TẮT

Mục tiêu của bài viết là khám phá các

khía cạnh liên quan đến trách nhiệm xã hội

(TNXH) của các Ngân hàng thương mại cổ

phẩn (NHTMCP) ở Việt Nam. Nghiên cứu sử

dụng phương pháp phân tích nội dung trong

báo cáo thường niên của các ngân hàng từ

năm 2011 đến nay nhằm đo lường các thông

tin định tính bằng phương pháp định lượng

để xác định tỷ trọng của từng khía cạnh. Kết

quả cho thấy các NHTMCP quan tâm đến

khía cạnh trách nhiệm với cổ đông, nhân

viên, khách hàng. Các hoạt động TNXH liên

quan đến khía cạnh cộng đồng và môi trường

được công bố ra bên ngoài có sự khác biệt ở

từng nhóm ngân hàng và khác biệt theo thời

gian. Bài viết cũng phát hiện ra rằng các

NHTMCP trong thời gian qua đã tập trung

nhiều nguồn lực cho việc thực hiện TNXH

ở khía cạnh kinh tế, cộng đồng, môi trường,

nhằm góp phần phát triển bền vững và giữ

vai trò tiên phong của doanh nghiệp thực

hiện tốt an sinh xã hội

pdf 12 trang yennguyen 3600
Bạn đang xem tài liệu "Trách nhiệm xã hội của ngân hàng thương mại cổ phần: Nghiên cứu đa khía cạnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trách nhiệm xã hội của ngân hàng thương mại cổ phần: Nghiên cứu đa khía cạnh

Trách nhiệm xã hội của ngân hàng thương mại cổ phần: Nghiên cứu đa khía cạnh
83
Trách nhiệm xã hội của ngân hàng ...
TÓM TẮT
Mục tiêu của bài viết là khám phá các 
khía cạnh liên quan đến trách nhiệm xã hội 
(TNXH) của các Ngân hàng thương mại cổ 
phẩn (NHTMCP) ở Việt Nam. Nghiên cứu sử 
dụng phương pháp phân tích nội dung trong 
báo cáo thường niên của các ngân hàng từ 
nĕm 2011 đến nay nhằm đo lường các thông 
tin định tính bằng phương pháp định lượng 
để xác định tỷ trọng của từng khía cạnh. Kết 
quả cho thấy các NHTMCP quan tâm đến 
khía cạnh trách nhiệm với cổ đông, nhân 
viên, khách hàng. Các hoạt động TNXH liên 
quan đến khía cạnh cộng đồng và môi trường 
được công bố ra bên ngoài có sự khác biệt ở 
từng nhóm ngân hàng và khác biệt theo thời 
gian. Bài viết cũng phát hiện ra rằng các 
NHTMCP trong thời gian qua đã tập trung 
nhiều nguồn lực cho việc thực hiện TNXH 
ở khía cạnh kinh tế, cộng đồng, môi trường, 
nhằm góp phần phát triển bền vững và giữ 
vai trò tiên phong của doanh nghiệp thực 
hiện tốt an sinh xã hội.
Từ khóa: ngân hàng, phân tích nội dung, 
trách nhiệm xã hội, trách nhiệm với cộng 
đồng
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
CỔ PHẦN: NGHIÊN CỨU ĐA KHÍA CẠNH
 Lê Phước Hương*, Lưu Tiến Thuận**
CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY OF JOINT STOCK 
COMMERCIAL BANKS: A STUDY OF SOME DIMENSIONS
ABSTRACT
The purpose of this paper is to explore some 
dimensions of corporate social responsibility 
(CSR) at Joint Stock Commercial Banks in 
Vietnam. Exploring the importance of CSR 
is based on the content analysis of annual 
reports from 2011. A content analysis 
approach has been applied and supported 
by the quantitative measures to identify the 
weightage of every dimension. The indings 
show that the banks paid much attention to 
shareholders, employees and customers. The 
banks continued to provide supports for the 
community and environmental dimension and 
amounted to outside stakeholders, however 
there were the difference between some 
bank’s groups. Results reveal that banks had 
spent more and more resources for CSR’s 
activities to foster the economic growth, the 
community development and environmental 
* ThS. GV. Khoa Kinh Tế, Trường Đại Học Cần Thơ
Email: lphuong@ctu.edu.vn ; Số điện thoại: 0945.142.142
** TS. GV. Khoa Kinh Tế, Trường Đại Học Cần Thơ
Email: ltthuan@ctu.edu.vn ; Số điện thoại: 0918.867.787
84
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. GIỚI THIỆU 
Vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp (TNXH) được Bowen (1953) đưa ra 
bàn luận trong quyển “Trách nhiệm xã hội 
của doanh nhân” đã nhanh chóng trở thành 
chủ đề được tranh luận ở nhiều khía cạnh 
khác nhau bởi các nhà quản lý, nhà nghiên 
cứu và toàn xã hội. Chủ đề này được nghiên 
cứu nhiều ở các nước phát triển như Mỹ và 
Tây Âu, nghiên cứu các doanh nghiệp thuộc 
lĩnh vực sản xuất. Theo thời gian nền kinh 
tế phát triển kéo theo lĩnh vực dịch vụ cũng 
phát triển, các nghiên cứu về TNXH chuyển 
dịch sang các nước đang phát triển và lĩnh 
vực dịch vụ. Chủ đề TNXH ngày càng được 
quan tâm, dẫn đến gia tĕng phạm vi nghiên 
cứu các hoạt động liên quan đến TNXH cũng 
như hiệu quả của nó đối với từng doanh 
nghiệp thực thi các chương trình TNXH 
(Chomvilailuk và Butcher, 2010). Nĕm 1998, 
Esrock và Leichty phát hiện có 80% số công 
ty trong danh sách Forture 500 đề cập đến 
chủ đề TNXH trên website công ty. 5 nĕm 
sau, Kotler và Lee (2005) báo cáo có 90% 
số công ty trong danh sách Forture 500 thực 
thi các chương trình TNXH. Do đó, TNXH 
đã và đang là xu thế mà tất cả các doanh 
nghiệp phải chú ý trong đó bao gồm cả các 
ngân hàng (NH). Ở Việt Nam, việc thực hiện 
TNXH thường được xem là hành động giải 
quyết các vấn đề xã hội vì mục đích nhân đạo 
và từ thiện (Nguyễn Đình Tài, 2010). Trong 
khi đó, TNXH ngoài khía cạnh từ thiện, còn 
có các khía cạnh kinh tế, pháp lý, đạo đức 
được thực hiện để đáp ứng những kỳ vọng 
của các bên liên quan (Carroll, 1991). 
Các hoạt động TNXH phù hợp sẽ có tác 
động tích cực thúc đẩy các NH hoạt động hiệu 
quả và tạo tiền đề cho tĕng trưởng và phát triển 
kinh tế. Ngược lại, không chỉ bất lợi cho các 
NH nói chung mà các bên liên quan cũng gặp 
nhiều bất lợi khi các hoạt động TNXH không 
được thực thi hiệu quả. Trên thế giới đã xảy ra 
nhiều đợt khủng hoảng ngành tài chính, ảnh 
hưởng đến kinh tế toàn cầu, gần nhất là nĕm 
2007-2009 xuất phát từ NH Lehman Brothers 
(Mỹ). Tại Việt Nam, ngành NH sau giai đoạn 
tĕng trưởng rất mạnh từ nĕm 2007-2011, đã 
gặp nhiều khó khĕn, thách thức sau đó. Với 
bối cảnh tái cơ cấu giai đoạn 2011-2015 và 
thực trạng ngành NH hiện nay, việc thực hiện 
nghiên cứu: “Trách nhiệm xã hội của các 
ngân hàng thương mại cổ phần: nghiên 
cứu đa khía cạnh” là hết sức cần thiết. Mục 
tiêu của bài viết nhằm phân tích các khía cạnh 
liên quan đến TNXH của các NHTMCP. Từ 
đó, đưa ra một số đánh giá và tổng hợp kinh 
nghiệm trong việc thực hiện TNXH. 
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU
TNXH trở thành chủ đề nghiên cứu mới 
vài thập kỷ gần đây và có rất nhiều lý luận 
xung quanh chủ đề này. Các định nghĩa đều 
thể hiện rằng TNXH đáp ứng các kỳ vọng 
của xã hội khi hoạch định các chiến lược 
quản lý. Như vậy, TNXH là một khái niệm 
rộng và được diễn tả theo quan điểm của 
từng nhà nghiên cứu, phụ thuộc vào bối cảnh 
nghiên cứu (Dahlsrud, 2008). Hiện tại chưa 
có một vĕn bản pháp quy nào quy định về 
TNXH trong lĩnh vực NH. Do đó các hoạt 
động liên quan đến TNXH mà các NHTMCP 
thực hiện trong thời gian qua đều dựa trên 
cơ sở tự nguyện. Các hoạt động này thường 
hướng vào các vấn đề nổi cộm, được sự quan 
tâm của xã hội như tình hình biển đảo, giáo 
protection for sustainable growth. The banks 
try to play the best role of social security. 
Keywords: bank, corporate social 
responsible, content analysis, community 
responsibility
85
Trách nhiệm xã hội của ngân hàng ...
dục, y tế, an sinh xã hội, các đối tượng chính 
sách.Tuy nhiên khi thực hiện hoạt động 
này, các NHTMCP thường xuyên kết nối với 
nhân viên, khách hàng và cộng đồng dân cư 
và trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho các 
mục tiêu kinh doanh của mình. 
Dữ liệu bài viết chủ yếu thu thập từ các 
báo cáo thường niên của các NHTMCP được 
kiểm toán độc lập xác nhận tính trung thực và 
hợp lý của dữ liệu; và các nghiên cứu được 
công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước. 
Danh sách các NHTMCP theo công bố của 
Ngân hàng nhà nước (NHNN). Giai đoạn 
2011–2015 các NH thực hiện đề án tái cơ cấu 
hệ thống các tổ chức tín dụng được Thủ tướng 
Chính phủ phê duyệt (Theo Quyết định 254/
QĐ-TTg ngày 01/03/2012). Do đó, bài viết 
tập trung nghiên cứu các NHTMCP từ nĕm 
2011. Bài viết sử dụng phương pháp thống 
kê mô tả, phương pháp phân tích nội dung từ 
các báo cáo thường niên của các NH. Theo 
Hsieh và Shannon (2005), phân tích nội dung 
là một phương pháp nghiên cứu dùng để giải 
thích nội dung dữ liệu thông qua quá trình 
phân loại, sắp xếp mã và xác định chủ đề hay 
mô thức. Đây vừa là phương pháp định tính 
vừa là phương pháp định lượng dựa trên thông 
tin định tính (Gephart, 2004). Cách phân tích 
dữ liệu định lượng trong phương pháp phân 
tích nội dung được thực hiện bằng cách tính 
tần suất xuất hiện của một từ, cụm từ, chủ đề 
nào đó trong dữ liệu. Phương pháp này được 
Abbott và Monsen (1979) ứng dụng như một 
kỹ thuật thu thập thông tin định lượng và thông 
tin vĕn bản để xây dựng các mô hình định 
lượng với các mức độ phức tạp khác nhau. 
Nói cách khác phân tích nội dung nén các vĕn 
bản theo nội dung dựa trên nguyên tắc mã hóa 
thích hợp, rõ ràng (Stemler, 2001) sử dụng kỹ 
thuật này đòi hỏi một công cụ mã hóa thích 
hợp để thông tin được chuyển tải chính xác 
(Milne và Adler, 1999). Để đảm bảo độ tin cậy 
khi sử dụng phương pháp này, bài biết kế thừa 
thủ tục mã hóa dữ liệu cho các khía cạnh của 
TNXH đã được nghiên cứu trước đây. Theo 
Bravo et al. (2012), Castelo, Lima (2006), 
Maignan và Ralston (2002), TNXH được 
chia theo các khía cạnh trách nhiệm đối với 
khách hàng, cộng đồng, nhân viên, cổ đông và 
môi trường.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng 
Việt Nam
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua 
lịch sử gần 70 nĕm với nhiều chặng đường, đã 
không ngừng phát triển về quy mô như vốn 
điều lệ, mạng lưới chi nhánh, đội ngũ nhân 
viên, chất lượng hoạt động và hiệu quả kinh 
doanh. Ngành NH được đánh dấu từ sự ra đời 
của NHNN vào ngày 06/05/1951. Số lượng 
của các loại hình thuộc hệ thống NHTM Việt 
Nam được trình bày trong bảng 1:
Bảng 1: Số lượng Ngân hàng giai đoạn 1991 - 2016
Loại hình ngân hàng Nĕm
1991 1995 1999 2005 2010 2012 2013 2014 2015 2016
NH thương mại nhà nước 4 4 5 5 5 5 5 5 7 4
NH thương mại cổ phần 4 48 48 37 37 34 33 33 28 31
Chi nhánh NH nước ngoài 0 18 26 29 48 49 53 47 50 51
NH liên doanh 1 4 4 5 5 4 4 4 3 2
NHTM 100% vốn nước ngoài 0 0 0 0 5 5 5 5 5 6
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam
86
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
3.2. Khía cạnh khách hàng
Tất cả NHTMCP đều tổ chức theo mô 
hình kinh doanh NH hiện đại và hướng đến 
khách hàng. Khách hàng của NH chia ra 
làm 2 loại: khách hàng cá nhân và khách 
hàng doanh nghiệp. 68% các NHTMCP có 
phát hành BCTN đều quan tâm đến khía 
cạnh khách hàng, mô hình tổ chức hướng 
tới khách hàng. Phần lớn NH thực hiện phân 
khúc các khách hàng để nâng cao hơn nữa 
các tiện ích. Mặc dù có 17 NH có tiến hành 
các hoạt động chĕm sóc khách hàng, nhưng 
chỉ có 4 NH tiến hành khảo sát mức độ hài 
lòng của KH (Vietcombank, Vietinbank, 
BIDV và Sacombank). Thuật ngữ khách 
hàng xuất hiện thường xuyên trong giá trị cốt 
lõi, triết lý kinh doanh và sứ mệnh. MBbank 
có khối lượng khách hàng tĕng mạnh. Nĕm 
2015, chỉ số hài lòng của khách hàng MB 
nằm trong nhóm đầu thị trường theo đánh giá 
của Neilsen. Trong đó, yếu tố con người, sự 
tận tâm và chuyên nghiệp được khách hàng 
đánh giá cao. Sau khi sát nhập, SCB có số 
lượng khách hàng tĕng liên tục ở mức cao 
từ nĕm 2012-2016. Như vậy số lượng khách 
hàng tĕng trưởng là cơ sở quan trọng để các 
NH theo đuổi chiến lược bán lẻ.
Nĕm 2015, Vietcombank đứng đầu về 
mức độ hài lòng của khách hàng thông qua 
khảo sát mức độ hài lòng, đã phát triển thêm 
18.500 khách hàng cá nhân. Việc tĕng số 
lượng khách hàng là nhiệm vụ hàng đầu của 
Hình 1: Các khía cạnh của TNXH
Nguồn: Tổng hợp từ các BCTN của các NH nĕm 2016
Trong số 31 NHTMCP có đến 8 NH chưa 
công bố báo cáo thường niên tính đến thời 
điểm tháng 8 nĕm 2017, chiếm 26%. Các NH 
công bố báo cáo thường niên thì có 15 NH trình 
bày tách biệt mục TNXH. Chỉ có báo cáo của 
BIDV và Sacombank tuân thủ tiêu chuẩn GRI 
phiên bản G4, còn lại các NH khác thường chỉ 
dành từ 1-5 trang trong BCTN trình bày cáo 
nội dung về TNXH. Các khía cạnh của TNXH 
được tóm tắt theo bảng sau:
87
Trách nhiệm xã hội của ngân hàng ...
các NHTM, cùng lúc với đáp ứng tốt hơn các 
nhu cầu và kỳ vọng của khách hàng. Khách 
hàng cảm nhận như thế nào đối với các hoạt 
động kinh doanh trực tiếp hay gián tiếp đều 
rất quan trọng. Theo Perez và Bosque (2015), 
thật sự cần thiết để nghiên cứu mối liên hệ 
giữa cảm nhận khách hàng và các hoạt động 
TNXH, mặc dù biết rằng mối quan hệ này là 
không rõ ràng. Trong lãnh vực NH, thực hiện 
trách nhiệm với khách hàng có nghĩa là NH 
đảm bảo được lợi ích và an toàn cho khách 
hàng. Theo bảng 1, NH thực hiện việc cung 
cấp thông tin trung thực và chính xác về các 
sản phẩm dịch vụ chiếm 90%. Các NH tập 
trung phát triển các sản phẩm dịch vụ hướng 
tới từng phân khúc khách hàng, phù hợp với 
đặc thù từng vùng miền; đa dạng kênh phân 
phối sản phẩm, giao tiếp với khách hàng 
(86%). Số lượng giao dịch qua các kênh phi 
truyền thống tĕng mạnh qua các nĕm; Nỗ lực 
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách 
hàng như tổng đài miễn phí của các trung tâm 
chĕm sóc khách hàng, thực hiện khảo sát sự 
hài lòng, nhu cầu của khách hàng; Phát triển 
hoạt động Marketing, truyền thông mạng xã 
hội. Hoạt động này được các NH ngày càng 
chú trọng, đầu tư có chiều sâu. Nĕm 2015, 
với 4 triệu khách hàng sử dụng dịch vụ NH 
điện tử, BIDV chính thức vận hành Trung tâm 
mạng xã hội SMCC đầu tiên trong hoạt động 
của NH Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu 
quả chĕm sóc, tư vấn, cung cấp sản phẩm, 
dịch vụ. Trung tâm SMCC đã tiếp nhận 6189 
trường hợp khách hàng cần hỗ trợ và hỗ trợ 
thành công 100%. Nĕm 2016, có trên 22000 
khách hàng được SMCC hỗ trợ thành công.
3.3. Khía cạnh nhân viên
Nguồn nhân lực là tài sản quý báu của 
NH và đã phát triển về chiều rộng khá nhanh 
trong thời gian qua. Thống kê của NHNN 
cho thấy quy mô nhân lực đã tĕng từ 67.558 
người nĕm 2000 lên 180.000 người nĕm 
2012. Trong giai đoạn tái cơ cấu, nguồn 
nhân lực ngành NH biến động theo xu hướng 
giảm số lượng, tĕng chất lượng (Nguyễn 
Tuấn Anh và Nguyễn Vĕn Thọ, 2014). Việc 
tái cơ cấu, sáp nhập NH nhằm làm cho hệ 
thống tài chính vững mạnh hơn, nhưng cũng 
dẫn tới những biến động trong bộ máy nhân 
sự. Ở những lĩnh vực chuyên sâu hiện nay 
rất khó tìm được ứng viên phù hợp, một số 
NH phải thuê chuyên gia nước ngoài như: 
chiến lược phát triển, quản trị rủi ro, đầu tư 
quốc tế. Nhìn chung, số lượng nhân viên có 
tĕng nhưng không đáng kể ngoại trừ 
Sacombank tĕng vọt ở nĕm 2015 do sáp nhập 
với NH Phương Nam, BIDV tĕng do sáp 
nhập với MHB. 
Thu nhập bình quân theo tháng qua các 
nĕm của nhân viên ngành NH luôn đứng ở 
mức cao. NH Công Thương được ghi nhận là 
có thu nhập bình quân cao nhất qua các nĕm, 
ngoại trừ nĕm 2015, 2016. NH ngoại thương 
có mức tĕng thu nhập bình quân đột biến từ 
18,84 (nĕm 2011) lên 26,52 triệu đồng/tháng 
(nĕm 2016). Với mức tĕng này, Vietcombank 
cũng được Anphabe đánh giá là 1 trong 3 
công ty dẫn đầu về phúc lợi cho nhân viên 
nĕm 2015. Vietcombank đạt danh hiệu Top 
100 nơi làm việc tốt nhất Việt Nam (2013-
2015) do Anphabe và Nielsen trao giải. Từ 
nĕm 2013, ACB đã quản lý thành tích nhân 
viên theo phương pháp thẻ điểm cân bằng 
nhằm đảm bảo một quy trình lương thưởng 
công bằng, minh bạch và cạnh tranh trong 
nội bộ. MB là một trong số ít NH áp dụng 
thành công mô hình quản trị thành tích theo 
thông lệ quốc tế sử dụng KPI 11. Thời gian qua, 
cùng với những khó khĕn của nền kinh tế, 
đã cho thấy một làn sóng biến động nhân sự 
1 KPI - Key Performance Indicators (Hệ thống đo 
lường và đánh giá hiệu quả công việc).
88
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trong lãnh vực NH từ lãnh đạo cao cấp đến 
nhân viên tác nghiệp. Do yêu cầu về chất 
lượng nhân viên, hằng nĕm các NH vẫn tổ 
chức tuyển dụng mới, tuy nhiên số lượng 
không nhiều. Chế độ lương thưởng đãi ngộ, 
dự phòng rủi ro, quản trị rủi ro con người, 
chính sách bảo vệ sức khỏe, hoạt động bình 
đẳng giới được đảm bảo theo đúng các quy 
định hiện hành là tiền đề cho việc thu hút 
nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành và 
tạo sự gắn kết giữa nhân viên với NH tốt hơn 
(Lee et al., 2012).
Trách nhiệm với người lao động được 
công bố trên BCTN (bảng 1) thông qua các 
tiêu chí như khuyến khích sự tham gia của 
nhân viên vào các hoạt động cộng đồng 
(61%); tổ chức các hoạt động phúc lợi cho 
nhân viên (65%); chĕm lo sức khỏe-đời sống 
 ... ến nĕm 2012 và 2013 vẫn 
duy trì mục “Trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp” mô tả các hoạt động hướng tới cộng 
đồng trong nĕm, nhưng ngân sách dành cho 
hoạt động này không được công bố. Đến nĕm 
2014 và 2015 mục cộng đồng không đề cập 
trong BCTN. Ngược lại, ngân sách dành cho 
công tác từ thiện xã hội của ACB qua các 
nĕm từ 2011 đến 2016 được trình bày rất chi 
tiết, định lượng như Bảng 3. 
Bảng 3: Tổng hợp số liệu tài trợ an sinh xã hội của ACB giai đoạn 2011 – 2016
ĐVT: triệu đồng
Nĕm Lĩnh vưc tài trợ Tổng cộng
Giáo dục Y tế Đối tượng chính 
sách và người 
nghèo
Xây dựng 
cơ sở vật 
chất
Khác
2011 785,1 0 9.742,7 200,0 0 10.727,8
2012 12.172,7 0 5.427,4 2.000,0 2.825,3 22.425,4
2013 579,0 0 3.760,0 3.142,1 7.212,6 14.693,7
2014 6.224,0 1.210,0 2.205,0 0 581,4 10.220,4
2015 3.000,0 1.400,0 1.800,0 540,0 650,0 7.390,0
2016 1180,0 1500,0 850,0 2550,0 2270,0 8350,0
Tổng 23.940,8 4.110,0 23.785,1 8.432,1 13.539,3 73.807,3
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên của ACB từ nĕm 2011-2016
Theo kết quả thống kê ở bảng 3 cho thấy 
ngân sách dành cho công tác từ thiện của 
ACB thay đổi liên tục qua các nĕm, cao nhất 
là nĕm 2012 với hơn 22 tỷ; thấp nhất là nĕm 
2015 với hơn 7 tỷ. Khoản đầu tư này nhiều 
nhất là phục vụ cho giáo dục, đối tượng chính 
sách và người nghèo, chiếm 32%; thấp nhất 
là lĩnh vực y tế, chiếm 5,6% ngân sách dành 
cho hoạt động an sinh xã hội.
Mặc dù được đánh giá là ngành đi đầu 
trong công tác phát triển cộng đồng, nhưng 
ngân sách dành cho hoạt động này của NH 
vẫn chưa thật sự ổn định. Trong các NH khảo 
sát chỉ có ACB là công bố ngân sách dành 
cho các chương trình, hoạt động vì cộng 
đồng đầy đủ, rõ ràng, liên tục trong nĕm nĕm 
từ 2011 đến 2016. Các NH trong top đầu như 
BIDV, Vietinbank, Vietcombank vẫn có một 
hoặc 2 nĕm không công bố rõ ràng ngân sách 
này trên BCTN; tuy nhiên đã có cải tiến đáng 
kể trong việc công bố thông tin liên quan đến 
phát triển cộng đồng. Các NH còn lại công 
bố thông tin về khía cạnh cộng đồng có nhiều 
hạn chế. 
91
Trách nhiệm xã hội của ngân hàng ...
3.5. Khía cạnh cổ đông và khía cạnh môi 
trường
Khía cạnh cổ đông đối với các NHTMCP 
được coi như một nội dung bắt buộc phải 
công bố. 100% NH trình bày trách nhiệm 
với cổ đông thông qua việc đảm bảo lợi ích 
cao nhất, được cung cấp thông tin và tham 
gia một cách gián tiếp vào công tác điều 
hành. Khía cạnh môi trường được thể hiện 
thông qua việc tuân thủ các quy đinh về môi 
trường như chỉ thị số 30/CT-TTg, thực hiện 
các biện pháp tiết kiệm, xây dựng môi trường 
làm việc khoa học, hiệu quả, thúc đẩy tĕng 
trưởng tín dụng xanh hoặc tham gia tài trợ, 
hỗ trợ các dự án về môi trường. Đóng góp cải 
thiện môi trường thông qua tuân thủ các quy 
định về môi trường, tuyên truyền nâng cao 
nhận thức, thực hiện các biện pháp tiết kiệm 
nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực tới 
môi trường, đồng hành với các chương trình 
truyền thông bảo vệ môi trường. Theo hình 
1 cho thấy khía cạnh môi trường được công 
bố chiếm 32%- đây là chỉ tiêu hạn chế nhất 
trong các khía cạnh. Chỉ BIDV, SHB và An 
Bình có đề cập đến nội dung tiết kiệm nĕng 
lượng; Vietcombank và Sacombank quan tâm 
đến việc tái chế và 10 NHTMCP đề cập đến 
bảo vệ môi trường trong BCTN.
Dưới sự chỉ đạo của NHNN thông qua 
Chỉ thị 03/CT-NHNN nĕm 2015 về việc thúc 
đẩy tĕng trưởng tín dụng xanh và quản lý 
rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động 
cấp tín dụng. Một số NH đã triển khai chỉ 
thị này trong đó có Vietinbank, Sacombank, 
Techcombank, Vietcombank. Để thực hiện 
chỉ thị 03, các NH phải đầu tư hệ thống quản 
lý rủi ro môi trường và xã hội, xây dựng 
chuyên môn, nĕng lực cho nhân viên trong 
lĩnh vực tín dụng xanh, dẫn tới chi phí phát 
sinh không nhỏ; tuy nhiên một số NH vẫn 
công bố trên BCTN là đã không tài trợ cho 
các dự án vi phạm luật bảo vệ môi trường.
3.6. Thảo luận
Scholtens (2009) cho rằng khái niệm 
TNXH được hiểu và thực thi đầy đủ nhất 
trong ngành dịch vụ tài chính do loại doanh 
nghiệp này có tác động lớn đến xã hội. Các 
NH đang tĕng cường các khoản chi tiêu 
cho TNXH (Truscott et al., 2009) nhằm tự 
thể hiện là một NH có trách nhiệm (Decker, 
2004). Nhận định này phù hợp với thực trạng 
Việt Nam, các khoản chi tiêu cho các hoạt 
động TNXH chủ yếu hướng tới cộng đồng 
để xây dựng hình ảnh, thương hiệu hiệu quả 
hơn như BIDV, Vietcombank, Vietinbank. 
Thêm vào đó, NH cũng là tổ chức dễ bị tổn 
thương nhất từ các phản ứng tiêu cực của các 
bên liên quan (Thompson và Cowton, 2004) 
như các vụ bê bối trong thời gian qua ở lĩnh 
vực NH, tạo nên xu hướng giảm các chỉ tiêu 
lợi nhuận. Từ thực trạng một số điển hình 
hoạt động trách nhiệm xã hội trong thời gian 
quan, cho thấy tầm quan trọng của việc gìn 
giữ và nâng cao danh tiếng của từng thương 
hiệu NH. Hầu hết các công ty đa quốc gia đều 
đã xây dựng Bộ Quy Tắc ứng xử (Code of 
Conduct) có tính chất chuẩn mực và áp dụng 
rộng rãi với các bên liên quan (Nguyễn Đình 
Tài, 2010). Tuy nhiên các NH chưa xây dựng 
được Bộ Quy Tắc ứng xử ngoại trừ BIDV, 
VPbank. 
Liên quan đến trách nhiệm đối với nhân 
viên, các NHTMCP nhận thức được tầm quan 
trọng của TNXH, nên đã chú tâm hơn đến các 
phong trào nội bộ thông qua hàng loạt các 
hoạt động thiện quyện, chương trình từ thiện 
có sự tham gia của đông đảo cán bộ công 
nhân viên. Với ưu thế là nguồn nhân lực có 
trình độ cao, các hoạt động, phong trào hướng 
tới cộng đồng, hướng tới phát triển xanh đã 
góp phần cũng cố niềm tin trong nhân viên. 
Theo Lại Vĕn Tài và ctv (2013) các doanh 
nghiệp cần thay đổi cách tiếp cận và truyền 
92
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
thông các hoạt động về TNXH, và nhân viên 
là đối tượng quan trọng trong việc thực thi 
và truyền thông TNXH. Liên quan đến trách 
nhiệm đối với cộng đồng địa phương, các 
NH theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững 
nên rất chú trọng đến các chương trình thiện 
nguyện, an sinh xã hội tại địa phượng, các 
NH mong muốn cộng đồng ghi nhận thương 
hiệu và từ đó nâng cao giá trị thương hiệu. 
Tuy nhiên NH thường tham gia các hoạt động 
từ thiện do các tổ chức có uy tín phát động. 
Kinh phí cho các hoạt động này được trích 
từ nhiều nguồn khác nhau, được quy thành 
tiền, ngày công, giờ lao động Quy mô hoạt 
động của các chương trình này biến động thất 
thường qua các nĕm, nội dung TNXH còn rất 
hạn chế và chủ yếu đưa tin về các hoạt động 
liên quan đến trách nhiệm từ thiện, đạo đức. 
Qua các hoạt động liên quan đến an 
sinh xã hội, hướng tới công động được các 
NHTMCP liệt kê trong BCTN qua các nĕm 
cho thấy NH đã có những quan tâm thích 
đáng đối với cộng đồng và sẽ tiếp tục công 
bố ra bên ngoài các báo cáo phát triển bền 
vững. Dựa vào mô hình kim tự tháp của 
Carroll (1991), các hoạt động an sinh xã hội 
này tương ứng với trách nhiệm đạo đức và 
từ thiện. Do đó trách nhiệm kinh tế và pháp 
lý không được các NHTMCP coi là hoạt 
động TNXH (Hoàng Hải Yến, 2016). Theo 
Judins (2014) công chúng thường chú ý đến 
các hoạt động từ thiện, quyên góp, tài trợ của 
các NH. Tuy nhiên các nghiên cứu về hoạt 
động TNXH của NH còn giới hạn (Carnevale 
et al., 2012) và không đủ khung lý thuyết để 
đo lường các hoạt động TNXH, nhận xét của 
các bên liên quan và thấu hiểu các hoạt động 
này (Scholtens, 2009). Cạnh tranh gay gắt 
nên NH tận dụng các hoạt động TNXH như 
một cách để tạo sự khác biệt giữa các đối thủ 
cạnh tranh (Fatma et al, 2014). Mặc dù ngành 
NH được đánh giá là ngành đi đầu trong công 
tác an sinh xã hội, nhưng hoạt động này còn 
xuất phát từ sự chỉ đạo của NHNN và thường 
thông qua các chương trình từ thiện, an sinh 
xã hội để nâng cao hình ảnh, vị thế, uy tín 
của thương hiệu. Qua phân tích đánh giá thực 
trạng một số điển hình về các hoạt động liên 
quan đến TNXH cho thấy sự chênh lệch khá 
rõ ràng giữa các NH, giữa các nĕm về khía 
cạnh ngân sách cho các hoạt động TNXH. 
4. KẾT LUẬN
Các NHTMCP đã có những đóng góp 
tích cực trong công cuộc phát triển kinh tế 
đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa và là ngành đi đầu trong công cuộc 
hội nhập kinh tế thế giới. Vì vậy đánh giá 
thực trạng hoạt động TNXH và đề xuất các 
giải pháp nhằm tĕng cường làm lành mạnh 
hóa hệ thống NHTM, tiến tới phát triển bền 
vững là hết sức quan trọng. Các chuẩn mực 
đạo đức nghề nghiệp luôn được các NH coi 
trọng, thực hiện bởi từng nhân viên để có 
được những thành công dựa trên các hành vi 
có đạo đức, phù hợp với chuẩn mực chung. 
Các hoạt động TNXH hướng tới khách hàng, 
nhân viên, cộng đồng, môi trường và cổ đông 
đánh giá cao với những kết quả đáng khích 
lệ, đặc biệt là tiết giảm chi phí, giảm lãi suất 
cho vay, hỗ trợ tĕng trưởng kinh tế. Qua thực 
trạng các hoạt động TNXH của các NHTMCP 
cho thấy việc thực hiện TNXH vẫn được xem 
như hành động giải quyết các vấn đề xã hội vì 
mục đích nhân đạo và từ thiện (Nguyến Đình 
Tài, 2010). 
Thuật ngữ TNXH và phát triển bền vững 
đang được nhắc tới với tần suất dày hơn trong 
những nĕm gần đây. TNXH dần trở thành một 
bộ chỉ số thiết yếu để đo lường hoạt động của 
một doanh nghiệp (Perez et al., 2013). Quan 
điểm lạc hậu trước đây cho rằng doanh nghiệp 
không có trách nhiệm gì đối với xã hội mà 
chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao 
93
Trách nhiệm xã hội của ngân hàng ...
động. Doanh nghiệp đã đóng thuế cho chính 
phủ, nên chính phủ sẽ phải có trách nhiệm 
với xã hội. Những nĕm gần đây, ngày càng 
nhiều người quản lý nhận thức rằng doanh 
nghiệp đã sử dụng các nguồn lực trong xã 
hội, trong quá trình hoạt động có thể gây tổn 
hại cho môi trường tự nhiên. Vì vậy chỉ đóng 
thuế là chưa đủ, NH phải có trách nhiệm đối 
với cổ đông, khách hàng, môi trường, cộng 
đồng và người lao động. Thực trạng các điển 
hình hoạt động TNXH của các NHTMCP 
thời gian qua cho thấy các thành công bước 
đầu trong việc giữ chân khách hàng cũ và tạo 
dựng lòng tin cho cộng đồng thông qua các 
chương trình hoạt động cụ thể. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Abbott, W.F. and Monsen, R.J. (1979). 
On the measurement of corporate social 
responsibility: self reported disclosure as 
a method of measuring corporate social 
involvement. Academy of Management 
Journal. 22(3), 501-515.
[2]. Bowen, H., (1953). Social 
Responsibilities of the Businessman. Harper.
[3]. Bravo, R., Matute, J. and Pina, J. (2012). 
Corporate social responsibility as a vehicle 
to reveal the corporate identity: a study 
focused on the Websites of Spanish inancial 
entities. Journal of Business ethics. 107(2), 
129-146.
[4]. Carnevale, C., Mazzuca, M., & 
Venturini, S., (2012). Corporate social 
reporting in European banks: The effects 
on a irm’s market value. Corporate 
Social Responsibility and Environmental 
Management. 19(3), 159-177.
[5]. Carroll, A. B., (1991). The pyramid 
of corporate social responsibility: Toward 
the moral management of organizational 
stakeholders. Business horizons. 34(4), 
39-48.
[6]. Castelo, M. & Lima, L. (2006). 
Communication of corporate social 
responsibility by Portuguese banks: a 
legitimacy theory perspective. Corporate 
Communications. 11(3), 232-248.
[7]. Chomvilailuk, R., & Butcher, K., 
(2010). Enhancing brand preference through 
corporate social responsibility initiatives in 
the Thai banking sector. Asia Paciic Journal 
of Marketing and Logistics. 22(3), 397-418.
[8]. Dahlsrud, A., (2008). How corporate 
social responsibility is deined: an analysis of 
37 deinitions. Corporate social responsibility 
and environmental management.15(1), 1-13.
[9]. Decker, S.O., (2004). Corporate social 
responsibility and structural change in 
inancial services. Managerial Auditing 
Journal. 19(6), 712-728.
[10]. Esrock, S. L., & Leichty, G. B., (1998). 
Social responsibility and corporate web 
pages: Self-presentation or agenda-setting? 
Public relations review. 24(3), 305-319.
[11]. Fatma, M., Rahman, Z., & Khan, I., 
(2014). Multi-item stakeholder based scale 
to measure CSR in the banking industry. 
International Strategic Management Review. 
2(1), 9-20.
[12]. Gephart, P.R. (2004). From the editors: 
qualitative research and the academy 
of management. Journal Academy of 
Management Journal. 47(4), 454-462.
[13]. Hoàng Hải Yến, (2016). Trách nhiệm 
xã hội của Ngân hàng – Thực trạng và 
một số khuyến nghị đối với các ngân hàng 
thương mại Việt Nam. Tạp chí ngân hàng. Số 
10/2016.
[14]. Hsieh, H. F., & Shannon, S. E. (2005). 
Three approaches to qualitative content 
analysis. Qualitative health research, 15(9), 
1277-1288.
[15]. Judins, A., (2014). The Impact of 
Nationalisation on CSR Policy in Citadele 
94
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bank and CR Study of the Latvian Retail 
Banking Sector. Chinese Business 
Review, 13(1).
[16]. Kotler, P. và Lee, N., (2005). Corporate 
Social Responsibility: Doing the Most Good 
for Your Company and Your Cause. Hoboken, 
New Jersey: John Wiley & Sons, Inc.
[17]. Lại Vĕn Tài, Lê Thị Thanh Xuân và 
Trương Thị Lan Anh., (2013). Áp dụng mô 
hình của Carroll (1991) để khảo sát nhận thức 
của người lao động về khái niệm trách nhiệm 
xã hội của doanh nghiệp. Tạp chí Phát triển 
KH&CN, Q2(16), 67-77.
[18]. Lee, E. M., Park, S. Y., Rapert, M. I., 
& Newman, C. L., (2012). Does perceived 
consumer it matter in corporate social 
responsibility issues? Journal of Business 
Research. 65(11), 1558-1564.
[19]. Maignan, I., & Ralston, D. A. (2002). 
Corporate social responsibility in Europe 
and the US: Insights from businesses’ self-
presentations. Journal of International 
Business Studies, 33(3), 497-514.
[20]. Milne, M.J. & Adler, R.W. (1999). 
Exploring the reliability of social and 
environmental disclosures content analysis. 
Accounting, Auditing & Accountability 
Journal. 12(2), 237-256.
[21]. Nguyễn Đình Tài, (2010). Trách nhiệm 
xã hội của doanh nghiệp và các vấn đề đặt ra 
hôm nay. Kinh tế và Dự báo. 
[22]. Nguyễn Tuấn Anh và Nguyễn Vĕn Thọ, 
(2014). Biến động nhân lực ngành ngân hàng 
tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp. Tạp 
chí Cộng Sản.
[23]. Pérez, A., Martínez, P., Del Bosque, I. 
R., (2013). The development of a stakeholder-
based scale for measuring corporate social 
responsibility in the banking industry. Service 
Business. 7(3), 459-481.
[24]. Pérez, A., và del Bosque, I. R., (2015). 
Customer values and CSR image in the 
banking industry. Journal of Financial 
Services Marketing. 20(1), 46-61.
[25]. Scholtens, B., (2009). Corporate social 
responsibility in the international banking 
industry. Journal of Business Ethics. 86(2), 
159-175.
[26]. Stemler, S. (2001). An overview of 
content analysis. Practical Assessment, 
Research and Evaluation. 7(17), http://
pareonline.net (cập nhật ngày 10/3/2017).
[27]. Thompson, P., và Cowton, C., (2004). 
Bringing the environment into bank lending: 
implications for environmental reporting. The 
British Accounting Review. 36(2), 197-218.
[28]. Truscott, R. A., Bartlett, J. L., 
Tywoniak, S. A., (2009). The reputation of 
the corporate social responsibility industry 
in Australia. Australasian Marketing Journal 
(AMJ). 17(2), 84-91.

File đính kèm:

  • pdftrach_nhiem_xa_hoi_cua_ngan_hang_thuong_mai_co_phan_nghien_c.pdf