Triết lý “Giáo dục và hòa bình” của Maria Montessori và gợi mở về xây dựng môi trường giáo dục ở Việt Nam hiện nay

Nội dung cơ bản và giá trị cốt lõi trong triết lý Giáo dục và Hòa bình của M.

Montessori là phương pháp giáo dục thông qua môi trường thân thiện, ở đó trẻ

độc lập hoạt động và tương tác xã hội dưới sự hướng dẫn của nhà trường/gia

đình để kiến tạo và bồi đắp tình yêu thương con người - cơ sở của nền hòa bình

bền vững. Từ quan điểm về mối quan hệ giữa giáo dục và hòa bình, đặc biệt là

từ phương pháp giáo dục tiến bộ của M. Montessori, bài viết liên hệ và đề xuất

một số giải pháp gợi mở về xây dựng môi trường giáo dục đối với giáo dục gia

đình và nhà trường Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

pdf 10 trang yennguyen 5500
Bạn đang xem tài liệu "Triết lý “Giáo dục và hòa bình” của Maria Montessori và gợi mở về xây dựng môi trường giáo dục ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lý “Giáo dục và hòa bình” của Maria Montessori và gợi mở về xây dựng môi trường giáo dục ở Việt Nam hiện nay

Triết lý “Giáo dục và hòa bình” của Maria Montessori và gợi mở về xây dựng môi trường giáo dục ở Việt Nam hiện nay
1 
CHUYÊN MỤC 
TRIẾT HỌC - CHÍNH TRI HỌC - LUẬT HỌC 
TRIẾT LÝ “GIÁO DỤC VÀ HÒA BÌNH” 
CỦA MARIA MONTESSORI VÀ GỢI MỞ 
VỀ XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC 
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
NGUYỄN THỊ LUYỆN* 
Nội dung cơ bản và giá trị cốt lõi trong triết lý Giáo dục và Hòa bình của M. 
Montessori là phương pháp giáo dục thông qua môi trường thân thiện, ở đó trẻ 
độc lập hoạt động và tương tác xã hội dưới sự hướng dẫn của nhà trường/gia 
đình để kiến tạo và bồi đắp tình yêu thương con người - cơ sở của nền hòa bình 
bền vững. Từ quan điểm về mối quan hệ giữa giáo dục và hòa bình, đặc biệt là 
từ phương pháp giáo dục tiến bộ của M. Montessori, bài viết liên hệ và đề xuất 
một số giải pháp gợi mở về xây dựng môi trường giáo dục đối với giáo dục gia 
đình và nhà trường Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 
Từ khóa: Maria Montessori, triết lý giáo dục, giáo dục và hòa bình, môi trường giáo 
dục 
Nhận bài ngày: 22/12/2018; đưa vào biên tập: 27/12/2018; phản biện: 02/01/2019; 
duyệt đăng: 18/2/2019 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
M. Montessori (1870-1952) là nhà 
giáo dục người Ý nổi tiếng thế giới 
nửa đầu thế kỷ XX, người từng ba lần 
liên tiếp được đề cử cho Giải Nobel 
Hòa bình những năm 1949, 1950, 
1951 vì những cống hiến lớn lao cho 
sự nghiệp giáo dục của mình(1). Khi 
xây dựng cơ sở lý thuyết và thực hành 
giáo dục, M. Montessori tin tưởng giáo 
dục có vai trò đặc biệt quan trọng 
trong việc xây dựng nền hòa bình 
chung của thế giới: “Ngăn chặn chiến 
tranh là nhiệm vụ của chính trị, thiết 
lập hòa bình là nhiệm vụ của giáo 
dục”(2). Thành tựu giáo dục nổi bật 
của bà là sáng lập và phát triển Hệ 
thống giáo dục Montessori mà một 
trong những nội dung trọng tâm là 
* 
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
 NGUYỄN THỊ LUYỆN – TRIẾT LÝ “GIÁO DỤC VÀ HÒA BÌNH” CỦA 
2 
phương pháp giáo dục theo nguyên 
tắc “mỗi trẻ em được đối xử như một 
cá nhân theo cách riêng của mình”. 
Theo quan điểm của M. Montessori, 
trẻ em được khuyến khích học phù 
hợp với khả năng (tự nhiên) trong môi 
trường thân thiện với trẻ, điều này sẽ 
động viên và kích thích trí tò mò của 
trẻ trong quá trình học. Và để có được 
môi trường thân thiện ấy, giáo dục và 
hòa bình trước hết phải trở thành một 
triết lý giáo dục: “Thiết lập hòa bình 
lâu dài là công việc của giáo dục; tất 
cả những gì mà chính trị có thể làm là 
giữ cho chúng ta thoát khỏi chiến 
tranh”(3). 
Nội dung cơ bản, cũng là giá trị cốt lõi 
trong triết lý Giáo dục và hòa bình của 
M. Montessori là cách tiếp cận về khái 
niệm hòa bình từ góc độ giáo dục và 
phương pháp giáo dục nhằm hình 
thành, bồi đắp tình yêu thương cho 
trẻ - cơ sở cơ bản và cần thiết của 
hòa bình bền vững. Góp phần làm rõ 
một số nội dung trong phương pháp 
giáo dục của M. Montessori từ triết lý 
Giáo dục và hòa bình, qua đó gợi mở 
kiến tạo môi trường giáo dục trẻ từ gia 
đình và nhà trường Việt Nam là nhiệm 
vụ trọng tâm mà tác giả hướng tới 
trong bài viết này. 
2. QUAN ĐIỂM VỀ GIÁO DỤC VÀ 
HÒA BÌNH CỦA M. MONTESSORI 
Triết lý Giáo dục và hòa bình của M. 
Montessori đề cập tương đối toàn 
diện và sâu sắc đến các vấn đề lớn 
như: nền tảng của hòa bình; tầm quan 
trọng của giáo dục trong việc mang lại 
hòa bình; hãy giáo dục vì hòa bình. 
Đó không chỉ là những tư tưởng liên 
quan đến sự thụ đắc về tri thức hay 
các kỹ năng học tập mà qua đó còn 
gợi mở về sự phát triển khả năng 
chung sống của con người trong sự 
hòa hợp và đoàn kết. 
Đặc trưng cơ bản trong triết lý Giáo 
dục và hòa bình của M. Montessori 
trước hết là cách tiếp cận về Hòa bình 
trong mối liên hệ chặt chẽ với Giáo 
dục. Theo M. Montessori (2018: 9), 
hòa bình không chỉ đơn giản là sự 
vắng bóng chiến tranh và xung đột: 
“Hòa bình là khả năng đối diện với các 
xung đột, khắc phục những khác biệt, 
và tiếp tục đi tới”; hòa bình là khả 
năng tự do, thoát khỏi sự sợ hãi, bất 
an, thiếu tự tin để đương đầu và giải 
quyết hiệu quả các xung đột của con 
người trong cuộc sống. Và để các thế 
hệ trẻ đối diện “các xung đột”, khắc 
phục “sự khác biệt”, từ đó tạo lập sự 
tự tin và đạt đến tự do, giáo dục được 
xem là một trong những giải pháp hiệu 
quả nhất. Tuy nhiên, giáo dục chỉ trở 
thành công cụ hữu hiệu để xây dựng 
hòa bình khi trong triết lý giáo dục, tôn 
trọng là thuộc tính chính yếu - tôn 
trọng trẻ thơ, tôn trọng đặc trưng và 
nhân cách độc đáo, sự khác biệt của 
trẻ. Theo M. Montessori (2018: 12): 
“Nếu bạn tôn trọng người khác và bạn 
biết rằng người khác cũng đang tôn 
trọng bạn, thì bạn không lo sợ và 
không cảm thấy cần phải tự vệ chống 
lại sự gây hấn nào vốn thường nảy 
sinh từ óc tưởng tượng”. 
Từ thực tế trải nghiệm quan sát trẻ, M. 
Montessori (2018: 12) cho rằng: “mối 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
3 
quan hệ giữa trẻ thơ với kẻ khác tự 
nhiên được đánh dấu bởi óc tò mò và 
sự bình yên sự hung hăng không 
phải là một phần của phản ứng tự 
nhiên ở trẻ”. Nhận định này được bà 
luận giải từ đặc điểm tự nhiên về sự tò 
mò của trẻ. Chẳng hạn, khi gặp một 
người khác, sự khác biệt (ngôn ngữ, 
thể chất) của người đó luôn thúc 
đẩy óc tò mò của trẻ, và luôn đặt trẻ 
vào trong một mối tương quan dẫn 
đưa đến sự hòa hợp. Có thể thấy luận 
điểm này của M. Montessori dường 
như có sự liên hệ gần gũi về mặt ý 
nghĩa với mệnh đề “nhân chi sơ tính 
bản thiện” (cách nay hơn 2.500 năm) 
của Khổng Tử hay “tấm bảng/giấy 
trắng” (Tabula Rasa - White Paper) 
(thời kỳ Phục hưng) của Jonh Locke(4) 
khi nói về tâm hồn trẻ thơ. Và vấn đề 
được đặt ra là: môi trường cho sự 
hoạt động của trẻ cần được thiết kế 
như thế nào để trẻ phát triển? 
Môi trường để phát triển tâm hồn và trí 
tuệ trẻ thơ, theo M. Montessori là môi 
trường thúc đẩy được nhu cầu khám 
phá thế giới của trẻ. Môi trường đó 
không chỉ là nơi đứa trẻ sống mà còn 
là điều kiện để trẻ tự hình thành tình 
yêu thương vì tình yêu thương không 
phải do áp đặt từ bên ngoài. Như vậy, 
nhiệm vụ cơ bản nhất của giáo dục 
chính là tạo được một môi trường với 
những điều kiện (chuẩn bị) để trẻ 
tương tác và hoạt động, qua đó cảm 
xúc tình yêu của trẻ được bộc lộ. 
Hình 1. Môi trường giáo dục (chuẩn bị) theo M. Montessori 
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria_Montessor 
Các học cụ 
mang tính 
chuyên biệt, 
giúp tạo sự 
phát triển toàn 
diện của trẻ 
xây dựng 
phù hợp với 
nhu cầu của 
trẻ 
Đẹp, 
hài hòa, 
sạch sẽ 
Có tính 
trật tự 
Có sự sắp 
xếp hợp lý 
giữa các 
hoạt động 
 NGUYỄN THỊ LUYỆN – TRIẾT LÝ “GIÁO DỤC VÀ HÒA BÌNH” CỦA 
4 
Bên cạnh đó, M. Montessori (2018: 13) 
cũng nhấn mạnh: “Hòa bình không chỉ 
đòi hỏi một mối quan hệ có cảm xúc, 
mà cần một sự thay đổi lớn lao mang 
tính xã hội vốn sẽ cho phép người ta 
cảm nhận được rằng trong tương lai, 
của cải của thế giới có thể được chia 
sẻ một cách tốt đẹp hơn so với ngày 
nay”. Trẻ em có ý thức tự nhiên về sự 
công bình, và một phần trong triết lý 
căn bản của Montessori là giáo dục để 
biến ý thức ấy thành một hoạt động 
mang tính xã hội đích thực. 
Trong môi trường giáo dục, M. 
Montessori (2018: 142) cho rằng: “Có 
hai điều cần thiết là: sự phát triển 
mang tính cá nhân và sự tham gia của 
cá nhân vào đời sống mang tính xã 
hội”. Bà nhấn mạnh đến sự tương tác 
giữa cá nhân với môi trường trong 
hoạt động của trẻ theo nguyên tắc: 
con người chế tác ra các đồ vật nhưng 
đồng thời, con người cũng được định 
hình qua các đồ vật được chế tác. 
Ảnh hưởng định hình tương hỗ này là 
biểu hiện của thái độ, tình yêu con 
người đối với môi trường xung quanh. 
Theo hướng tiếp cận này, M. Montessori 
(2018: 144) nhấn mạnh: “Tình yêu 
thúc đẩy đứa trẻ không phải đến sự 
sở hữu một vật mà là đến công việc 
nó có thể làm với vật ấy”. Trong môi 
trường trẻ hoạt động, sự tò mò và 
khám phá đem lại cảm xúc thích thú 
với vật mà chúng tác động. Đồng thời, 
khi tác động vào vật và môi trường, 
trẻ luôn có xu hướng “liên kết” với cá 
nhân khác; sự liên kết này giúp trẻ 
hoàn thành hoạt động, đồng thời tạo 
nên sự thích thú về “thành tích” đạt 
được trong mối quan hệ cùng hoạt 
động với cá nhân khác. “Khi công việc 
bắt đầu trong một môi trường nào đó, 
sự liên kết với những kẻ đồng loại của 
mình bắt đầu, bởi không ai có thể làm 
việc một mình. Và đời sống diễn biến 
như thế: một hình thức lao động thú vị 
xuất hiện, nó tăng cường giá trị của 
tính cá nhân, và điều này đến lượt 
mình, vinh danh cái nhân vị cá thể” 
(Montessori, 2018: 144). 
Sự thích thú, niềm vui hay xúc cảm 
tình yêu cứ như thế hình thành trong 
môi trường hoạt động của trẻ “Khi các 
cá nhân phát triển bình thường, chúng 
đơn thuần cảm thấy một tình yêu 
không những đối với sự vật, mà còn 
đối với các cá nhân khác. Tình yêu 
này không phải cái gì được dạy cho; 
nó là hệ quả do sống một cuộc đời 
đúng nghĩa” (trang 145). Và theo 
nghĩa này, tình yêu không phải là 
nguyên nhân mà là kết quả của một 
sự phát triển bình thường của cá nhân; 
tình yêu không chỉ được dạy bằng sự 
gương mẫu, tình yêu còn chính là đời 
sống bình thường với sự độc lập trong 
hoạt động của trẻ. 
Ngược lại, khi trẻ bị giới hạn môi 
trường hoạt động hoặc có nhưng 
chưa đầy đủ các nguyên liệu giáo dục 
dưới dạng: học cụ; người khác; vai trò 
“dẫn dắt” của cha mẹ, hay thầy cô 
chưa được thể hiện đúng cách,... thì 
cảm xúc buồn bã và trạng thái khó 
chịu, thậm chí là cảm giác bất an, tự 
ti... sẽ xuất hiện ở trẻ. Và điều này có 
thể là mầm mống của sự thay đổi tâm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
5 
lý không đúng theo sự tự nhiên, giản 
đơn như chính cuộc sống của trẻ. “Nếu 
có điều gì ngăn chặn cá nhân không 
được hành động - nó bắt đầu muốn 
chiếm hữu tất cả những gì quanh nó. 
Thay vì làm việc với người khác, nó 
quay ra gây gổ với họ. Hệ lụy của mối 
liên kết với người khác không phải là 
sự hợp tác mà là sự xung đột” (trang 
144). Đây chính là nguy cơ dẫn tới 
hành vi bạo lực của trẻ trong trường, 
lớp hoặc gia đình. Điều này cho thấy 
sự liên hệ đặc biệt giữa tầm quan 
trọng của môi trường giáo dục và 
nguy cơ bạo lực học đường từ bản 
thân trẻ khi phương pháp giáo dục 
của gia đình và thầy cô không gắn với 
môi trường để trẻ có thể độc lập hoạt 
động trong sự tương tác với các cá 
nhân khác dưới sự định hướng của 
cha mẹ, thầy cô. 
Với luận điểm trên, hai con đường 
phát triển nhân cách của trẻ đã hé lộ. 
Con đường thứ nhất dẫn trẻ đến con 
người yêu thương, hài hòa với cá 
nhân khác; con đường thứ hai dẫn trẻ 
đến con người chiếm hữu, thù ghét cá 
nhân khác. Và như vậy, đương nhiên 
là, để tạo lập và bồi đắp cảm xúc, tình 
yêu cho trẻ, ngay từ đầu, người lớn, 
bằng tri thức và kinh nghiệm của 
mình, cần thiết hướng dẫn trẻ sử 
dụng đồ vật trong môi trường của 
chúng, hoặc dẫn dắt trẻ chuyển từ 
chiếm hữu sang sử dụng các đồ vật 
trong môi trường này. Khi trẻ độc lập 
hoạt động trong sự tương tác với cá 
nhân khác, sự sáng tạo sẽ mang lại 
giá trị bản thân. 
Qua thực tiễn và nhận thức sâu sắc 
về đặc điểm tâm lý trẻ, M. Montessori 
(2018: 142) nhấn mạnh đến vai trò và 
phương pháp giáo dục của gia đình 
và nhà trường: “Giáo dục phải quan 
tâm đến sự phát triển cá thể và cho 
phép cá nhân trẻ thơ được tự lập 
không chỉ những năm sớm nhất trong 
thời thơ ấu mà còn trải qua những giai 
đoạn phát triển của nó”. 
Theo M. Montessori (2018: 142-143), 
tuy mỗi giai đoạn tuổi thơ là khác 
nhau, nhưng “một nguyên tắc vẫn 
được giữ nguyên vẹn trong tất cả các 
giai đoạn này là bất kỳ lúc nào, đứa 
trẻ cũng được cung cấp các phương 
tiện cần thiết để hành động và tiếp thu 
kinh nghiệm”. Và theo M. Montessori 
(2018: 143), “trẻ không thể phát triển 
nếu không có các vật dụng quanh nó 
để cho phép trẻ hành động”; đồng thời 
trong vai trò chuyển tải trực tiếp tri 
thức tới trẻ thì môi trường mới là 
“người thầy” tốt nhất” (trang 143). 
Trong môi trường, trẻ hoạt động sẽ 
khám phá ra niềm vui và lòng nhiệt 
thành trong lao động. Điều này sẽ 
đem lại cho trẻ sự cảm nhận về một 
tình yêu mạnh mẽ với chính môi 
trường và các cá nhân khác cùng 
tham gia. Điều đó cho thấy sự cần 
thiết phải tiến hành xây dựng một môi 
trường cung cấp những điều kiện thỏa 
đáng cho sự phát triển bình thường 
của trẻ ở nhà trường và ở cả gia đình. 
3. GỢI MỞ VỀ XÂY DỰNG MÔI 
TRƯỜNG GIÁO DỤC TRẺ TRONG 
NHÀ TRƯỜNG VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT 
NAM HIỆN NAY 
Với triết lý Giáo dục và Hòa bình mà 
 NGUYỄN THỊ LUYỆN – TRIẾT LÝ “GIÁO DỤC VÀ HÒA BÌNH” CỦA 
6 
trọng tâm là giáo dục trẻ qua môi 
trường để trẻ độc lập hoạt động trong 
sự tương tác xã hội dưới sự hướng 
dẫn của cha mẹ, thầy cô, luận điểm 
“môi trường mới là người thầy tốt 
nhất” gợi mở cho các nhà sư phạm và 
các bậc cha mẹ con đường lớn nhằm 
kiến tạo cho trẻ môi trường hoạt động, 
ở đó trẻ có cơ hội hình thành cảm xúc 
tình yêu, phát triển tính cách, khẳng 
định bản thân và hướng tới cộng đồng 
vì sự phát triển. 
3.1. Kiến tạo môi trường giáo dục 
hình thành tình yêu của trẻ 
Tình yêu của cha mẹ và thầy cô dành 
cho trẻ không chỉ là sự quan tâm, 
chăm sóc, hay chiều chuộng, an ủi, vỗ 
về. Và càng không thể như việc đáp 
ứng vô điều kiện về tình cảm cũng 
như những đòi hỏi bất kỳ theo mong 
muốn từ trẻ. Tuy nhiên, trên thực tế, 
tâm lý, tình cảm cùng điều kiện sống 
tốt hơn về vật chất và tỷ lệ sinh thấp là 
nguyên nhân dẫn đến không ít bậc 
cha mẹ đã yêu con trẻ theo cách riêng 
của mình. Từ cảm xúc thương yêu và 
quý con, cha mẹ luôn mong muốn con 
trẻ có điều kiện tốt nhất có thể và họ 
sẵn sàng làm mọi việc vì trẻ, không 
ngoại trừ cả việc hy sinh cuộc sống 
của mình cho trẻ mà lẽ ra họ không 
nhất thiết phải làm như vậy. Họ suy 
nghĩ và hành động với tâm lý sẵn 
sàng, vì theo họ, đó là cách mà cha 
mẹ đã mang hết tình thương yêu của 
mình tới trẻ. Và họ hy vọng trẻ sẽ thấu 
hiểu và “ghi nhớ” được điều mà họ đã 
tự nguyện làm. Tuy nhiên, đó chỉ là 
mong muốn một phía từ người lớn. 
Thực tế, với những gì cha mẹ đã làm 
và làm rất nhiều cho trẻ, trẻ chỉ có thể 
cảm nhận một phần, thậm chí là rất ít 
ỏi so với những gì cha mẹ kỳ vọng. 
Vậy, vấn đề ở đây là gì? Phải chăng 
cha mẹ đã sai về cách yêu thương 
trẻ? Theo luận thuyết của M. 
Montessori, tình yêu là tự nhiên và 
vốn có, tình yêu được hình thành từ 
bản thân trẻ mà không phải từ sự “ban 
phát” hay cho tặng từ người khác, kể 
cả cha mẹ. Trong tương tác với người 
khác hoặc sự vật qua sự “tự hoạt 
động” của trẻ, cảm xúc thích thú, sự 
gắn bó và liên kết giữa trẻ với các yếu 
tố “tương tác” được hình thành. Như 
vậy, nếu chỉ đơn thuần như nói lời yêu, 
hay sự chăm sóc, chiều chuộng hoặc 
đáp ứng vô điều kiện từ một phía cha 
mẹ đối với trẻ sẽ là chưa đủ để đem 
lại tình yêu cho trẻ. Chưa kể, hệ quả 
của tâm lý và việc làm này còn góp 
phần làm trẻ có thiên hướng yêu bản 
thân - ranh giới gần với “ích kỷ” hơn. 
Như vậy, cha mẹ và người lớn cần 
thể hiện tình yêu với trẻ bằng cách 
cho trẻ những điều kiện được hoạt 
động, được chơi, được tự “xử lý” 
những vấn đề thuộc về trẻ. Vai trò của 
cha mẹ ở đây là dành thời gian, sự 
gần gũi, và cả niềm vui thích chân 
thành trong hoạt động và vui chơi 
cùng trẻ. Cha mẹ và người lớn tạo 
cho trẻ có cơ hội hoạt động và sẵn 
sàng cùng trẻ giải đáp thắc mắc cũng 
như nhận xét hoặc tán dương khi trẻ 
hoạt động, giúp trẻ phát triển hài hoà 
cả về tinh thần và thể chất. Đó chính 
là phương pháp chuyển tải tình yêu 
thương từ cha mẹ cũng như hình 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
7 
thành tình yêu cho trẻ hữu hiệu nhất, 
theo quan điểm của M. Montessori. 
3.2. Kiến tạo môi trường giáo dục 
phát triển cá tính và khả năng tự 
lập của trẻ 
Hoạt động là đặc điểm tự nhiên của 
trẻ, chỉ cần với một không gian đủ để 
ít nhất hai hay nhiều đứa trẻ tương tác 
với đồ vật theo chủ đề bất kỳ - hay 
còn gọi là điều kiện môi trường, là trẻ 
có thể hứng thú và bị cuốn hút. Lúc 
này trẻ gần như lãng quên về thời 
gian, trừ khi trẻ được lưu ý và nhắc 
nhở. Điều kiện môi trường để trẻ hoạt 
động theo nghĩa này khá thân thuộc, 
có thể hình thành không chỉ từ nhà 
trường mà cả gia đình và nhóm trẻ 
cùng chơi chung. Nhưng trên thực tế, 
điều này lại không phổ biến với hầu 
hết trẻ em. Trẻ ít được hoạt động hơn 
những gì thuộc về đặc điểm tự nhiên 
của chúng, nhất là trong điều kiện 
hiện nay. Một trong những nguyên 
nhân có thể từ sự lo lắng của cha mẹ 
và thầy cô về sự rủi ro đối với trẻ, 
hoặc bản thân người lớn chưa thực 
sự chú tâm và am hiểu về nhu cầu 
hoạt động của trẻ. Đặc biệt, càng 
không nên khi cha mẹ thay thế con 
trong nhiều hoạt động mà lẽ ra phần 
lớn các hoạt động này cần thiết do 
chính trẻ tự thực hiện. Và nếu như 
cha mẹ áp đặt lên suy nghĩ của trẻ và 
mong muốn trẻ thực hiện cả những gì 
mà bản thân họ không làm được hoặc 
đã từng thất bại về việc làm và nghề 
nghiệp trong quá khứ, trong khi mong 
muốn này vượt quá năng lực và sở 
trường của trẻ thì điều này là không 
công bằng. Tâm lý của cha mẹ và 
cách giáo dục này của gia đình tất yếu 
dẫn đến hệ quả cá tính của trẻ dần bị 
lu mờ thay vì phát triển. Sự ỷ lại, tính 
phụ thuộc và thiên hướng “chiếm hữu” 
xuất hiện trong tâm lý, hình thành thói 
quen và bộc lộ càng rõ nét trong quá 
trình hình thành và phát triển nhân 
cách của trẻ. 
Cá tính của trẻ với sự bộc lộ thiên 
hướng thiếu chủ động trong hoạt động, 
mà lẽ ra bản thân mỗi đứa trẻ cần 
phải có trong quá trình phát triển với 
sự liên kết xã hội có nguyên nhân do 
tâm lý và phương pháp giáo dục từ 
gia đình trên đây nếu được “khắc 
phục” bằng phương pháp giáo dục có 
tổ chức và khoa học từ nhà trường sẽ 
phần nào hạn chế được khiếm khuyết 
trong hình thành nhân cách do giáo 
dục gia đình mang lại. Tuy nhiên, về 
điều này, giáo dục nhà trường dường 
như còn hạn chế. Sự hoạt động của 
học sinh, lẽ ra các em cần được chủ 
động thực hiện cùng với sự hướng 
dẫn của thầy cô và tương tác với học 
cụ, phương tiện học tập (mô hình xã 
hội thu nhỏ) được cung cấp đầy đủ, 
ngược lại, trẻ chủ yếu được thầy cô 
giảng giải lý thuyết qua những bài học 
trong lớp, điều kiện môi trường còn 
hạn chế. Hệ quả từ giáo dục nhà 
trường với điều kiện môi trường chưa 
tốt không mấy mở ra cơ hội để các 
em hoạt động “độc lập” để đạt tới giá 
trị hình thành cảm xúc yêu thương, 
thay vào đó là sự u muội của trí não; 
sự thiếu vận động của cơ thể cho sự 
phát triển của thần kinh, trí tuệ; sự 
 NGUYỄN THỊ LUYỆN – TRIẾT LÝ “GIÁO DỤC VÀ HÒA BÌNH” CỦA 
8 
nhàm chán bởi những bài học cần 
phải lặp lại nhiều lần trong trí tưởng 
tượng (thậm chí thiếu cả liên hệ thực 
tiễn) để khắc ghi và phục vụ cho bài 
kiểm tra, thi cử và sự đánh giá. 
Môi trường giáo dục từ gia đình và 
nhà trường nêu trên khá xa rời với 
môi trường giáo dục theo quan điểm 
của M. Montessori, môi trường mà ở 
đó, trẻ được tự do về thể chất và tinh 
thần trong hoạt động và sáng tạo, 
hình thành tình yêu thương dưới sự 
hướng dẫn của thầy cô và cha mẹ. 
Một môi trường như thế sẽ hết sức có 
ý nghĩa đối với trẻ vì sẽ tránh được sự 
lệch lạc trong tâm lý và sự phát triển, 
nguồn cơn sâu xa của bạo lực học 
đường. 
3.3. Kiến tạo môi trường giáo dục 
để trẻ hướng tới cộng đồng vì sự 
phát triển 
Theo M. Montessori, Hòa bình không 
chỉ đòi hỏi mối quan hệ về cảm xúc 
mà còn là hành động cụ thể xuất phát 
từ tình cảm chân thành hướng tới 
cộng đồng, xã hội. Đồng thời, khi đặt 
quá trình phát triển cảm xúc của trẻ 
trong mối liên hệ với cộng đồng, dễ 
dàng nhận thấy trẻ em có ý thức tự 
nhiên về sự công bình; vấn đề là phải 
chuyển biến ý thức tự nhiên ấy thành 
hoạt động mang tính xã hội đích thực. 
Do vậy, trọng trách của nhà trường và 
gia đình là tạo cho trẻ môi trường hoạt 
động mà qua đó, trong quá trình giải 
quyết các tình huống, trẻ sẽ tự ý thức 
những gì được xem là có ý nghĩa. Sự 
nhận biết (tự đánh giá) về ý nghĩa của 
hành động của trẻ luôn được bộc lộ 
qua sự so sánh trong khi hoạt động, 
hay được xem là “kinh nghiệm” được 
rút ra trong một tình huống cụ thể. Và 
điều này nhấn mạnh một lần nữa rằng, 
ý thức hoạt động hướng tới cộng 
đồng không đơn giản chỉ là dưới dạng 
“bài học” mà trẻ phải thuộc và ghi nhớ, 
mà đó là cả quá trình phát triển cảm 
xúc tích cực, hình thành ý thức tình 
cảm và thái độ tự giác thông qua hoạt 
động kết hợp với sự hỗ trợ cần thiết 
từ thầy cô, cha mẹ. 
Thực tiễn cho thấy, việc trẻ tự đánh 
giá hoạt động của bản thân không 
mấy quan trọng bằng khi được người 
khác đánh giá, cho dù đó là nhận xét 
của bạn cùng trang lứa. Việc người 
khác và cộng đồng ghi nhận về thái độ 
tích cực hay một việc làm có ích dù là 
rất nhỏ bé thì điều này cũng sẽ mang 
lại một động lực lớn lao cho cuộc 
sống vốn dĩ rất tươi đẹp của trẻ. 
Chính vì lẽ đó, hầu hết nền giáo dục 
hiện đại ngày nay của các nước trên 
thế giới đều chú trọng giáo dục trải 
nghiệm cho trẻ. Ngoài ý nghĩa về lý 
luận gắn với thực tiễn thì ý nghĩa lớn 
lao hơn là hướng trẻ tới chân giá trị 
qua hoạt động và mối quan hệ cộng 
đồng. Qua hoạt động gắn với cộng 
đồng, trẻ không chỉ được học, trẻ còn 
được chơi, được trải nghiệm, được 
bồi dưỡng về giá trị cuộc sống để có 
một tâm hồn đẹp trong mối quan hệ 
xã hội và những hành vi, việc làm có ý 
nghĩa cộng đồng. 
4. KẾT LUẬN 
Với mục tiêu cao cả về thế giới hòa 
bình, tương lai tốt đẹp của nhân loại 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (245) 2019 
9 
mai sau, triết lý Giáo dục và Hòa bình 
của M. Montessori có thể chưa hẳn 
đã thỏa mãn và đáp ứng hoàn toàn 
hiện thực tồn tại và phát triển của xã 
hội bởi vì dẫu sao, tồn tại và phát 
triển của xã hội không thể không phụ 
thuộc vào các yếu tố hạ tầng và thiết 
chế xã hội mang tính nền tảng. Tuy 
nhiên, quan điểm của M. Montessori 
về Giáo dục và Hòa bình vẫn được 
ghi nhận như một dấu ấn nổi bật của 
giáo dục học hiện đại, gợi mở cho 
các nhà sư phạm, bậc làm cha mẹ ở 
khắp nơi trên thế giới những cách 
thức triển khai phương pháp giáo dục 
cho trẻ, vì trẻ, của trẻ hết sức có ý 
nghĩa. 
Trẻ em là điều kỳ diệu của tạo hóa 
ban tặng cho nhân loại. Tương lai của 
trẻ thơ phụ thuộc vào chúng ta hôm 
nay và trẻ thơ kiến tạo ra tương lai 
mai sau, trong đó có hòa bình của 
nhân loại. Vì vậy, hãy hiểu và không 
thể chậm trễ thực hiện điều tưởng 
chừng như hết sức đơn giản “Con cái 
không phải của riêng chúng ta, chúng 
thuộc về vũ trụ và chỉ đi qua nhà 
chúng ta trong suốt cuộc hành trình 
của chúng, vì chúng cần được hướng 
dẫn” (Shimi Kang, 2017: 13).  
CHÚ THÍCH 
(1) 
Maria Montessori (1870-1952) sinh ra tại Ý và mất tại Hà Lan. Bà là phụ nữ đầu tiên tốt 
nghiệp Y khoa năm 1894 (Đại học Roma) và bắt đầu nghiên cứu về các vấn đề giáo dục trẻ 
(dựa theo một số khái niệm do bác sĩ E. Seguin khởi xướng) năm 1899. Bà bắt đầu làm việc 
với trẻ em tại các trường tư và công lập ở Roma và nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của giới 
cải cách. Từ năm 1900-1907, Maria Montessori giảng dạy về nhân chủng học tại Đại học 
Roma và trở thành thanh tra các trường học (1922) của nhà nước Ý. Bà viết nhiều sách về 
giáo dục và tổ chức nhiều khóa huấn luyện cho giáo viên tại Tây Ban Nha, Ấn Độ, Anh, Hà 
Lan. Ngày nay, hệ thống giáo dục mang tên bà do AMI - Association Montessori 
Internationale, đại diện và giám sát, có mặt tại hơn 100 quốc gia trên thế giới đã góp phần 
tạo dựng một nền tảng thiết yếu và đích thực cho việc giáo dục trẻ nhằm xây dựng một thế 
giới hòa bình và tiến bộ cho con người. Tại Việt Nam bốn cuốn sách của bà đã được dịch 
sang tiếng Việt: Trẻ thơ trong gia đình, Dạy con trước tuổi lên 3 - Phương pháp giáo dục của 
Montessori, Sổ tay giáo dục trẻ em và Giúp con tự học (https://vi.wikipedia.org/ 
wiki/Maria_Montessori). 
(2)
 “Preventing war is the work of politicians, establishing peace is the work of educationists”, 
truy cập ngày 02/01/2019 tại https://quotes.thefamouspeople.com/maria-montessori-
2252.php. 
(3)
 “Establishing lasting peace is the work of education; all politics can do is keep us out of 
war”, truy cập ngày 02/01/2019 tại https://quotes.thefamouspeople.com/maria-montessori-
2252.php. 
(4) 
John Locke (1632-1704) - triết gia thời kỳ Phục hưng, thuộc trường phái duy nghiệm Anh, 
nổi tiếng với việc đưa ra mệnh đề rằng tâm hồn trẻ thơ là một Tabula Rasa, một “tấm bảng 
trắng”, theo bản dịch tiếng Anh về sau là “giấy trắng” (White Paper), trên đó các kinh nghiệm 
được rút ra từ các ấn tượng của giác quan khi cuộc sống của một người được viết ra. Nhờ 
tiếp xúc với thế giới cảm tính mà tờ giấy ấy ngày mỗi ngày lại đầy thêm ý niệm, khái niệm, 
kinh nghiệm sống. Chủ nghĩa duy nghiệm - duy cảm và tự nhiên thần luận đã được Locke 
 NGUYỄN THỊ LUYỆN – TRIẾT LÝ “GIÁO DỤC VÀ HÒA BÌNH” CỦA 
10 
vận dụng vào học thuyết chính trị, giáo dục của ông, nhất là tư tưởng về tự do và phương 
pháp giáo dục “dựa vào bản tính tự nhiên của con người”. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. https://quotes.thefamouspeople.com/maria-montessori-2252.php, truy cập ngày 
02/01/2019. 
2. https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria_Montessori, truy cập ngày 02/01/2019. 
3. https://www.thefamouspeople.com/profiles/maria-montessori-2252.php, truy cập ngày 
02/01/2019. 
4. Kang, Shimi (Đỗ Liên Hương dịch). 2017. Nuôi dạy con kiểu cá heo. Nxb. Thế giới. 
5. Montessori, Maria (Nghiêm Phương Mai dịch). 2018. Giáo dục và Hòa bình. Đà Nẵng: 
Nxb. Đà Nẵng. 

File đính kèm:

  • pdftriet_ly_giao_duc_va_hoa_binh_cua_maria_montessori_va_goi_mo.pdf