Major factors impacting the operational efficiency of scientific working groups

Abstract: The operational efficiency of scientific working groups is considered an

important determinant of the success of scientific, technological and training activities of

any educational institution. This study determines the major factors impacting the

operational efficiency of scientific working groups. Survey results of 126 scientists of the

scientific working groups show that research teammates, research orientation and

cooperation, supporting policies of educational institutions are the major factors

impacting operational efficiency of scientific working groups. Based on the research

results, several solutions to improve effectiveness of science, technology and training

activities of scientific working groups are proposed.

pdf 10 trang yennguyen 2380
Bạn đang xem tài liệu "Major factors impacting the operational efficiency of scientific working groups", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Major factors impacting the operational efficiency of scientific working groups

Major factors impacting the operational efficiency of scientific working groups
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 
55 
Original Article 
Major Factors Impacting the Operational Efficiency 
of Scientific Working Groups 
Nguyen Thi Thu Ha1,2, Bui Minh Duc3, Nguyen Dinh Duc4,* 
1Department of Social and Natural Sciences, Ministry of Science and Technology of Vietnam, 
113 Tran Duy Hung, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
2VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam 
3VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam 
4Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 02 January 2019 
Revised 28 February 2019; Accepted 13 March 2019 
Abstract: The operational efficiency of scientific working groups is considered an 
important determinant of the success of scientific, technological and training activities of 
any educational institution. This study determines the major factors impacting the 
operational efficiency of scientific working groups. Survey results of 126 scientists of the 
scientific working groups show that research teammates, research orientation and 
cooperation, supporting policies of educational institutions are the major factors 
impacting operational efficiency of scientific working groups. Based on the research 
results, several solutions to improve effectiveness of science, technology and training 
activities of scientific working groups are proposed. 
Keywords: Scientific working group (SWG), impact factors, effectiveness of SWG. 
*
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: ducnd@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4214 
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 
56 
Một số nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả hoạt động 
của các nhóm nghiên cứu 
Nguyễn Thị Thu Hà1,2, Bùi Minh Đức3, Nguyễn Đình Đức4,* 
1Vụ Khoa học Xã hội Nhân văn và Tự nhiên và Xã hội, Bộ Khoa học Công nghệ, 
113 Trần Duy Hưng, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
2Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam 
3Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam 
4Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 02 tháng 01 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 02 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 13 tháng 3 năm 2019 
Tóm tắt: Hiệu quả hoạt động của các nhóm nghiên cứu được xem là yếu tố quan trọng 
quyết định quyết định cho sự thành công của các hoạt động khoa học công nghệ cũng như 
đào tạo của bất kỳ cơ quan tổ chức giáo dục nào. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác 
định các nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả hoạt động của các nhóm nghiên cứu. Kết 
quả khảo sát 126 thành viên của các nhóm nghiên cứu đã cho thấy các nhân tố: Con 
người, Định hướng nghiên cứu và hợp tác của nhóm, Chính sách hỗ trợ của đơn vị đào 
tạo là những nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả hoạt động của các nhóm nghiên cứu. 
Dựa trên những kết quả thu được, một số giải pháp đã được đề xuất nhằm nâng cao hiệu 
quả hoạt động khoa học và công nghệ và đào tạo của các nhóm nghiên cứu. 
Từ khóa: Nhóm nghiên cứu; các nhân tố tác động; hiệu quả hoạt động khoa học 
công nghệ. 
1. Đặt vấn đề * 
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng 
sâu rộng và sự bùng nổ của cuộc cách mạng 
công nghiệp 4.0 tạo ra rất nhiều cơ hội nhưng 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: ducnd@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4214 
cũng là thách thức không nhỏ đối với mỗi quốc 
gia, khoa học và công nghệ đóng vai trò quan 
trọng trong việc thúc đẩy phát triển sự kinh tế, 
xã hội của đất nước. Xu hướng phát triển các 
nhóm nghiên cứu có thể coi là một trong những 
giải pháp hàng đầu giúp tạo ra tri thức và 
chuyển giao công nghệ nhanh chóng. 
Nhóm nghiên cứu nghiên cứu là một tập thể 
nghiên cứu/hoạt động khoa học được thành lập 
N.T.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 57 
một cách tự nguyện hay theo ý đồ phát triển của 
tổ chức (những không phải là một đơn vị hành 
chính) [1]. Mô hình nhóm nghiên cứu đã có từ 
lâu trong các trường đại học trên thế giới và 
đang được phát triển ở Việt Nam trong giai 
đoạn hiện nay. Các nhóm nghiên cứu được hình 
thành với vai trò là xương sống của hoạt động 
khoa học và công nghệ và hoạt động đào tạo 
trong các trường đại học. 
Thực tế cho thấy, những đề tài nghiên cứu 
khoa học lớn có tính liên ngành cao như đề tài 
cấp Nhà nước, đề tài trọng điểm cấp Bộ/cấp Đại 
học Quốc gia đều được thực hiện bởi các nhóm 
nghiên cứu, thay vì các nghiên cứu cá nhân độc 
lập [2]. Vì chỉ có các nhóm nghiên cứu đủ 
mạnh mới đủ sức giải quyết được những vấn đề 
khoa học đỉnh cao và các nhiệm vụ khoa học và 
công nghệ trọng điểm tầm quốc gia, quốc tế, tạo 
ra những sản phẩm những sản phẩm nghiên cứu 
xuất sắc. Chính vì vậy, để nhóm nghiên cứu 
phát huy được vai trò của mình trong việc phát 
triển tiềm lực khoa học và công nghệ, triển khai 
các nghiên cứu đỉnh cao, tạo động lực gia tăng 
các giá trị khoa học và công nghệ của mỗi đơn 
vị thì các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt 
động của các nhóm nghiên cứu cần được quan 
tâm và đầu tư đúng mực. 
Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu này 
được thực hiện nhằm xác định các nhân tố chủ 
yếu tác động đến hiệu quả hoạt động của các 
nhóm nghiên cứu, trên cơ sở đó đề xuất một số 
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu 
quả hoạt động của các nhóm nghiên cứu. 
2. Cơ sở lý luận 
Nobahar cùng các cộng sự (2014) đã nghiên 
cứu về các rào cản và thách thức nghiên cứu 
trong các trường đại học dưới góc nhìn của các 
giảng viên ở Kermanshah. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy có 6 yếu tố rào cản chính ảnh hưởng 
đến sự liên kết giữa các giảng viên trong nghiên 
cứu khoa học bao gồm: tài chính, học thuật, con 
người, cơ sở, chuyên môn và quản lý trong đó 
rào cản về tài chính tạo ra sự khác biệt lớn nhất. 
Nhóm tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm 
nâng cao hiệu quả nhóm nghiên cứu bao gồm: 
tăng cường sử dụng kết quả nghiên cứu trong 
các trường đại học, viện và khoa, tăng sự chú ý 
với những sinh viên, nhà nghiên cứu tài năng, 
tăng kinh phí cho các nhà nghiên cứu, tăng 
cường trang thiết bị và phương tiện cần thiết tại 
các trường đại học, tăng cường thông tin liên 
lạc, kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp; 
giảm thủ tục hành chính; tăng sự chú ý về đạo 
đức trong hoạt động nghiên cứu và quan trọng 
nhất là tăng cường nghiên cứu nhóm [3]. 
Tác giả Main (2008) đã chỉ ra 3 nhân tố 
chính là rào cản trong việc hình thành và phát 
triển nhóm nghiên cứu tại trường đại học, gồm: 
Nhân tố cá nhân, nhân tố nhóm và nhân tố 
thuộc nhà trường, trong đó (1) những nhân tố cá 
nhân bao gồm: thái độ tích cực, giáo viên có 
nhiều kinh nghiệm nghiên cứu, tuyển chọn giáo 
viên, đào tạo trong nhóm, công nhận lợi ích của 
nhóm, kỹ năng quản trị xung đột, nhận được sự 
hỗ trợ từ phía quản lý, kỹ năng thiết lập mối 
quan hệ, tự đánh giá và nhóm đánh giá. (2) 
Những nhân tố của nhóm bao gồm: hiểu được 
quá trình làm việc nhóm bao gồm quy tắc của 
nhóm, mục tiêu của nhóm, vai trò của nhóm, 
thời gian lên kế hoạch chung, cách giao tiếp và 
nghi thức khi họp nhóm, và sự ổn định của các 
thành viên và (3) những nhân tố thuộc nhà 
trường bao gồm: cơ sở vật chất, thói quen và 
truyền thống trong hợp tác nhóm, nhóm nhận 
được ủng hộ và hỗ trợ của quản lý, và sự ổn 
định của nhân viên [4]. 
Nghiên cứu của Bland và Ruffin (1992) đã 
chỉ ra 12 yếu tố tác động trực tiếp đến hiệu quả 
hoạt động của nhóm nghiên cứu là: (1) mục tiêu 
rõ ràng; (2) tập trung cho nghiên cứu; (3) văn 
hóa của tổ chức; (4) môi trường tích cực của 
nhóm nghiên cứu; (5) sự tác động của các bộ 
phận hành chính; (6) cách thức tổ chức nghiên 
cứu; (7) sự trao đổi thường xuyên, trực tiếp với 
nhau trong nhóm; (8) nguồn nhân lực; (9) quy 
mô, độ tuổi và tính đa dạng của nhóm NC; (10) 
các khen thưởng khích lệ; (11) khả năng tuyển 
và lựa chọn thành viên và (12) người lãnh đạo 
có năng lực nghiên cứu và kỹ năng quản lý xuất 
sắc [5]. 
N.T.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 
58 
Theo tác giả Trương Quang Học, nhóm 
nghiên cứu phải được đẫn dắt bởi người trưởng 
nhóm nhiệt tâm, chịu trách nhiệm chính về định 
hướng nghiên cứu, có năng lực chuyên môn, có 
khả năng tổ chức (bao gồm cả khả năng tạo 
dựng các mối quan hệ, tìm kiếm nguồn kinh phí 
hoạt động cho nhóm và được cả nhóm tín 
nhiệm). Các thành viên của nhóm nghiên cứu là 
các cán bộ khoa học có nhiệt huyết và khả 
năng, các nghiên cứu sinh, sinh viên cùng 
theo đuổi một hướng khoa học nhất định. Nhóm 
NC có đủ các điều kiện cơ bản bao gồm nơi làm 
việc, trang thiết bị, thông tin, tư liệu và kinh 
phí để đảm bảo cho các hoạt động nghiên 
cứu thành công một cách liên tục và dài hạn [1]. 
Tác giả Đặng Hùng Thắng đã xác định công 
thức để dẫn đến thành công trong nghiên cứu 
khoa học đó là: Năng lực nghiên cứu + Động lực 
nghiên cứu + Môi trường nghiên cứu tốt = Thành 
công trong nghiên cứu khoa học [6]. Nếu coi năng 
lực nghiên cứu là điều kiện cần thì động lực 
nghiên cứu chính là điều kiện đủ. Nếu không có 
động lực nghiên cứu thì năng lực nghiên cứu sẽ 
không được kích hoạt, ngủ yên ở dạng tiềm năng. 
Có động lực nghiên cứu thì mới thúc đẩy nghiên 
cứu. Động lực càng mạnh mẽ thì năng lực nghiên 
cứu càng được phát huy tốt. 
Các nhân tố tác động 
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đó, 
nhóm tác giả đã đề xuất 3 nhân tố chủ yếu tác 
động tới hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên 
cứu bao gồm: (i) Nhân tố con người (vai trò của 
người trưởng nhóm, năng lực và hoài bão của 
các thành viên, sự phối hợp, tương trợ giữa các 
thành viên, v.v); (ii) Định hướng nghiên cứu 
và hợp tác của nhóm; (iii) Các chính sách hỗ trợ 
của đơn vị đào tạo. Trong quá trình khảo sát, 
phân tích nghiên cứu, các nhân tố trên được coi 
là biến độc lập, và được giả định là các nhân tố 
tác động đến hiệu quả hoạt động của nhóm 
nghiên cứu đồng thời cũng là cơ sở để đề xuất 
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt 
động của các nhóm nghiên cứu. 
Hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên cứu 
Khi nói đến hiệu quả, người ta hay nói đến 
mối tương quan giữa đầu vào và đầu ra. Tuy 
nhiên, trong khoa học thì đầu vào và đầu ra là 
một nội dung khó xác định khó xác định giống 
hiệu quả kinh tế của một dịch vụ có thể quy ra 
thành lợi nhuận. Vì vậy, khi xác định hiệu quả 
của khoa học, thường người ta có xu hướng 
“giản dị hoá” nó bằng cách “đánh giá tác động 
của khoa học tới các lĩnh vực khác nhau trong 
nền kinh tế và trong xã hội” [7]. Hiệu quả hoạt 
động của nhóm nghiên cứu được đề xuất bao 
gồm 8 nội dung: 
- 1. Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học 
và công nghệ, đào tạo của đơn vị; 
- 2. Nâng cao chất lượng luận án tiến sĩ; 
- 3. Tăng cường số lượng và chất lượng 
công bố khoa học/phát minh/sáng chế của 
đơn vị; 
- 4. Tăng cơ hội đạt được nguồn tài trợ từ 
các Quỹ hỗ trợ nghiên cứu trong và ngoài nước 
cho hoạt động nghiên cứu và đào tạo của 
Nhà trường; 
- 5. Nâng cao vị thế, uy tín và xếp hạng của 
đơn vị; 
- 6. Nâng cao chất lượng đội ngũ (thông qua 
đào tạo NCS và công bố quốc tế; tăng chất 
lượng và số lượng TS, GS, PGS của đơn vị); 
- 7. Đảm bảo nghiên cứu chất lượng cao để 
củng cố và tăng cường chất lượng các chương 
trình đào tạo của trường đại học cũng như mở 
ngành mới; 
- 8. Đẩy mạnh sự gắn kết giữa Nhà trường 
và xã hội và cộng đồng khoa học trong và ngoài 
nước thông qua hoạt động đào tạo, nghiên cứu 
và chuyển giao công nghệ. 
Trong quá trình khảo sát, phân tích, các nội 
dung kể trên được xem là biến số phụ thuộc, là 
kết quả tác động của các nhân tố thành phần 
liên quan. 
Mô hình lý thuyết đề xuất (Hình 1) 
Các giả thuyết nghiên cứu: 
- H1. Nhân tố con người có tương quan 
tuyến tính thuận với hiệu quả hoạt động của 
nhóm nghiên cứu. 
- H2. Định hướng nghiên cứu và hợp tác 
phát triển có tương quan tuyến tính thuận với 
hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên cứu. 
- H3. Các chính sách hỗ trợ của đơn vị đào 
tạo có tương quan tuyến tính thuận với hiệu quả 
hoạt động của nhóm nghiên cứu. 
N.T.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 59 
Hình 1. Mô hình lý thuyết đề xuất.
3. Phương pháp nghiên cứu 
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra 
và làm sáng tỏ các giả thuyết nghiên cứu, 
phương pháp nghiên cứu định lượng đã được sử 
dụng. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn bằng cách 
chọn mẫu thuận tiện phi xác suất gồm 126 nhà 
khoa học là thành viên của các nhóm nghiên 
cứu thuộc 40 trường đại học trên phạm vi cả 
nước. Công cụ chính để thu thập dữ liệu là bảng 
hỏi được thiết kế sẵn nhằm thu thập các thông 
tin về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng và 
hiệu quả của các nhóm nghiên cứu. Các ý kiến 
đánh giá được đo lường dựa trên thang đo 
Likert 5 cấp độ từ 1 đến 5. 
Với phương pháp như trên, nhóm tác giả đã 
tiến hành điều tra khảo sát từ tháng 8 đến tháng 
12/2018. Các phiếu khảo sát được thực hiện 
online và gửi đi trong toàn quốc. Dữ liệu sau 
khi thu thập được tiến hành nhập, mã hóa, làm 
sạch và xử lý trên phần mềm SPSS version 22. 
Thang đo các nhân tố và thang đo tổng thể 
được đánh giá thông qua việc sử dụng hệ số tin 
cậy Cronbach Alpha. Thang đo tin cậy khi có 
hệ số Cronbach Alpha lớn hơn 0,6 và hệ số 
tương quan biến tổng lớn hơn 0,3. Kết quả 
nghiên cứu hệ số Cronbach Alpha với các chỉ 
báo thành phần của thang đo đều có độ tin cậy 
đều lớn hơn 0,6. Cụ thể: (1) Nhân tố con người 
có Cronbach Alpha đạt giá trị 0,781; (2) Định 
hướng nghiên cứu và hợp tác có Cronbach 
Alpha đạt giá trị 0,753; (3) Các chính sách hỗ 
trợ của đơn vị đào tạo có Cronbach Alpha đạt 
giá trị là 0,878. Như vậy, thang đo được thiết kế 
trong nghiên cứu này có ý nghĩa thống kê và đạt 
được hệ số tin cậy cần thiết. 
Sử dụng phương pháp phân tích nhân tố 
EFA (Exploratory Factor Analysis) để kiểm 
định giá trị của thang đo. Tiến hành loại các 
biến số có trọng số nhân tố (Factor loading) nhỏ 
hơn 0,5 và tổng phương sai trích lớn hơn hoặc 
bằng 50% . 
Cuối cùng tiến hành kiểm định tự tương 
quan Durbin Watson và phân tích hồi quy tuyến 
tính bội để kiểm định mô hình và các giả thuyết 
nghiên cứu. 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Mô tả mẫu nghiên cứu 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu được phân loại 
thành 4 nhóm gồm (1) Trình độ, (2) Quy mô 
nhóm nghiên cứu, (3) Lĩnh vực nghiên cứu của 
nhóm và (4) Vai trò trong nhóm Nghiên cứu. 
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu cụ thể chi tiết 
trong Bảng 1 như sau: 
Nhân tố con người 
Định hướng nghiên cứu 
và hợp tác 
Chính sách hỗ trợ của 
đơn vị đào tạo 
Hiệu quả hoạt 
động của nhóm 
nghiên cứu 
N.T.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 
60 
Bảng 1. Mô tả mẫu nghiên cứu 
Biến Thuộc tính 
Trình độ GS=4,7%; PGS =40%; TS/TSKH 
= 44,6%; Thạc sĩ = 9,8%; Đại học 
0.9% 
Quy mô nhóm 
nghiên cứu 
Dưới 5 thành viên = 20,63%; Từ 
5-10 thành viên = 46,83%; Trên 10 
thành viên = 32,54% 
Lĩnh vực 
nghiên cứu 
của nhóm 
Khoa học tự nhiên = 31%; Khoa 
học kỹ thuật và công nghệ = 
30,2%; Khoa học xã hội và nhân 
văn = 19%; Luật/kinh tế = 7,1%; 
Lĩnh vực khác 12,7% 
Vai trò trong 
nhóm nghiên 
cứu 
Trưởng nhóm = 28,57%; Thành 
viên chính = 61,11%; Cộng tác 
viên = 10,32% 
4.2. Kiểm định mô hình và giả thuyết 
nghiên cứu 
Tiến hành phân tích hồi quy để xác định cụ 
thể trọng số của từng nhân tố thành phần tác 
động đến hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên 
cứu. Giá trị của các nhân tố thành phần được 
dùng để chạy hồi quy là giá trị trung bình của 
các biến chỉ báo đã được kiểm định. 
Hình dạng của phương trình: 
1 1 2 2 3 3Y X X X   
Trong đó, Y đại diện cho biến phụ thuộc (là 
hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên cứu), 1X , 
2X , 3X đại diện thị cho các biến độc lập ( 1X 
là biến đại diện cho nhân tố Con người, 2X là 
nhân tố Định hướng nghiên cứu và hợp tác của 
nhóm và 3X là Chính sách hỗ trợ của đơn vị 
đào tạo). 1 , 2 , 3 là các hệ số hồi quy riêng 
Kết quả kiểm định mô hình hồi quy giữa 
các nhân tố thành phần tác động đến hiệu quả 
hoạt động của nhóm nghiên cứu được thể hiện 
qua hệ thống các bảng sau: 
Trị số R có giá trị = 0,739 cho thấy mối 
quan hệ giữa các biến trong mô hình có mối 
tương quan rất chặt chẽ. Trị số 
2R hiệu chỉnh 
phản ánh mức độ ảnh hưởng của các biến độc 
lập lên biến phụ thuộc. Báo cáo kết quả hồi quy 
của mô hình cho thấy giá trị 
2R hiệu chỉnh 
bằng 0,535 hay nói cách khác 53,5% sự biến 
thiên của biến Hiệu quả hoạt động của nhóm 
nghiên cứu được giải thích bởi 3 nhân tố thành 
phần và 46,5% còn lại là do các biến khác ngoài 
mô hình và sai số ngẫu nhiên. 
Hệ số Durbin Watson dùng để kiểm định tự 
tương quan của các sai số kề nhau (hay còn gọi 
là tương quan chuỗi bậc nhất). Kết quả cho thấy 
giá trị Durbin Watson = 1,981 (nằm trong 
khoảng cho phép từ 1 đến 3) suy ra mô hình 
không vi phạm khi sử dụng phương pháp hồi 
quy bội vì và chấp nhận giả thuyết không có sự 
tương quan chuỗi bậc nhất trong mô hình. Như 
vậy, mô hình hồi quy bội thỏa mãn các điều 
kiện đánh giá và kiểm định độ phù hợp cho việc 
rút ra các kết quả nghiên cứu. 
Phân tích phương sai ANOVA cho thấy giá 
trị (Sig.) của kiểm định F = 0,000 (nhỏ hơn 
0,05), có nghĩa là mô hình hồi quy phù hợp với 
tổng thể (Bảng 3). 
Kết quả phân tích các hệ số hồi qui trong 
mô hình cho thấy, giá trị (Sig.) của các nhân tố 
thành phần đều nhỏ hơn 0,05 do đó chúng đều 
có nghĩa trong mô hình. Mặt khác do có hệ số 
hồi quy đều có giá trị dương nên các nhân tố 
thành phần tương quan tuyến tính thuận đến 
hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên cứu 
(Bảng 4). 
Bảng 2. Kết quả phân tích hồi quy 
Mô hình R 2R 
2R hiệu chỉnh 
Sai số chuẩn của ước 
lượng 
Durbin-Watson 
1 0,739a 0,546 0,535 0,376 1,981 
a. Các yếu tố dự báo, (Hằng số), ConNguoi, DinhHuong, ChinhSach; 
b. Biến phụ thuộc: HieuQua 
N.T.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 61 
d
Bảng 3. Phân tích phương sai ANOVA 
Mô hình Tổng bình phương Bậc tự do 
Trung bình 
bình phương 
F 
Mức ý nghĩa 
(Sig.) 
1 
Hồi quy 20,729 3 6,910 48,930 0,000b 
Phần dư 17,228 122 0,141 
Tổng 37,956 125 
a. Biến phụ thuộc: HieuQua 
b. Các yếu tố dự báo: (Hằng số), ConNguoi, ChinhSach, DinhHuong 
Bảng 4. Các hệ số hồi quy trong mô hình 
Mô hình Các hệ số chưa 
chuẩn hóa 
Các hệ số 
chuẩn hóa 
t 
Mức ý 
nghĩa 
(Sig.) 
Thống kê đa cộng tuyến 
B 
Độ lệch 
chuẩn 
Beta Dung sai VIF 
1 
(Hằng số) 0,114 0,372 0,306 0,000 
ChinhSach 0,379 0,073 0,393 5,209 0,000 0,652 1,533 
DinhHuong 0,271 0,093 0,248 2,928 0,004 0,518 1,929 
ConNguoi 0,298 0,109 0,230 2,728 0,007 0,523 1,912 
a. Biến phụ thuộc: HieuQua 
Đại lượng kiểm hiện tượng đa cộng tuyến 
với hệ số phóng đại phương sai VIF (Variance 
Inflation Factor) đều nhỏ hơn 2, thể hiện tính đa 
cộng tuyến của các biến độc lập là không đáng 
kể và các biến độc lập trong mô hình đều chấp 
nhận được. 
Từ những phân tích trên ta có thể kết luận 
mô hình lý thuyết thích hợp với dữ liệu nghiên 
cứu và các giả thuyết nghiên cứu được chấp nhận. 
Có thể viết lại phương trình hồi quy như sau: 
Hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên cứu = 
0,23* Con người 
+ 0,248 * Định hướng nghiên cứu và hợp 
tác + 0,393 Chính sách hỗ trợ 
Kết quả kiểm định mô hình lý thuyết được 
minh họa qua hình 2 dưới đây. 
p 
Hình 2. Kết quả mô hình nghiên cứu. 
0,23 
 0,248 
 0,393 
Nhân tố con người 
Định hướng nghiên 
cứu và hợp tác 
Hiệu quả hoạt 
động của nhóm 
nghiên cứu 
Chính sách hỗ trợ 
của đơn vị 
N.T.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 
62 
Qua kết quả phân tích, ta thấy được mức độ 
tác động của các nhân tố đến hiệu quả hoạt 
động của nhóm nghiên cứu phụ thuộc vào giá 
trị của hệ số hồi quy đã chuẩn hóa. Nhân tố nào 
có hệ số hồi quy càng lớn thì tác động đến hiệu 
quả hoạt động của nhóm nghiên cứu càng 
nhiều. Do đó, có thể kết luận rằng hiệu quả hoạt 
động của nhóm nghiên cứu chịu tác động nhiều 
nhất từ chính sách hỗ trợ của đơn vị đào tạo 
(Beta = 0,393); thứ hai là định hướng nghiên 
cứu và hợp tác của nhóm (Beta = 0,248) và cuối 
cùng là nhân tố con người (Beta = 0,23). 
5. Bàn luận 
Kết quả nghiên cứu cho thấy chính sách hỗ 
trợ nhóm nghiên cứu của đơn vị đào tạo là nhân 
tố có tác động nhiều nhất đến hiệu quả hoạt 
động của các nhóm nghiên cứu. Đối với bất kỳ 
nhóm nghiên cứu khoa học nào trong các 
trường đại học hoặc đơn vị nghiên cứu thì vai 
trò quản lý cũng như các chính sách hỗ trợ của 
các đơn vị có vai trò không nhỏ trong sự thành 
công của các nhóm nghiên cứu. Trong bối cảnh 
cần đẩy mạnh các công trình nghiên cứu khoa 
học có chất lượng, công bố quốc tế cũng như 
tăng nhanh các sáng chế, sản phẩm khoa học 
công nghệ, thì việc quan tâm đầu tư về cơ sở 
vật chất, trang thiết bị hiện đại, đẩy mạnh hỗ trợ 
về cơ sở dữ liệu và thông tin khoa học, tạo môi 
trường nghiên cứu tốt theo các chuẩn mực quốc 
tế đối với các nhóm nghiên cứu có ý nghĩa cực 
kỳ quan trọng để thúc đẩy sự thành công của 
hoạt động khoa học công nghệ cũng như nâng 
cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Mặt 
khác cũng cần quan tâm đến việc bồi dưỡng bổ 
sung nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút 
được những nhà khoa học có năng lực nghiên 
cứu tốt, đặc biệt là postdoc, thu hút được nghiên 
cứu sinh - lực lượng trẻ, nhiệt tình, nhiều ý 
tưởng và động lực nghiên cứu - đến tham gia và 
làm việc trong các nhóm nghiên cứu. Không 
phải bỗng chốc có nhà khoa học đầu ngành, mà 
các nhà khoa học phải được quy hoạch, được 
đào tạo và bồi dưỡng, phải có thời gian để 
trưởng thành [8]. Việc thu hút nghiên cứu sinh 
tham gia vào các nhóm nghiên cứu, gắn kết 
nghiên cứu khoa học với đào tạo tiến sĩ là một 
xu thế tất yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt 
động khoa học công nghệ cũng như đào tạo 
nguồn nhân lực trình độ cao. Nghiên cứu khoa 
học là một trong những nhân tố quyết định đến 
chất lượng đào tạo tiến sĩ và ngược lại, chương 
trình đào tạo tiến sĩ sẽ đặt ra những vấn đề mà 
hoạt động nghiên cứu khoa học phải đáp ứng. 
Sự tích hợp giữa nghiên cứu khoa học và đào 
tạo tiến sĩ sẽ tạo ra lợi ích kép, là một mũi tên 
bắn trúng nhiều đích [6]. 
Định hướng nghiên cứu và hợp tác của 
nhóm là thành phần thứ hai có tác động không 
nhỏ đến hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên 
cứu khẳng định vai trò của định hướng khoa 
học đúng, phù hợp với xu hướng quốc tế và 
phục vụ thiết thực cho sự phát triển của đất 
nước của các nhóm nghiên cứu trong giai đoạn 
hiện nay. Thực tế hiện nay cũng cho thấy nhiều 
đề tài và công trình có giá trị được bắt nguồn từ 
quá trình hợp tác quốc tế. Sự quan tâm của các 
nhà khoa học quốc tế trong nhóm giống như 
phép thử trong việc xác định vấn đề nghiên cứu 
của nhóm có phù hợp với sự quan tâm của cộng 
đồng khoa học quốc tế, có ý nghĩa khoa học 
quốc tế hay không. Đồng thời, những góp ý của 
họ trong quá trình thiết kế nghiên cứu có thể 
giúp các nghiên cứu của nhóm tiệm cận với các 
chuẩn mực quốc tế cả về mặt thể thức cũng như 
nội dung [9]. Không những thế thế, hợp tác với 
các đối tác nước ngoài có thể giúp các thành 
viên trong nhóm nghiên cứu có cơ hội học tập 
và cập nhật được phương hướng và phong cách 
nghiên cứu khoa học tại các nước tiên tiến trên 
thế giới, nâng cao trình độ chuyên môn và 
ngoại ngữ. Cũng không thể không kể đến tầm 
quan trọng của mối quan hệ hợp tác giữa các 
nhóm nghiên cứu và doanh nghiệp. Điều này sẽ 
giúp các nhóm nghiên cứu thu hút nguồn lực 
cho nghiên cứu và xác định rõ địa chỉ ứng dụng 
cho các công trình nghiên cứu của nhóm. 
Nhân tố thứ ba tác động đến hiệu quả của 
nhóm nghiên cứu là yếu tố con người. Đây 
cũng là nhân tố không thể không quan tâm 
trong quá trình xây dựng và phát triển nhóm 
nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu muốn duy trì và 
N.T.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 63 
phát triển thì cần phải được dẫn dắt bởi những 
nhà khoa học có trình độ chuyên môn và năng 
lực nghiên cứu, có định hướng chiến lược lâu 
dài cho sự phát triển của nhóm, mở ra những 
hướng nghiên cứu triển vọng tiếp theo, có đủ uy 
tín để đăng ký chủ trì các đề tài khoa học lớn, 
kêu gọi và huy động các nguồn tài trợ đầu tư về 
cơ sở vật chất, trang thiết bị đủ hiện đại để thực 
hiện những nghiên cứu đỉnh cao của nhóm. Bên 
cạnh đó, người trưởng nhóm phải có khả năng 
tập hợp được đội ngũ các nhà khoa học có nhiệt 
huyết và hoài bão khoa học, nhất là các cán bộ 
khoa học trẻ; đồng thời xây dựng và phát huy 
năng lực của tập thể, kết nối và dẫn dắt thành 
viên tạo sự đoàn kết gắn bó trong mọi hoạt 
động nghiên cứu của nhóm. 
6. Kết luận 
Kết quả khảo sát, phân tích và bàn luận đã 
cho thấy những nhân tố chủ yếu tác động đến 
chất lượng và hiệu quả hoạt động của các nhóm 
NC theo mức độ quan trọng giảm dần đó là: (1) 
Chính sách hỗ trợ của đơn vị đào tạo; (2) Định 
hướng nghiên cứu và hợp tác của nhóm; (3) 
Nhân tố con người. Do đó các giải pháp, chính 
sách nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động 
của nhóm nghiên cứu cũng cần ưu tiên thực 
hiện theo thứ tự này. Trên quan điểm đó, nhóm 
tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao 
chất lượng và hiệu quả hoạt động của nhóm 
nghiên cứu như sau: 
i) Cần có chính sách thỏa đáng đầu tư cho 
nhóm nghiên cứu về cơ sở vật chất, trang thiết 
bị nghiên cứu, đẩy mạnh hỗ trợ về cơ sở dữ liệu 
và thông tin khoa học cho các nhà khoa học; tạo 
cơ chế đặt hàng nghiên cứu và có nguồn kinh 
phí thường xuyên đảm bảo hoạt động đối với 
các nhóm nghiên cứu. 
ii) Cần quan tâm bồi dưỡng bổ sung nguồn 
nhân lực chất lượng cao, chú trọng đến công tác 
đào tạo, phát triển các nhà khoa học trẻ làm đội 
ngũ kế cận trong tương lai, thu hút được những 
nhà khoa học có năng lực nghiên cứu tốt, thu 
hút được nghiên cứu sinh tham gia vào các 
nhóm nghiên cứu, gắn kết nghiên cứu khoa học 
với đào tạo tiến sĩ thông qua các nhóm nghiên 
cứu, có chính sách khen thưởng, tạo động lực 
cho các nhà khoa học có thành tích nghiên cứu 
xuất sắc. 
iii) Nhóm nghiên cứu phải xây dựng được 
định hướng khoa học đúng đắn, phù hợp với xu 
hướng quốc tế và phục vụ thiết thực cho sự phát 
triển của đất nước. Đồng thời phải tăng cường 
hoạt động chuyển giao tri thức với các doanh 
nghiệp và địa phương, hợp tác với các đối tác 
trong nước và quốc tế. 
iv) Nhóm nghiên cứu phải có người đứng 
đầu, có uy tín, trình độ khoa học, năng lực tổ 
chức và nhiệt huyết với khoa học. Ngoài ra phải 
là người hoạch định được chiến lược lâu dài và 
định hướng nghiên cứu cho sự phát triển của 
nhóm. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu phải tập 
hợp được đội ngũ các nhà khoa học có nhiệt 
huyết và hoài bão khoa học, nhất là các cán bộ 
khoa học trẻ; đồng thời xây dựng và phát huy 
năng lực của tập thể, tạo sự đoàn kết gắn bó 
trong mọi hoạt động nghiên cứu của nhóm. 
Lời cảm ơn 
 Nghiên cứu được tài trợ bởi Chương trình 
Khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 
2016-2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học 
giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn 
diện nền giáo dục Việt Nam” trong khuôn khổ 
đề tài mã số KHGD/16-20.ĐT.032. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trương Quang Học, Xây dựng nhóm nghiên cứu: 
Kinh nghiệm quốc tế. Truy cập từ 
dung-nhom-nghien-cuu-kinh-nghiem-quoc-te-
7532, 2014. 
[2] Đào Minh Quân, Thực trạng và một số biện pháp 
xây dựng, phát triển nhóm nghiên cứu mạnh ở 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 
Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Khoa học Đại 
học Quốc gia Hà Nội: Nghiên cứu Chính sách và 
Quản lý. 32(4) (2016) 25-40. 
[3] Nobahar, Nasim, Nobahar, Masoomeh, & Hamidi, 
Mohsen, Investigation of research barriers and 
challenges in university from the perspective of 
faculty members of Kermanshah city, IAU 
International Journal of Social Sciences. 4(4) 
(2014) 15-21. 
N.T.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 55-64 
64 
[4] Main, Katherine, Effective teaching teams: 
Facilitators and barriers, Australian Teacher 
Education Association. (2008) 1-10. 
[5] Bland, J. Carole, Characteristics of a productive 
research environment: Literature review, 
Academic medicine: Journal of the Association of 
American Medical Colleges. 67(6) (1992) 
385-397. 
[6] Nguyễn Hùng Thắng, Bốn giải pháp thúc đẩy nghiên 
cứu khoa học, Truy cập từ 
https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N17540/Bon-
giai-phap-thuc-day-nghien-cuu-khoa-hoc.htm, 2018. 
[7] Vũ Cao Đàm, Đánh giá nghiên cứu khoa học, 
NXB Khoa học Kỹ thuật, 2007. 
[8] Nguyễn Đình Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
Phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, Tạp chí 
Khoa học Công nghệ Việt Nam. 8 (2014) 44-47. 
[9] Đặng Hoàng Minh, Những lợi ích trong việc tham 
gia nhóm nghiên cứu có chuyên gia quốc tế, Truy 
cập từ 
hoc/Nhung-loi-ich-trong-viec-tham-gia-nhom-
nghien-cuu-co-chuyen-gia-quoc-te-9701, 2016. 

File đính kèm:

  • pdfmajor_factors_impacting_the_operational_efficiency_of_scient.pdf