Tỷ số vàng và dãy số Fibonacci

Hình chữ nhật vàng, tỷ số vàng, và dãy số Fibonacci là những vấn đề Toán học được biết tới từ lâu trong

giới học sinh Trung Học và sinh viên Đại học. Nay tôi viết lại một cách có hệ thống theo lời yêu cầu của

một số số các bạn đọc. Với trình độ Toán năm cuối Trung học độc giả có thể đọc được nội dung bài viết.

Ước mong bài viết có ích cho các độc giả ham thích Toán và cung cấp thêm một số tài liệu cho các giáo

viên Toán phục vụ công tác giảng dạy

pdf 24 trang yennguyen 5640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tỷ số vàng và dãy số Fibonacci", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ số vàng và dãy số Fibonacci

Tỷ số vàng và dãy số Fibonacci
1 
Tỷ Số Vàng và Dãy Số Fibonacci 
 Lê Quang Ánh, Ph.D. 
Hình chữ nhật vàng, tỷ số vàng, và dãy số Fibonacci là những vấn đề Toán học được biết tới từ lâu trong 
giới học sinh Trung Học và sinh viên Đại học. Nay tôi viết lại một cách có hệ thống theo lời yêu cầu của 
một số số các bạn đọc. Với trình độ Toán năm cuối Trung học độc giả có thể đọc được nội dung bài viết. 
Ước mong bài viết có ích cho các độc giả ham thích Toán và cung cấp thêm một số tài liệu cho các giáo 
viên Toán phục vụ công tác giảng dạy. 
1. Tỷ số vàng 
Rõ ràng là có rất nhiều con số thú vị. Chẳng hạn như số 2, đó là số nguyên tố chẵn duy nhất; số 
3 là số nguyên tố lẻ đầu tiên; số 6 là một số hoàn hảo (bằng tổng của tất cả các ước số thật sự 
của nó); số √2 là số vô tỷ được tìm thấy đầu tiên (Pythago).vân vân. 
Trong số những con số thú vị ấy có một con số có thể là thú vị nhất, đó là số 
1 + √5
2
Con số này được biết từ thời Hy Lạp cổ đại, nhưng người ta chưa biết hết tính chất của nó. 
Trong quá trình phát triển lịch sử Toán học, tính chất của con số này được phát hiện nhiều dần 
lên, đôi khi người ta thấy nó xuất hiện trong thiên nhiên nữa. Paccioli (1447 - 1517), nhà Toán 
học Ý, đặt tên nó là tỷ số thiêng liêng (proportion divina), Kepler (1571 - 1630), nhà Toán học và 
Thiên văn học Đức, người đầu tiên thấy nó trong thiên nhiên, gọi nó là con số thiêng liêng 
(sectio divina), Leonard de Vinci (1452 - 1519), một nghệ sĩ thiên tài và đa tài Ý, đặt tên cho nó 
là con số vàng (sectio aurea). 
Trước hết bắt đầu bằng một câu khá lạ của Euclid mà ta sẽ dùng để định con số đó: “Hãy chia 
một đoạn thẳng theo tỷ số cực và tỷ số trung bình.” Ý ông muốn nói rằng hãy chia một đoạn 
thẳng thành hai phần sao cho tỷ số độ dài đoạn thẳng với độ dài đoạn lớn bằng tỷ số độ dài 
đoạn lớn với độ dài đoạn nhỏ. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
2 
Nói rõ hơn: chia một đoạn thẳng thành hai đoạn thẳng độ dài a và b với a > b sao cho các độ 
dài ấy thỏa điều kiện sau đây: 
𝑎+𝑏
𝑎
 = 
𝑎
𝑏
 . 
Đặt x = 
𝑎
𝑏
 , ta có 
1+ 
1
𝑥
 = x hay là x2 - x – 1 = 0. 
Nghiệm dương của phương trình này là 
φ = 
1+√5
2
 = 1.61803989 
được gọi là con số vàng. Nghiệm âm của phương trình là 
ψ = 
1−√5
2
 = - 0.61803989 
Ta chú ý thấy ngay rằng có vài hệ thức thú vị mà chúng ta sẽ xử dụng rải rác trong các phần sau: 
1. φ2 = φ + 1 
2. φ-1 = φ – 1 và ψ-1 = ψ - 1 
3. φ + ψ = 1 
4. φ ψ = - 1 
2. Tỷ số vàng trong Hình học 
 Hình chữ nhật vàng: 
Làm thế nào để xác định được tỷ số vàng ф bằng cách dùng phép dựng hình thông thường 
(thước kẻ và compa)? 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
3 
Ta bắt đầu bằng một hình vuông ABCD, chiều dài các cạnh bằng 1. Gọi E là trung điểm của cạnh 
CD. Vẻ đường tròn tâm E bán kính EB, đường tròn này cắt phần nối dài của DC (về phía C) tại 
điểm F. Khi ấy DF = φ = 
1+√5
2
 . Chứng minh: 
DE = EC = 
1
2
 , EB = EF = √𝐸𝐶2 + 𝐶𝐵2 = 
√5
2
 . 
DF = DE + EF = 
1
2
 + 
√5
2
 = 
1+√5
2
 = φ. □ 
Hãy vẽ đầy đủ hình chữ nhật ADFG. Chú ý thấy: 
𝑐ạ𝑛ℎ 𝑙ớ𝑛
𝑐ạ𝑛ℎ 𝑛ℎỏ
 = 
𝐷𝐹
𝐴𝐷
 = 
1+√5
2
 = φ. 
Người ta gọi hình chữ nhật mà tỷ số cạnh lớn trên cạnh nhỏ bằng φ là hình chữ nhật vàng. 
Trong hình vẽ trên, hình chữ nhật CFGB cũng là hình chữ nhật vàng. Thật vậy: 
CF = DF – DC = φ – 1 = φ-1 (hệ thức 2) 
và 
𝑐ạ𝑛ℎ 𝑙ớ𝑛
𝑐ạ𝑛ℎ 𝑛ℎỏ
 = 
𝐶𝐵
𝐶𝐹
 = φ. 
Nếu ta tiếp tục vẽ bên trong hình chữ nhật vàng CFGB hình vuông BGHI, ta sẽ được hình chữ 
nhật vàng ICFH. Và nếu cứ thế tiếp tục, ta sẽ được một dãy các hình chữ nhật vàng lồng vào 
nhau. 
Bây giờ ta vẽ cung tròn phần tư tâm ở C đi qua B và D, rồi tiếp tục vẽ cung tròn phần tư tâm ở I 
đi qua B và H,, và cứ thế tiếp tục. Ta sẽ được một đường cong có dạng một hình xoắn ốc. 
Đường cong này thường được gọi là đường xoắn ốc vàng hay đường xoắn ốc Fibonacci (tại sao 
có tên Fibonacci ta sẽ giải thích sau). 
Một số hình ảnh trong thiên nhiên có hình giống như đường cong trên: 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
4 
Người cổ Hy Lạp và La Mã đã biết xử dụng hình chữ nhật vàng trong xây dựng và kiến trúc như 
vài hình ảnh sau: 
Điện Parthenon ở Hy Lạp được xây vào khoảng 500 năm trước tây lịch. 
Khải Hoàn Môn Constantine (The Arch of Constantine) ở La Mã được xây vào năm 315 sau tây lịch. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
5 
 Tam giác vàng: 
Hãy xem một tam giác cân ABC, có góc ở đỉnh A bằng 36o (và như vậy hai góc ở đáy B và C bằng 
72o). Phân giác CX tạo ra trong tam gíac ABC một tam giác mới là CXB đồng dạng với tam giác 
ABC. Giả sử BC = x và XB =1. Khi đó 
XA = XC = CB = x . 
Sự đồng dạng của hai tam giác như đã nêu ra ở trên cho 
𝐵𝐶
𝑋𝐵
 = 
𝐴𝐵
𝐶𝑋
 hay là 
𝑥
1
 = 
1+𝑥
𝑥
 . 
Như vậy ta có 
x2 –x – 1 = 0. 
Nghiệm dương của phương trình này là φ = 
1+√5
2
 . Nói cách khác x = φ, tỷ số cạnh bên chia cho 
cạnh đáy của tam giác cân ABC (cân tại A) chính là tỷ số vàng, và tam giác ấy được gọi là tam 
giác vàng. Ta cũng nhận xét thấy tam giác CXB cũng là tam giác vàng. Trong tam giác cân XAC 
ta có 
đá𝑦
𝑐ạ𝑛ℎ
 = 
𝐴𝐶
𝐶𝑋
 = 
𝑥+1
𝑥
 = x = φ = 
1+√5
2
 . 
Tam giác loại này cũng được gọi là tam giác vàng. Để phân biệt ta gọi loại thứ nhất (như tam 
giác ABC) là loại tam giác vàng ốm (gầy), và loại thứ hai ( như tam giác XCA) là tam giác vàng 
mập. 
Tam giác vàng ốm và tam giác vàng mập. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
6 
 Ngũ giác đều và thập giác đều: 
Xem một ngũ giác đều ABCDE. Các đường chéo chia ngũ giác đều thành những tam giác vàng 
ốm và mập. Thí dụ như tam giác ABC là tam giác vàng mập, tam giác ACD là tam giác vàng ốm. 
Các đường chéo tạo bên trong ngũ giác một hình ngôi sao năm cánh. Nếu các cạnh của ngũ 
giác đều dài bằng 1 thì độ dài các đường chéo sẽ là số φ= 
1+√5
2
 . Còn thập giác đều được tạo 
thành bởi 10 tam giác vàng ốm. Nếu các cạnh của thập giác đều dài bằng 1 thì bán kính vòng 
tròn ngoại tiếp của nó là φ= 
1+√5
2
 . (Độc giả có thể kiểm chứng qua giá trị các góc). 
 Các đường xoắn ốc khác 
Trong phần trên ta đã giới thiệu đường xoắn ốc vàng. Bây giờ ta muốn giớ thiệu thêm vài 
đường xoắn ốc thú vị khác. Trước hết là đường xoắn ốc Theodorus1 hay còn gọi là đường xoắn 
ốc căn số. 
Ta bắt đầu bằng một tam giác vuông cân cạnh bằng 1. Vẽ một tam giác vuông khác với một 
cạnh góc góc vuông là cạnh huyền của tam giác vuông thứ nhất và cạnh góc vuông kia dài bằng 
1. Cứ thế tiếp tục. Đường xoắn ốc này không phải là một đường cong “trơn” (smooth curve) và 
cũng không liên quan gì đến con số vàng của chúng ta, nhưng nó gợi ý cho Matthew Oster – 
1 Theodorus of Cyrene là một nhà toán học cổ Hy Lạp sống vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước tây lịch. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
7 
hiện là giáo sư Toán Đại học Stockton, New Jersey – phát triển một đường xoắn ốc tương tự 
như đường xoắn ốc căn số nhưng lại có liên hệ tới con số vàng ф. 
Bên trên là một tam giác Kepler, bên dưới là Kim tự tháp lớn nhất của Ai Cập và mô hình thu nhỏ của nó. 
Trước hết ta giới thiệu một tam giác gọi tên là tam giác Kepler. Đó là tam giác vuông mà độ dài 
hai cạnh góc vuông và cạnh huyền tạo thành một cấp số nhân. Nếu một cạnh góc vuông là 1, 
cạnh góc vuông kia là a thì cạnh huyền là a2. Định lý Pythago cho 
a4 = a2 + 1. 
Do đó 
a2 = ф và a = √ф . 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
8 
Góc nhọn nhỏ ∝ trong tam giác Kepler thỏa hệ thức 
tan∝ = cos∝ = 
1
√ф
 và ∝ ≈ 38. 17o 
Như vậy mọi tam giác Kepler đồng dạng với tam giác vuông mà ba cạnh là 1, √ф , và ф. Người 
ta đã đo đạt và tìm thấy thiến diện chính của kim tự tháp lớn nhất ở Ai Cập là tam giác cân gồm 
hai tam vuông Kepler. Đây là chỉ dấu cho thấy số vàng ф đã được biết tới từ thời Ai Cập cổ đại. 
Để dựng đường xoắn ốc Oster, ta bắt đầu bằng một tam giác Kepler có các cạnh là 1, √ф , và ф. 
Tiếp đến là dựng tam giác Kepler đồng dạng với tam giác thứ nhất, tỷ số đồng dạng là √ф. Nói 
rõ hơn, các cạnh của tam giác thứ hai là √ф, ф, và ф√ф. Và cứ thế tiếp tục (xem hình trên). 
Cũng như đường xoắn ốc căn số, đường xoắn ốc Oster không trơn, tạo thành do các đoạn thẳng 
nối tiếp nhau, góc tương ứng ở tâm đều bằng nhau và bằng ∝. 
Toa độ cực (polar coordinates) của các đỉnh lần lượt là 
(ф
1
2, 0), (ф
2
2, ∝), (ф
3
2, 2 ∝), . 
Hay là 
(ф
𝑡+1
2 , 𝑡 ∝), t= 0,1,2,3,. 
Với 
𝜃 = t∝ và r = ф
𝑡+1
2 , 
Ta có phương trình của một xoắn ốc logarithm: 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
9 
r = f(𝜃) = √ф. ф
𝜃
2𝛼 . 
Dạng của đường xoắn ốc này như hình dưới đây 
3. Những biểu thức khác nhau của tỷ số vàng 
Ta nhắc lại rằng tỷ số vàng ф là nghiệm dương của phương trình: 
x2 – x – 1 = 0. (1) 
Ngoài ra ф thỏa một số hệ thức sau: 
1. φ2 = φ + 1 
2. φ-1 = φ – 1 và ψ-1 = ψ - 1 
3. φ + ψ = 1 
4. φ ψ = - 1, 
trong đó ψ là nghiệm âm của (1), và giá trị của ф và ψ được cho bởi: 
φ = 
1+√5
2
 = 1.61803989 và ψ = 
1−√5
2
 = - 0.61803989 
1. Biểu thức của tỷ số vàng dưới dạng căn số lồng vào nhau. 
 Nếu x > 0 thì phương trình (1) có thể được viết 
x = √𝑥 + 1 . 
Từ đó gợi ý cho ta xây dựng dãy số (xn) như sau: 
x1 = 1, xn+1 = √𝑥𝑛 + 1, n = 1,2,3,. 
Ta chứng minh dãy số này hội tụ về φ. Ta có 
| φ - xn+1|= 
|ф2−𝑥𝑛+1
2 |
| ф+𝑥𝑛+1|
 = 
|ф2−1−𝑥𝑛|
| ф+𝑥𝑛+1|
 = 
|ф−𝑥𝑛|
| ф+𝑥𝑛+1|
 < 
|ф−𝑥𝑛|
ф
 = φ-1|ф - xn|. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
10 
Từ đó ta có thể dẫn ra được: 
| φ - xn+1|< φ-n|ф – x1|. 
Do ф > 1 nên dãy số (xn) hội tụ đến ф. □ 
Từ cách xác định truy hồi dãy số (xn) ta có 
x1 = 1, x2 = √1 + √1 , x3 = √1 + √1 + √1 , 
và vì (xn) hội tụ đến ф nên ta có thể viết 
ф = 
1+√5
2
 = √1 + √1 + √1 + √1 + ⋯ . 
 Từ phương trình (1) ta có 
1
𝑥
 = x - 1 . 
Do đó với x > 0 ta có 
x = √𝑥 + 1 = √2 + 
1
𝑥
 . 
Do đó ta có thể viết 
ф = 
1+√5
2
 = 
√
2 +
1
√
2+ 
1
√2+
1
√
. 
2. Biểu thức của tỷ số vàng dưới dạng phân số liên tiếp 
Phương trình (1) cũng có thể được viết lại 
x = 1 + 
1
𝑥
 . (2) 
Lập dãy số (xn) một cách quy nạp như sau: 
x1 = 1, xn+1 = 1 + 
1
𝑥𝑛
 , n = 1,2,3,. 
Ta chứng minh dãy số này hội tụ về φ. Ta có (ta xử dụng hệ thức 1 ở trên): 
| φ - xn+1|= |ф – (1 + 
1
𝑥𝑛
 )|= |
(ф−1)𝑥𝑛−1
𝑥𝑛
 | = |
𝑥𝑛−ф
ф𝑥𝑛
 |< φ-1|ф - xn|. 
Từ đó ta có thể dẫn ra được: 
| φ - xn+1|< φ-n|ф – x1|. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
11 
Do ф > 1 nên dãy số (xn) hội tụ đến ф. □ 
Từ cách xác định truy hồi dãy số (xn) nên ta có 
x1 = 1, x2 = 1 + 
1
1
 , x3 = 1 + 
1
1 + 
1
1
 , 
và vì dãy số (xn) hội tụ đến ф như đã chứng minh ở trên nên ta có: 
5. Dãy số Fibonacci 
Leonardo Bonacci hay Leonardo of Pisa hay Fibonacci (1170 – 1250), nhà Toán học người Ý. 
1. Bài toán con thỏ và dãy số Fibonacci 
Câu chuyện bắt đầu vào năm 1202 ở thành phố Pisa thuộc nước Ý. Leonardo Bonacci là một 
chàng thanh niên con một thương gia giàu có, chàng có nhiều dịp đi đây đi đó, từ các thành phố 
ven Địa Trung Hải cho tới các xứ Ả Rập, có khi qua tới tận Ấn Độ. Ngoài việc giao thương, vì có 
khiếu về Toán học, qua những chuyến đi xa chàng học hỏi được rất nhiều, nhất là từ các nhà 
Toán học Ả Rập. Khi trở về lại Pisa, chàng viết cuốn Liber Abaci; đó là cuốn sách chứa đựng 
nhiều kiến thức Toán học của người Ả Rập và Ấn Độ rất mới lạ. Cuốn sách mau chóng lan 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
12 
truyền khắp Châu Âu và nhà Toán học trẻ tuổi Ý bây giờ có biệt danh là Fibonacci, trở thành nhà 
Toán học nổi tiếng thời Trung cổ. 
Có thể chỉ là một trò đùa trí tuệ, một hôm nhà Toán học ra câu đố: 
Hỏi có bao nhiêu cặp thỏ được sản sinh ra trong một năm, nếu bắt đầu bằng 
một cặp, biết rằng mỗi một tháng mỗi cặp sẽ cho ra đời một cặp mới, cặp mới 
này sẽ bắt đầu thụ thai ở tháng thứ hai kế tiếp (giả sử trong thời gian ấy 
không có con thỏ nào chết). (Boyer, A History of Mathematics). 
Câu đố mới đầu xem ra đơn giản, nhưng càng đi sâu vào bài toán các nhà Toán học của thời ấy 
và của nhiều thế hệ sau phát hiện ra rất nhiều tính chất thú vị của dãy số được suy ra từ bài 
toán ấy – dãy số Fibonacci. Thậm chí người ta còn thấy dãy số này xuất hiện trong thế giới tự 
nhiên và có liên hệ đến con số vàng mà chúng ta đã xem xét ở các phần trên. 
Gọi Fn là số cặp thỏ ở cuối của tháng thứ n. Số cặp thỏ ở cuối tháng thứ (n + 2) – tức là Fn+2 – 
phải thỏa phương trình sau: 
Fn+2 = Fn+1 + số cặp thỏ con mới đẻ ra trong tháng thứ (n + 2). 
Mỗi cặp thỏ có ít nhất hai tháng tuổi mới có thể sinh đẻ trong tháng thứ (n + 2). Như vậy trong 
tháng này có Fn cặp thỏ con mới đẻ. Do đó ta có hệ thức qui nạp sau đây: 
F1 = F2 = 1, Fn+2 = Fn+1 + Fn , n = = 1,2,3, (3) 
Hệ thức qui nạp trên xác định một cách duy nhất dãy số (Fn) gọi là dãy số Fibonacci. Dễ dàng 
viết ra dưới đây một số các số hạng đầu tiên của dãy số này: 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
13 
1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 233, 377, 
Qua đó ta có câu trả lời cho bài toán con thỏ là: F12 = 144. Tuy nhiên vấn đề không dừng ở đây. 
2. Công thức Binet cho Fn 
 Chúng ta bắt đầu bằng cách xem thử các số hạng của dãy số tăng như thế nào. Muốn 
vậy ta xét tỷ số hai số hạng liên tiếp nhau: 
xn = 
𝐹𝑛+1
𝐹𝑛
 . 
Dưới đây là một số giá trị của tỷ số này tính được nhờ các giá trị ban đầu của Fn : 
1, 2, 1.5, 1.6666, 1.625, 1.6154, 1.619, 1.6176, 1.6182,.. 
Có vẻ như là xn tiến tới tỷ số vàng ф = 1.61803989 . Thật vậy, theo cách định nghĩa của (xn) 
và theo hê thức (3), ta có 
xn+1 = 
𝐹𝑛+2
𝐹𝑛+1
 = 
𝐹𝑛+1+𝐹𝑛
𝐹𝑛+1
 = 1 + 
1
𝑥𝑛
 , n= 1,2,3,. 
Đây chính là dãy số nói ở đoạn trên, và chúng ta đã thấy xn tiến tới ф khi n tiến tới vô cực. □ 
 Bây giờ ta thử nhìn kỹ dãy số sau đây: 
1, ф, ф2, ф3,, фn, 
Dùng hệ thức ф2 = ф + 1, ta viết được: 
Фn+2 = фn ф2 = фn (ф + 1) 
 = фn+1 + фn. 
Ta thấy hệ thức này giống hệ thức qui nạp của dãy Fibonacci (ở đây là lũy thừa thay vì là chỉ số). 
Vẫn dùng hệ thức ф2 = ф + 1, ta liên tiếp có: 
Ф3 = ф2 ф = 2ф + 1, 
Ф4 = ф3 ф = (2ф + 1)ф = 3ф + 2, 
Ф5 = 5ф + 3, 
Ф6 = 8ф + 5, 
Và cứ thế tiếp tục. Những hệ thức trên gợi cho ta rằng 
Фn = Fn ф + Fn-1 , n = 2, 3,. (4) 
Điều này có thể chứng minh được bằng qui nạp. Chỉ cần hệ thức ф2 = ф + 1 là có thể chứng 
minh hệ thức (4). Phương trình x2 = x + 1 còn có nghiệm âm ψ = 
1−√5
2
 , cho nên ta cũng có hệ 
thức 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
14 
ψn = Fn ψ + Fn-1 , n = 2, 3,. (5) 
Từ hai phương trình (4) và (5) ta giải ra được 
Fn = 
ф𝑛−ψ𝑛 
√5
 . 
Đưa biểu thức của ф và ψ vào kết quả trên ta được công thức Binet sau đây: 
Fn = 
1
√5
 [(
1+√5
2
)
𝑛
− (
1−√5
2
)
𝑛
]. 
Điều thú vị trong công thức này là mặc dù vế phải chứa nhiều căn thức phức tạp nhưng kết quả 
của nó lại là một số nguyên. 
3. Một số hằng đẳng thức cho Fn 
1. F1 + F2 ++ Fn = ∑ 𝐹𝑘
𝑛
𝑘=1 = Fn+2 – 1. (6) 
Chứng minh. 
Đầu tiên ta chú ý rằng 
∑ ф𝑘𝑛𝑘=0 = 
1−ф𝑛+1
1−ф
 = 
ф𝑛+1−1
ф−1
 = 
(ф𝑛+1−1)(ф+1)
ф2−1
 = (ф𝑛+1 − 1)ф = ф𝑛+2 − ф. 
Tương tự như trên ta cũng có: 
∑ ψ𝑘𝑛𝑘=0 = ψ
𝑛+2 − ψ . 
Ta trở laị công thức cần chứng minh. Dựa vào hai kết quả trên, công thức Binet, và do tiện lợi 
ta đăt F0 = 0 mà không ảnh hưởng gì, nên ta có: 
∑ 𝐹𝑘
𝑛
𝑘=1 = ∑ 𝐹𝑘
𝑛
𝑘=0 = ∑
ф𝑛−ψ𝑛 
√5
𝑛
𝑘=0 = 
(ф𝑛+2− ψ𝑛+2)−(ф−ψ)
√5
 . 
Ta nhắc lại rằng: 
ф − ψ = √5 và Fn+2 = 
ф𝑛+2−ψ𝑛+2 
√5
 . 
Do đó ta có: 
∑ 𝐹𝑘
𝑛
𝑘=1 = Fn+2 – 1. □ 
2. F1 + F3 + F5 ++ F2n-1 = F2n . (7) (Tổng n số hạng lẻ) 
Chứng minh. 
Chứng minh bằng qui nạp như sau: 
Với n = 1, ta có: 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
15 
F0 + F1 = 0+ 1 = 1 = F2 (Đúng). 
Giả sử (7) đúng với n = k > 1, nghĩa là ta có: 
F1 + F3 ++ F2k-1 = F2k . 
Khi ấy: 
F1 + F3 ++ F2k-1 + F2k+1= F2k + F2k+1 = F2k+2 = F2(k+1) : (7) đúng với n = k+1. 
Như vậy (7) đúng với mọi n. □ 
3. F2 + F4 + F6 ++ F2n = F2n+1 - 1 . (8) (Tổng của n số hạng chẵn) 
Chứng minh. 
Từ hệ thức (6) ta có: 
F1 + F2 ++ F2n-1 + F2n = F2n+2 – 1 (6’) 
Lấy hệ thức (6’) trừ hệ thức (7) theo từng vế, ta có: 
F2 + F4 + F6 ++ F2n = F2n+2 – 1 - F2n = (F2n+1 + F2n) – F2n – 1 = F2n+1 – 1. □ 
4. F𝟏
𝟐 + F𝟐
𝟐 + F𝟑
𝟐 ++ F𝒏
𝟐 = Fn Fn+1 . (9) 
Chứng minh. 
Chứng minh bằng qui nạp như sau: 
Với n = 1, ta có: 
𝐹1
2 = 1, F1 F2= 1×1 = 1 : Công thức đúng với n = 1. 
Giả sử công thức đúng với n = k > 1, nghĩa là ta có 
F𝟏
𝟐 + F𝟐
𝟐 + F𝟑
𝟐 ++ F𝒌
𝟐 = Fk Fk+1 , 
Khi ấy 
F𝟏
𝟐 + F𝟐
𝟐 + F𝟑
𝟐 ++ F𝒌
𝟐 + F𝒌+𝟏
𝟐 = Fk Fk+1+F𝒌+𝟏
𝟐 = Fk+1(Fk + Fk+1 ) = Fk+1Fk+2 . 
Công thức (9) đúng với n = k+ 1. 
Như vậy công thức (9) đã được chứng minh đúng với mọi n. □ 
5. Fm−1 Fn + Fm Fn+1 = Fm+n . (10) 
Chứng minh. 
Giữ m cố định. Ta chứng minh (10) đúng với mọi n bằng qui nạp. 
Với n=1, ta có : F1 = F2 = 1, cho nên (1) trở thành: 
Fm−1 + Fm = Fm+1 . 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
16 
Hệ thức này đúng vì đó là hệ thức định nghĩa của dãy số Fibonacci. Giả sử (10) đúng với n, ta 
chứng minh (10) đúng với n+1. 
Fm−1 Fn+1 + Fm Fn+2 = Fm−1 ( Fn−1 + Fn ) +Fm ( Fn + Fn+1 ) 
= Fm−1 Fn−1 + Fm−1Fn + Fm Fn + Fm Fn+1 
= (Fm−1 Fn−1 + Fm Fn) + (Fm−1 Fn + Fm Fn+1) 
= Fm+n−1+ Fm+n = Fm+n+1. 
Công thức (10) đúng với n+1, cho nên công thức (10) đúng với mọi n. Số nguyên m cố định 
nhưng bất kỳ, như vậy công thức (10) đúng với mọi m và n. □ 
6. F𝒏+𝟏
𝟐 - F𝒏
𝟐 = Fn−1 Fn+2. (11) 
Chứng minh. 
F𝑛+1
2 - F𝑛
2 = (Fn−1 + Fn)
2 - F𝑛
2 = F𝑛−1
2 + 2Fn−1 Fn 
 = Fn−1(Fn−1 + Fn + Fn) = Fn−1(Fn+1 + Fn) 
 = Fn−1 Fn+2 . □ 
7. F𝒏+𝟏
𝟐 + F𝒏
𝟐 = F2n+1 . (12) 
Chứng minh. 
Ta sẽ kèm hệ thức (12) với hệ thức khác, rồi chứng minh cả hai hệ thức đều đúng với mọi n. 
Xét hệ thống sau: 
{
F2n = Fn (Fn+1 + Fn−1) (𝑖)
F2n+1 = F𝒏+𝟏
𝟐 + F𝒏
𝟐 (12)
Ta chứng minh hệ thống bằng qui nạp. Ta có: 
F0= 0, F1 = F2 = 1, F3 = 2. 
Cả hai hệ thức đều đúng với n = 1. 
Giả sử hệ thống đúng với n. Ta chứng minh hệ thống đúng với n+1. Ta có: 
F2(n+1) = F2n+2 = F2n+1 + F2n = (F𝒏+𝟏
𝟐 + F𝒏
𝟐) + Fn (Fn+1 + Fn−1) 
 = Fn+1 (Fn + Fn+1) + Fn (Fn + Fn−1) 
 = Fn+1 Fn+2 + Fn Fn+1 = Fn+1 (Fn+2 + Fn). 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
17 
Như vậy (i) đúng với n+1, và do đó đúng với mọi n. Mặt khác ta có: 
F2(n+1)+1 = F2n+3 = F2n+2 + F2n+1 = Fn+1 (Fn+2 + Fn) + F𝑛+1
2 + F𝑛
2 
 = Fn+1 (Fn+1 + 2Fn) + F𝑛+1
2 + F𝑛
2 
= (F𝑛+1
2 + 2Fn+1Fn + F𝑛
2) + F𝑛+1
2 
 = (Fn+1 + Fn)
2 + F𝑛+1
2 = F𝑛+2
2 + F𝑛+1
2 . 
Như vậy (12) đúng với n+1, và do đó đúng với mọi n. □ 
8. Fn+1Fn−1 - F𝑛
2 = (-1)n . (13) 
Chứng minh. 
Ta dùng phương pháp qui nạp. Hiển nhiên công thức đúng với n = 1. Giả sử công thức đúng với 
n, ta chứng minh nó đúng với n+1. 
Fn+2 Fn - F𝑛+1
2 = (Fn + Fn+1)Fn - F𝑛+1
2 = F𝑛
2 + Fn Fn+1 - F𝑛+1
2 
 = F𝑛
2 − Fn+1 (Fn+1 − Fn) = F𝑛
2 − Fn+1 Fn−1 
 = -(-1)n = (-1)n+1 . 
Như vậy (13) đúng với n+1, và do đó đúng với mọi n. □ 
3. Tính chia đúng của các số Fibonacci 
Các số Fibonacci có nhiều tính chất chia đúng (divisibility properties) rất thú vị. 
 Thí dụ F3 = 2, F6 = 8, và F6 chia đúng cho F3 . Một thí dụ khác: F4 = 3, F8 = 21, và F8 chia đúng 
cho F4 . Một cách tổng quát ta có: 
Định Lý 1. Nếu n chia đúng cho m thì Fn chia đúng cho Fm . 
Chứng minh. 
Nếu n chia đúng cho m thì n = km, trong đó k là một số nguyên dương nào đó. Ta qui nạp trên 
k. Nếu k = 1 thì rõ ràng là tính chất đúng. Giả sử tính chất đúng với k, ta chứng minh nó đúng 
với k+1. Theo hệ thức (10) ta có: 
Fm(k+1) = Fmk+m = FmkFm−1 + Fmk+1Fm . 
Vì Fmk và Fm đều chia đúng cho Fm nên vế phải của hệ thức trên chia đúng cho Fm . Nói cách 
khác Fm(k+1) chia đúng cho Fm. Do đó tính chất đúng với k+1. Theo phương pháp qui nạp, định 
lý đã được chứng minh. □ 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
18 
Hệ quả: Nếu n > 4 là một hợp số 2(composite number) thì Fn cũng là một hợp số. 
Định Lý 2. Hai số Fibonacci liên tiếp là nguyên tố cùng nhau. 
Chứng minh. 
Theo công thức (13) ở trên, nếu Fn và Fn+1 có chung một ước số thì con số đó cũng là ước số 
của (-1)n, điều này vô lý. □ 
Định Lý 3. Nếu n và m là hai số nguyên dương thì 
gcd ( Fn, Fm) = Fgcd (m,n) . 
Chứng minh. 
Đặt d = gcd3(m,n). Như thế thì d là ước số của m và n. Theo Định lý 1 thì Fd là ước số của Fm và 
Fn. Chúng ta chứng tỏ Fd là ước số chung lớn nhất của Fm và Fn. Vì d = gcd (m,n) nên theo 
Định lý Bezout tồn tại hai số nguyên r và s sao cho d = mr + ns. Theo công thức (10) ta có 
Fd = F𝑚𝑟+𝑛𝑠 =Fmr−1Fns + FmrFns+1. 
Hệ thức này cho thấy bất cứ ước số nào của Fm và Fn cũng là ước số của Fd . Do đó Fd là ước 
số chung lớn nhất của Fm và Fn. □ 
Thí dụ. Lấy m = 12, n = 18. Khi ấy d = gcd (12,18) = 6, và F6 = 8. Trong khi đó F12 = 144, F18 = 2584, và 
gcd (144, 2584) = 8. Như vậy 
gcd (144, 2584) = Fgcd (12, 18) = 8. 
Bây giờ ta phát biểu và chứng minh phần đảo của Định lý 1. 
Định Lý 4. (Đảo của Định lý 1) 
Nếu 𝐹𝑛 chia đúng cho 𝐹𝑚 thì n chia đúng cho m. 
Chứng minh. 
Nếu Fn chia đúng cho Fm thì gcd ( Fn, Fm) = Fm . Nhưng theo Định lý 3 thì gcd ( Fn, Fm) = 
Fgcd (m,n), cho nên 
Fgcd (m,n) = Fm. 
Do đó gcd (n,m) = m. Điều này có nghĩa là n chia đúng cho m. □ 
2 Một số nguyên là một hợp số khi nó có ít nhất một ước số thực sự (ước số khác 1 và chính nó). 
3 gcd : the greatest common divisor (ước số chung lớn nhất). 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
19 
4. Tam giác Pascal và các số Fibonacci 
Tam giác Pascal là một tam giác tạo nên bởi các con số mà các số hạng ở hàng thứ n là 
(𝑛
𝑗
) = 
𝑛!
(𝑛−𝑗)!𝑗!
 , 0 ≤ j ≤ n . 
Đó là các hệ số của xj trong khai triển của (1 + x)n . Tam giác mang tên nhà Toán học Pháp là 
Pascal (1623 - 1662). Thật ra nó đã được nhà Toán học Trung Hoa tên là Yanghui và nhà Thiên 
văn học Ba Tư tên là Omar Khayyám tìm ra và nhiên cứu trước Pascal hơn 500 năm. Ta không 
đi sâu vào những đặc điểm của tam giác này, chỉ nêu ra một tính chất đặc biệt của nó mà thôi. 
Đó là tổng số các số hạng trong đường chéo nghiêng của tam giác chính là các số hạng trong 
dạy số Fibonacci. 
Trong hình trên là 7 đường chéo mà tổng các số hạng lần lượt là 
F1 = 1, F2 = 1 
F3 = 1 + 1 = 2 
F4 = 1 + 2 = 3 
F5 = 1 + 3 + 1 = 5 
F6 = 1 + 4 + 3 = 8 
F7 = 1 + 5 + 6 + 1 = 13 
Ở hạng thứ n sẽ là 
Fn = (
𝑛−1
0
) + (𝑛−2
1
) + (𝑛−3
2
)+ 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
20 
Lưu ý rằng (𝑛
𝑗
) = 0 nếu j > n. Khi ấy ta có thể viết 
Fn = ∑ (
𝑛−1−𝑗
𝑗
) 𝑛𝑗=0 , j = 0,1,2,,n-1. 
5. Trở lại hình chữ nhật vàng và hình xoắc ốc vàng 
Trong phần đầu chúng ta đã được giới thiệu hình chữ nhật vàng và cách dựng nó bằng thước kẻ 
và compa. Chúng ta cũng đã được biết cách dựng hình xoắn ốc vàng từ hình chữ nhật vàng như 
thế nào. 
Bây giờ chúng ta hãy quan sát các cạnh hình vuông – tức là các bề rộng của các hình chữ nhật 
vàng lồng vào nhau – bên trong hình chữ nhật vàng đầu tiên. Kể từ trong ra ngoài, số đo các 
cạnh ấy chính là các số hạng trong dãy số Fibonacci như trên hình vẽ trên. 
Dưới đây là vài hình ảnh của hình xoắn ốc vàng trong thiên nhiên: 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
21 
 Cây Aloe polyphylla. 
Hoa hướng dương và hoa Dandelion. 
6. Lịch sử về tỷ số vàng và những con số Fibonacci 
Người Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ thứ năm và thứ tư trước Tây lịch đã đề cập tới bài toán chia một 
đoạn thẳng “theo tỷ số cực và tỷ số trung bình” (extreme and mean ratio). Tuy nhiên họ không 
đặt cho tỷ số này một cái tên đặc biệt nào cả. Những cái tên riêng cho tỷ số này như tỷ số vàng, 
con số vàng,,đến rất lâu về sau. Năm 1909 ký hiệu ф (mẫu tự Hy Lạp đọc là phi) chỉ con số 
vàng, được nhà Toán học Mỹ Mark Bar (Theodore Cook, Curves of Life) dùng đầu tiên, gợi ý từ 
tên của nhà Điêu khắc Hy Lạp cổ đại Philias, người được cho là đã xử dụng tỷ số vàng và hình 
chữ nhật vàng trong nghệ thuật Kiến trúc. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
22 
Đền Parthenon ở Hy Lạp, một tác phẩm của Philias. 
Trở lại thời xa xưa, người Ai Cập đã biết dụng tỷ số vàng trong khi xây dựng các kim tự tháp 
(George Marowsky, Misconceptions about Golden ratio). Trường phái Pythago vào thế kỷ thứ 6 
trước Tây lịch đã biết tỷ lệ vàng trong các ngũ giác đều và hình ngôi sao năm cánh. Họ đã chọn 
hình ngôi sao năm cánh nội tiếp trong ngũ giác đều làm biểu tượng cho trường phái của mình. 
Năm 1509, Luca Pacioli, một nhà Toán học Ý, bạn và là cố vấn Toán học của nghệ sĩ thiên tài 
Leonardo da Vinci đã có nhiều nghiên cứu về con số vàng trong tác phẩm Davina Proportione. 
Những tranh vẽ trong sách này được chính Da Vinci minh họa. Người nghệ sĩ vĩ đại rất ưa thích 
con số vàng và đã thể hiện nó trong nhiều tác phẩm của ông. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
23 
Những hình chữ nhật vàng trong Mona Lisa và The Divine Proportion (Tỷ lệ thiêng liêng). Đó là một vài 
tranh vẽ nổi tiếng của Leonardo da Vinci có liên quan đến con số vàng. 
Kepler (1571 – 1630), nhà Toán học và Thiên văn học Đức đã nói: “Hình học có hai báu vật, đó là 
định lý Pythago và tỷ số vàng. Cái thứ nhất có thể sánh với vàng ròng, còn cái thứ hai sánh với 
đồ trang sức.” Hơn 400 năm sau Fibobacci, chính Kepler là người đầu tiên kết nối con số vàng 
với dãy số Fibonacci khi ông ước tính được rằng tỷ số hai số hạng liên tiếp trong dãy số 
Fibonacci xấp xỉ bằng tỷ số vàng. Phải đến một thế kỷ sau Kepler, vào năm 1753, Robert 
Simson (1687 – 1768), nhà Toán học Anh, mới chứng minh được dự đoán của Kepler: 
lim
𝑛→∞
𝐹𝑛+1
𝐹𝑛
 = φ . 
Cũng chính Simson đã chứng minh được công thức (13) ta đã trình bày ở phần trên: 
 Fn+1Fn−1 - F𝑛
2 = (-1)n . 
Công thức của số hạng tổng quát trong dãy số Fibonacci được Jacques Binet (1786 – 1856), nhà 
Toán học Pháp, tìm ra vào năm 1843. Một năm sau, Gabriel Lamé (1795 – 1870), nhà Toán học 
Pháp, đã dùng các số Fibonacci vào trong thuật toán tìm ước số chung lớn nhất của hai số 
nguyên. Trong khoảng thời gian 1872 – 1891, Édouard Lucas (1742 – 1891), một nhà Toán học 
Pháp khác, đã chứng minh được nhiều hệ thức qui nạp trên dãy số Fibonacci, và tìm được 
những công thức kết nối các con số Fibonacci với các con số trong tam giác Pascal. Và cũng 
chính Lucas đặt tên cho dãy số 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21,.là dãy số Fibonacci. 
© 2017 Lê Quang Ánh 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.
24 
Tài liệu tham khảo 
1. Hình ảnh: lấy từ Internet. 
2. Theodore A. Cook. Curves of Life. Constable and Company Ltd. London. 1914. 
3. Philip J. Davis. Spirals from Theodorus to Chaos. Wellesly, MA. 1992. 
4. Mario Livio. The Golden Ratio. Broadway Books. New York. NY, 2002. 
5. Nicholas J. Rose. The Golden Mean and Fibonacci sequence. E-book. 
www.MATHVN.com - Toán học Việt Nam
Biên soạn: Lê Quang Ánh, Ph.D.

File đính kèm:

  • pdfty_so_vang_va_day_so_fibonacci.pdf