Ứng dụng mô hình hồi quy logit thứ bậc phân tích kết quả học môn Tiếng Anh của sinh viên trường đại học ngoài công lập tại thành phố Hồ Chí Minh
Abstract: The purpose of this article is to analyze the English learning outcomes of students of the
non-public university in Ho Chi Minh City. The theoretical foundation is analyzed and synthesized
from previous studies. The sample of 436 students was randomly selected, using a quantitative
analysis method and in which the ordered logit regression model was used as a data analysis tool.
Research results indicate that English performance is influenced by factors such as gender, goal
valuation, self-study, and attitudes toward the lecturer.
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng mô hình hồi quy logit thứ bậc phân tích kết quả học môn Tiếng Anh của sinh viên trường đại học ngoài công lập tại thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng mô hình hồi quy logit thứ bậc phân tích kết quả học môn Tiếng Anh của sinh viên trường đại học ngoài công lập tại thành phố Hồ Chí Minh
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 48-54 48 Email: nguyenquyetk16@gmail.com ỨNG DỤNG MÔ HÌNH HỒI QUY LOGIT THỨ BẬC PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HỌC MÔN TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Quyết - Lê Thị Kim Thoa Trường Đại học Tài Chính Marketing Ngày nhận bài: 14/09/2018; ngày sửa chữa: 29/10/2018; ngày duyệt đăng: 05/11/2018. Abstract: The purpose of this article is to analyze the English learning outcomes of students of the non-public university in Ho Chi Minh City. The theoretical foundation is analyzed and synthesized from previous studies. The sample of 436 students was randomly selected, using a quantitative analysis method and in which the ordered logit regression model was used as a data analysis tool. Research results indicate that English performance is influenced by factors such as gender, goal valuation, self-study, and attitudes toward the lecturer. Keywords: English learning outcomes, applying ordered logit regression model, factors affecting english learning outcomes. 1. Mở đầu Hiện nay, tiếng Anh đang được sử dụng vô cùng phổ biến và là ngôn ngữ nước ngoài được nghiên cứu nhiều nhất trên thế giới. Xét trên phương diện chính sách ngôn ngữ, hiện nay, không có quốc gia nào trên thế giới đặt nặng vai trò của năng lực ngoại ngữ (tiếng Anh) trong đào tạo và sử dụng nhân lực như ở Việt Nam [1]. Trong chương trình đào tạo đại học, cao đẳng, Tiếng Anh là một môn học bắt buộc cho hầu hết các ngành đào tạo và là một trong những điều kiện không thể thiếu để được công nhận tốt nghiệp. Phần lớn sinh viên (SV) nhận thức được tầm quan trọng của ngoại ngữ và đã có những thay đổi thích ứng trong việc học với kì vọng sau khi ra trường nắm bắt được nhiều cơ hội. Tuy vậy, nhìn chung kết quả học tiếng Anh của SV khối không chuyên ngữ chưa đạt kết quả như mong muốn, thực trạng SV học tiếng Anh nhưng không sử dụng được, chưa đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng đang xảy ra khá phổ biến. Nguyên nhân vì sao như vậy là câu hỏi được những nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu và luận giải. Bài viết xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tiếng Anh của SV các trường đại học ngoài công lập tại TP. Hồ Chí Minh (khối ngành kinh tế quản lí, không chuyên ngữ) bằng phương pháp định lượng. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tổng quan lí thuyết và giả thuyết nghiên cứu 2.1.1. Lí thuyết Krashen Theo R. Mitchell và F. Myles [2], học ngôn ngữ nói chung hay học ngôn ngữ thứ 2 là hướng nghiên cứu thuộc về tâm lí và hành vi con người, lĩnh vực này đã được quan tâm nghiên cứu vào đầu thập niên 1950. Trong giai đoạn này, một số lí thuyết, mô hình nổi tiếng được ra đời để luận giải cho hành vi học ngôn ngữ thứ 2 của một cá nhân. Lí thuyết Krashen ra đời vào đầu thập niên 1970, ý tưởng lí thuyết này cho rằng học ngôn ngữ được phân thành hai quá trình riêng biệt là học và tiếp nhận. Trong đó, tiếp nhận ngôn ngữ là quá trình học vô thức thông qua các bộ lọc, quá trình này xảy ra đối với một cá nhân tiếp nhận ngôn ngữ thứ nhất (tiếng mẹ đẻ), kết quả tạo ra hành vi ngôn ngữ không kiểm soát (nghĩa là kết quả được tạo ra từ quá trình sử dụng ngôn ngữ) (hình 1). Bên cạnh đó, học (ngôn ngữ thứ 2) là một quá trình có ý thức, phụ thuộc vào năng khiếu của người học, nhằm hiểu biết một ngôn ngữ khác (ngoài ngôn ngữ thứ nhất) và kết quả tạo ra hành vi ngôn ngữ có kiểm soát (nghĩa là kết quả tạo ra thông qua quá trình sửa lỗi hoặc các ẩn ý các quy tắc của ngôn đó). Lí thuyết Krashen (1981)[3] cho rằng những yếu tố như thái độ, động cơ học tập, sự tự tin, thời gian có ảnh hưởng đến quá trình học ngôn ngữ thứ hai. Ngôn ngữ Năng khiếu Bộ lọc Học Tiếp nhận Hành vi ngôn ngữ được kiểm soát Hành vi ngôn ngữ không kiểm soát Hình 1. Mô hình lí thuyết Krashen [3],[4],[5] VJE Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 48-54 49 2.1.2. Lí thuyết nhận thức xã hội Lí thuyết nhận thức xã hội được Bandura giới thiệu lần đầu vào năm 1986. Ý tưởng của lí thuyết này cho rằng kết quả lao động, học tập của một cá nhân là một quá trình được tạo thành từ mối quan hệ của ba yếu tố; nhận thức, hành vi và môi trường xung quanh. Trong đó, quá trình nhận thức của người học bao gồm ba thành phần; sự tự học, tự điều chỉnh bản thân, và tự đánh giá mục tiêu. Môi trường xung quanh là kì vọng của phụ huynh. Hành vi là thái độ của người học đối với giảng viên (GV) và đối với khoa/trường. 2.1.3. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết H1: Tự đánh giá mục tiêu học tập ảnh hưởng tới kết quả học tập của SV Mục tiêu là những trạng thái, cột mốc mà con người muốn đạt được trong một khoảng thời gian xác định. Trong giáo dục, mục tiêu mô tả năng lực, kĩ năng và các thuộc tính mà SV phải đạt được khi hoàn thành khóa học hoặc chương trình [8]. Mục tiêu học tập của SV thể hiện dưới 3 thành phần: kiến thức, kĩ năng và thái độ [9]. Đặt mục tiêu và đánh giá mục tiêu học tập có ý nghĩa rất quan trọng với SV, nếu đặt mục tiêu hợp lí thì SV có cơ hội nỗ lực tham gia vào các hoạt động nhằm hoàn thành mục tiêu đề ra [10], [11]. Giả thuyết H2: Tự điều chỉnh ảnh hưởng tới kết quả học tập của SV Theo Pintrich [12] tự điều chỉnh là một quá trình tích cực, mang tính xây dựng, nhờ đó người học đặt ra mục tiêu để học tập và sau đó nỗ lực theo dõi, điều chỉnh, kiểm soát nhận thức, động cơ và hành vi, qua đó nhận ra hạn chế trong các mục tiêu của họ. Tự điều chỉnh các hoạt động có thể làm trung gian cho mối quan hệ giữa cá nhân, bối cảnh và thành tích học tập của họ. Zimmerman [13] cho rằng tự điều chỉnh là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tích cực đến kết quả học tập của SV, những SV có kết quả học tập tốt thường có xu hướng tự điều chỉnh các hoạt động, chiến lược học tập sao cho thích nghi với bối cảnh nhằm đạt được kết quả tốt nhất. Giả thuyết H3: Thái độ của SV đối với khoa/trường ảnh hưởng tới kết quả học tập Theo Lagiurxki A.Ph [14], thái độ là sự biểu hiện ra bên ngoài của tâm lí, phản ứng với sự tác động của môi trường xung quanh. McCoach và Siegle [15] cho rằng thái độ của SV đối với trường thể hiện bằng sự nhiệt tình của SV trong việc tham gia vào các hoạt động của nhà trường. Majoribanks [16] khẳng định rằng thái độ của SV đối với trường có mối liên hệ với kết quả học tập, những SV có kết quả học tập tốt thường có khuynh hướng có thái độ tốt đối với nhà trường. Tương tự, Bruns [17] chỉ ra rằng những SV có kết quả học tập yếu thường có thái độ thiếu nhiệt tình và nhiệt huyết đối với nhà trường. Giả thuyết H4: Thái độ của SV đối với GV ảnh hưởng tới kết quả học tập Thái độ của SV thể hiện trên hai phương diện, tích cực hoặc tiêu cực và được phát triển trong mối liên hệ với những đối tượng xung quanh. Thái độ không phải là bẩm sinh mà có được thông qua sự trải nghiệm trực tiếp với các đối tượng, bắt chước và học tập từ xã hội [18]. Thái độ là một yếu tố quan trọng để thành công. Từ quan điểm này cho thấy, một môi trường giáo dục tốt, trong đó GV đóng vai trò then chốt, sẽ góp phần vào sự phát triển thái độ tích cực của SV. Theo Chidolue [19] thái độ của SV đối với GV có tương quan chặt chẽ với thành tích học tập của họ. SV có thái độ tích cực với GV thường nỗ lực nhiều hơn, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ GV giao dẫn đến có cơ hội đạt kết quả cao hơn. Giả thuyết H5: Kì vọng của phụ huynh ảnh hưởng tới kết quả học tập của SV Kì vọng của phụ huynh là những khát vọng về giáo dục mà phụ huynh áp đặt lên con cái của mình, yếu tố này có mối liên hệ trực tiếp với kết quả học tập của SV [20]. Những phụ huynh có kì vọng cao sẽ khuyến khích con cái làm việc chăm chỉ để đạt được mục tiêu của họ, và khi con cái gặp những khó khăn trong học tập họ sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ để con cái họ đạt được thành tích tốt nhất [18]. Theo Okagaki và Frensch [21] những cha mẹ có kì vọng cao thường đề ra các chuẩn mực cao (khắt khe) đối với con cái trong các mối quan hệ với nhà trường, với GV, với bạn bè cũng như trong công việc học tập. Do đó, kì vọng của phụ huynh ảnh hưởng tích cực lên kết quả học tập của SV. Từ các giả thuyết trên đề xuất mô hình nghiên cứu: Kết Quả Học Tập Nhận thức Hành vi Môi trường Hình 2. Mô hình lí thuyết Banrude (1986) [6], [7] VJE Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 48-54 50 Hình 3. Mô hình nghiên cứu 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Biến nghiên cứu Nghiên cứu này áp dụng phương pháp định lượng, sử dụng mô hình hồi quy logit thứ bậc (Ordered logit regression model) để làm cơ sở phân tích, do đó để đáp ứng cho phương pháp này các biến được định nghĩa và đo lường như sau: Biến phụ thuộc: Đo lường kết quả học tập môn Tiếng Anh của SV (những SV không phải chuyên ngành ngôn ngữ), điểm trung bình được đánh giá theo thang điểm 10. Căn cứ Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT và Thông tư số 57 /2012/TT-BGDĐT, xếp loại SV được chia thành thứ tự 5 bậc gồm, loại yếu (điểm nhỏ hơn 4,0); loại trung bình (điểm từ 4,0 đến 6,9); loại khá (điểm từ 7,0 đến 7,9); loại giỏi (điểm từ 8,0 đến 8,9); loại xuất sắc (điểm từ 9,0 đến 10). Theo cách chia này, loại trung bình có biến thiên điểm khá rộng và chưa phân loại được nhóm trung bình yếu và nhóm trung bình. Do đó, để phù hợp với thông lệ quốc tế, thực tế đánh giá kết quả môn Tiếng Anh và dung hòa các quy định, nghiên cứu này dựa vào điểm trung bình môn học để xếp loại SV thành 5 mức (bảng 1): Bảng 1. Xếp loại SV theo kết quả học tập STT Điểm trung bình Xếp loại Mã hóa 1 < 4 Yếu Bậc 1 2 4-5,4 Trung bình yếu Bậc 2 3 5,5-6,9 Trung bình Bậc 3 4 7-8,4 Khá Bậc 4 5 8,5-10 Giỏi Bậc 5 Biến độc lập: Gồm 7 biến được chia thành hai nhóm: - Nhóm 1: Nhóm biến định lượng trực tiếp + Tự học: Tự học đề cập đến đặc những trưng của người học và sự tự tin về khả năng riêng của họ trong một tình huống cụ thể để lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động học tập cần thiết hoặc hoàn thành một nhiệm vụ [6]. Trong nghiên cứu này, biến tự học được đo lường bằng thời gian SV tự học ngoài thời gian lên lớp (giờ). + Giới tính: Biến nhị phân, nếu SV nam (gán là 1), SV nữ (gán là 0). - Nhóm 2: Nhóm biến định lượng gián tiếp + Gồm các biến: Tự đánh giá mục tiêu, tự điều chỉnh, thái độ đối với khoa/trường, thái độ đối với GV, kì vọng của phụ huynh. Một trong những hình thức đo lường được sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu định lượng là thang đo do Rennis Likert giới thiệu [22]. Ông đã đưa ra loại thang đo 5 mức độ phổ biến từ 1 đến 5 để đo mức độ đánh giá của người trả lời (xem bảng 2 trang bên). Sau khi đo lường, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định (Confirmatory factor analysis-CFA) để rút trích các biến; Tự đánh giá mục tiêu, tự điều chỉnh, thái độ đối với khoa/ trường, thái độ đối với GV, kì vọng của phụ huynh. 2.2.2. Phương pháp chọn mẫu Theo thống kê năm 2017, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh có 12 trường đại học ngoài công lập đang hoạt động và có khoảng 51.323 SV [24], ngành đào tạo rất đa dạng nhưng phổ biến là ngành khối kinh tế quản lí. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, lấy mẫu trên 5 ngành đào tạo phổ biến của các trường trong năm 2017, gồm ngành Kế toán, Quản trị kinh doanh, Quản trị văn phòng, Tài chính ngân hàng và Luật. Chúng tôi chọn nghiên cứu trên nhóm ngành này vì sự phổ biến của nó và chương trình đào tạo tiếng Anh được thiết kế khá tương đồng giữa các trường. Cỡ mẫu được xác định dựa theo nghiên cứu của Husain Salilul Akareem và Syed Shahadat Hossain [25], Suleyman M. Yildiz [26]. 2 2 2 1.96 .N.p(1 p) n (N 1) 1.96 p(1 p) (1) Trong đó: N là tổng thể, n: cỡ mẫu, : sai số (5%), p: Xác suất xảy ra một sự kiện (trong nghiên cứu xã hội thì chọn p=0,5). Dựa vào công thức (1) và số SV tốt nghiệp của từng ngành, mẫu cần phải chọn để đảm bảo tính đại diện cho tổng thể ít nhất là 436 SV. Thông tin cần khảo sát dựa trên bảng câu hỏi thiết kế sẵn sau khi điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế tại trường ngoài công lập. Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát theo phương pháp gửi bảng câu hỏi qua email, gặp trực tiếp hoặc điện thoại cho các SV, 1.200 bảng câu hỏi được phát ra sau đó nhận được 660 bảng hồi đáp (đạt 55%), tiếp tục phân tích sơ bộ để phát hiện và loại bỏ những bảng câu hỏi không hợp lệ, mâu thuẫn. Số mẫu sử dụng được cho phân tích là 436 mẫu. Tự đánh giá mục tiêu Tự điều chỉnh Thái độ với khoa/trường Thái độ với GV Kì vọng của phụ huynh Kết quả học tập H1+ H5+ H4+ H2+ H3+ VJE Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 48-54 51 2.2.3. Mô hình hồi quy logit thứ bậc Xét mô hình hồi quy có biến phụ thuộc Y liên tục với thang đo tỉ lệ, biến này được phân loại có thứ tự từ j=1, 2, 3,, J và X được kí hiệu là vectơ p chiều của biến độc lập. Giả sử j Pr(Y j) là kết quả xác suất của phân loại j. Do đó hàm xác suất tích lũy của Y có thể được biễu diễn như sau: 1 2 jPr(Y j) ... , j 1,2,..., J (2) Lấy logarit của hàm xác suất tích lũy (gọi là logit) j Pr(Y j) logit[Pr(Y j)] log[ ] 1 Pr(Y j) X, j 1,2,..., J 1 (3) Trong đó: j là hệ số chặn (hay còn gọi là điểm cắt) thỏa điều kiện 1 2 J 1... và là véc tơ hệ số của biến độc lập, hệ số này mô tả tác động của biến độc lập đến tỉ số khả dĩ (odds ratio) của phân loại j hoặc phân loại nhỏ hơn j. Theo [27], [28], hệ số trong phương trình (3) sẽ không nhất quán nếu sử dụng ước lượng bằng phương pháp OLS (Ordinary least squares), do đó chúng phải được thay thế bằng ước lượng hợp lí cực đại (LM-maximum likelihood). 2.3. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy logit thứ bậc Để đánh giá xem liệu các biến độc lập có thật sự tác động lên kết quả học môn tiếng Anh (biến phụ thuộc) hay không, nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy logit thứ bậc làm công cụ phân tích bởi vì biến phụ thuộc được chia thành 5 phân loại và đo lường bằng thang đo thứ bậc (bảng 3). Bảng 2. Đo lường biến nghiên cứu Yếu tố Khái niệm Biến đo lường Nghiên cứu trước Nhận thức Tự đánh giá mục tiêu 1. Học tốt là điều quan trọng cho mục tiêu nghề nghiệp tương lai của tôi McCoach và Siegle (2003) [15] 2. Học tốt là một trong những mục tiêu của tôi 3. Điều quan trọng là đạt điểm cao ở trường 4. Muốn đạt điểm cao ở trường 5. Làm việc chăm chỉ ở trường 6. Thường xuyên hoàn thành bài tập ở trường Tự điều chỉnh 7. Sử dụng nhiều chiến lược khác nhau để học tài liệu mới 8. Là SV có trách nhiệm 9. Tập trung vào việc học của mình 10. Thường xuyên hoàn thành bài tập ở trường Hành vi Thái độ đối với khoa/trường 11. Là ngôi trường tốt McCoach và Siegle (2003) [15] 12. Trường này thích hợp với tôi 13. Tôi thích trường này 14. Tôi tự hào khi học tại đây Thái độ đối với GV 15. Tôi có mối quan hệ tốt với giáo viên 16. Lớp học của tôi rất thú vị 17. GV quan tâm tới SV 18. Phần lớn GV là tốt Môi trường Kì vọng của phụ huynh 19. Học tốt để tôi có cơ hội chăm sóc gia đình Urdan (2004) [23] 20. Học tốt để mang vinh dự cho gia đình 21. Học tốt để làm hài lòng bố mẹ 22. Định hướng từ gia đình VJE Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 48-54 52 Bảng 3. Kết quả ước lượng hệ số mô hình hồi quy Biến nghiên cứu Hệ số mô hình Tỉ số Odds Thời gian tự học 1.186*** 3.272*** (0.237) (0.775) Giới tính -0.568** 0.567** (0.239) (0.136) Tự đánh giá mục tiêu 1.472*** 4.359*** (0.226) (0.984) Thái độ đối với GV 1.308*** 3.701*** (0.196) (0.727) Thái độ đối với trường 0.188 1.207 (0.157) (0.189) Điều chỉnh 0.0862 1.090 (0.125) (0.136) Phụ huynh -0.119 0.888 (0.279) (0.248) Constant cut1 -5.257*** 0.00521*** (1.553) (0.00809) Constant cut2 -2.281** 0.102*** (0.480) (0.015) Constant cut3 2.252** 9.504*** (0.460) (3.87) Constant cut4 7.078*** 1,186*** (1.521) (1,803) Observations 436 436 (Nguồn: Kết quả xử lí từ Stata 14, Chi2(21)= 4.32, prob> chi2=0.235, *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1) Kết quả bảng 3 cho thấy mô hình có bốn điểm cắt (vì biến phụ thuộc được chia thành 5 khoảng theo thang đo thứ bậc) và đều có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy, biến phụ thuộc phân thành 5 nhóm là hợp lí, không thể gộp chung để phân tích, prob> chi2=0.235 chứng tỏ rằng phương trình hồi quy của những phân loại song song nhau (nghĩa là mô hình nghiên cứu phù hợp). Dấu và mức ý nghĩa thống kê của hệ số ước lượng mô hình Ordered logit cho thấy chiều hướng tác động của biến độc lập lên biến kết quả học tập nhưng không thể giải thích chi tiết cho từng nhóm phân loại, từ hệ số này cũng cho thấy giả thuyết nghiên cứu H2, H3, H5 bị bác bỏ (với mức ý nghĩa thống kê 5%, vì trị xác suất lớn hơn 5%) và giả thuyết nghiên cứu H1, H4 được chấp nhận (vì trị xác suất nhỏ hơn 5%). Đối với tỉ số khả dĩ (Odds) cho biết ở mỗi phân loại khi biến độc lập tăng lên một đơn vị thì biến phụ thuộc thay đổi bao nhiêu. Ví dụ đối với biến tự học có tỉ số khả dĩ bằng 3,272 nghĩa là nếu thời gian tự học tăng lên 1 giờ thì tại mỗi phân loại kết quả học tập tăng cao hơn hoặc bằng 3,272. Để giải thích sự ảnh hưởng của biến độc lập lên từng phân loại thì cần phải căn cứ vào hệ số tác động biên (xem bảng 4 trang bên). Kết quả bảng 4 cho thấy tổng hệ số tác động biên của từng biến đều bằng không. Trong đó, sự kì vọng của phụ huynh, tự điều chỉnh bản thân và thái độ của SV đối với trường không ảnh hưởng đến kết quả học tập của SV. Bốn biến còn lại có ảnh hưởng lên kết quả học tập của từng nhóm nhưng với mức độ khác nhau, cụ thể: Biến thời gian tự học: Thời gian tự học có ý nghĩa thống kê trên tất cả 5 nhóm, trong đó nhóm có học lực yếu chịu ảnh hưởng thấp nhất (-0.0008), nghĩa là nếu những SV thuộc nhóm học lực yếu tăng thời gian tự học lên 1 (giờ) thì khả năng thay đổi học lực từ yếu sang trung bình yếu khoảng 0,08% (giả sử các yếu tố khác không đổi). Trong khi đó, những SV thuộc nhóm học lực trung bình nếu tăng thời gian tự học lên 1 (giờ) thì khả năng thay đổi từ nhóm trung bình sang nhóm khá là 27,93%. Những SV thuộc nhóm giỏi, nếu thời gian tự học tăng lên 1 giờ thì kết quả học tập sẽ tăng khoảng 0,79%. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 48-54 53 Biến giới tính: Kết quả nghiên cứu cho thấy, học lực của nhóm yếu không bị ảnh hưởng bởi giới tính, nghĩa là kết quả học tập của SV nam và nữ không có sự khác biệt. Một phát hiện thú vị là trong nhóm có học lực trung bình yếu và trung bình thì SV nam có học lực tốt hơn SV nữ, ngược lại nhóm học lực khá và giỏi thì SV nữ có học lực tốt hơn SV nam. Biến tự đánh giá mục tiêu: Đánh giá mục tiêu đề ra có ý nghĩa trên cả 4 nhóm, ví dụ với nhóm có học lực trung bình nếu điểm đánh giá mục tiêu tăng lên 1 thì khả năng thay đổi học lực từ nhóm trung bình sang nhóm khá tăng khoảng 34,69% (giả sử các yếu tố không đổi). Với ý nghĩa như vậy xét đối với nhóm có học lực yếu có thể suy ra rằng nhóm này chưa thật sự làm tốt việc đặt và đánh mục tiêu học tập. Những SV thuộc nhóm giỏi, nếu điểm tự đánh giá mục tiêu học tập tăng lên 1 đơn vị thì kết quả học tập sẽ tăng khoảng 0,98%. Biến thái độ đối với GV: Biến này tác động lên kết quả học tập của tất cả 5 nhóm phân loại. Nếu một SV có học lực trung bình yếu nhưng có điểm thái độ đối với GV tăng lên 1 (tốt hơn so với trước) thì khả năng thay đổi kết quả học tập từ nhóm trung bình yếu sang trung bình là 1,55% (giả sử các yếu tố khác không đổi). Những SV thuộc nhóm giỏi, nếu thái độ đối với GV tăng lên 1 đơn vị thì kết quả học tập sẽ tăng khoảng 0,87%. 3. Kết luận Kết quả nghiên cứu những nhân tố tác động đến kết quả môn Tiếng Anh của SV (không chuyên ngữ) tại các trường đại học ngoài công lập tại TP. Hồ Chí Minh bằng phương pháp định lượng đã cho thấy kết quả môn Tiếng Anh chịu ảnh hưởng bởi 4 nhân tố gồm, giới tính, thời gian tự học, đặt mục tiêu và thái độ của SV đối với GV. Để SV đạt kết quả tốt hơn đối với học phần Tiếng Anh, có thể thực hiện một số giải pháp sau: SV cần đặt mục tiêu của việc học tiếng Anh cho bản thân một cách hợp lí với hoàn cảnh cụ thể, mục tiêu phải khả thi, thích hợp và phải đo lường được, qua đó cần bám sát mục tiêu đề ra để lập kế hoạch quyết tâm thực hiện nó; SV cần trang bị tốt kĩ năng quản lí thời gian, phân bổ thời gian hợp lí để tăng thời gian tự học. Ngoài thời gian trên lớp, SV cần tích cực tham gia các câu lạc bộ tiếng Anh để có cơ hội rèn luyện các kĩ năng tốt hơn; SV cần hình thành thái độ tích cực đối với GV, thể hiện bằng sự tôn trọng, tuân thủ và hoàn thành tốt các nhiệm vụ GV giao, chủ động tham gia bài giảng một cách tích cực, thảo luận, tranh luận cùng với GV để tiếp nhận kiến thức được tốt nhất và sâu sắc nhất. Tài liệu tham khảo [1] Vũ Thị Phương Anh - Nguyễn Bích Hạnh (2005). Năng lực tiếng Anh của sinh viên các trường đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh trước yêu cầu của một nền kinh tế tri thức: thực trạng và những giải pháp. Báo cáo hội thảo khoa học Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr 14-16. [2] R Mitchell,. - Myles, F. (2004). Second language learning theories (2nd ed.). London: Hodder Arnold. [3] Krashen, S. (1981). Second language acquisition and second language learning. New York: Pergamon. [4] Krashen, S. (1982). Principles and practices in second language acquisition. New York: Pergamon. [5] Krashen, S. (1985). The input hypothesis: issue and implications. Harlow: Longman. [6] Bandura, A. (1997). Self-Efficacy: The Exercise of Control. New York: Freeman. [7] Brockett, R. G., - Hiemstra, R. (1991). Self-direction in adult learning: Perspectives on theory, research, and practice. New York: Routledge. [8] Soulsby (2009). Assessment Notes. University of Connecticut. [9] Suskie, L. (2004). Assessing student learning: A common sense guide (2nd edition). Jossey - Bass. Bảng 4. Hệ số tác động biên của mô hình Ordered logit Biến Yếu Trung bình yếu Trung bình Khá Giỏi Thời gian tự học -0.0008* -0.0140** -0.2793** 0.2863** 0.0079** Giới tính 0.0004 0.0067** 0.1338*** -0.1371** -0.0038* Tự đánh giá mục tiêu -0.0010* -0.0174*** -0.3469** 0.3555** 0.0098** Thái độ đối với GV -0.0009* -0.0155** -0.3083** 0.3159** 0.0087** Thái độ đối với trường -0.0001 -0.0022 -0.0443 0.0454 0.0012 Điều chỉnh -0.0001 -0.0010 -0.0203 0.0208 0.0006 Phụ huynh 0.0001 0.0014 0.0280 -0.0287 -0.0008 (Nguồn: Kết quả xử lí từ Stata 14, *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1) VJE Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 48-54 54 [10] Schunk, D. H. (2000). Learning theories: An educational perspective (3rd ed.). Upper Saddle, New Jersey: Prentice-Hall, Inc. [11] Urdan, T. C. (1997). Examining the relations among early adolescent students' goals and friends' orientation toward effort and achievement in school. Contemporary Educational Psychology, Vol. 22(2), pp. 165-191. [12] Pintrich, P. R. (2003). A motivational science perspective on the role of studentmotivation in learning and teaching contexts. Journal of Educational Psychology, Vol. 95(8), pp. 667-686. [13] Zimmerman, B. J. (2002). Becoming a self- regulated learner: An overview. Theory into Practice, Vol. 41(2), pp. 64-67. [14] Lagiurxki A.Ph. (1975). Tâm lí học đại cương và thực nghiệm. NXB Giáo dục. [15] McCoach, D. B. - Siegle, D. (2003). Factors that differentiate underachieving gifted students from high-achieving gifted students. Gifted Child Quarterly, Vol. 47(2), pp. 144-154. [16] Majoribanks, K. (1992). The predictive validity of attitudes towards school scale inrelation to children’s academic achievement. Educational and Psychological Measurement, Vol. 52(1), pp. 945-949. [17] Bruns, J. H. (1992). They can but they don’t. New York: Viking Penguin. [18] Davis-Kean, P. E. (2005). The influence of parent education and family income on child achievement: The indirect role of parental expectations and the home environment. Journal of Family Psychology, Vol. 19(2), pp. 294-304. [19] Chidolue M. E. (1996). The relationship between teacher characteristics, learning environment and student achievement and attitude. Studies in Educational Evaluation, Vol 22(3), pp. 263-274. [20] Catsambis, S. (2001). Expanding knowledge of parental involvement in children’ssecondary education: Connections with high school seniors’ academic success. Social Psychology of Education, Vol. 5(2), pp. 149-177. [21] Okagaki, L. - Frensch, P. A. (1998). Parenting and children's school achievement:multiethnic perspective. American Educational Research Journal, Vol. 35(1), pp. 123-144. [22] Rennis Likert (1932). A technique for the measurement of the attitudes. New York. [23] Urdan, T.C. (2004). Predictors of academic self- handicapping and achievement:Examining achievement goals, classroom goal structures, and culture. Journal of Educational Psychology, Vol. 96(2), pp. 251-264. [24] Bộ GD-ĐT (2017). Số liệu thống kê giáo dục đại học năm 2016-2017. [25] Husain Salilul Akareem - Syed Shahadat Hossain (2012). Perception of education quality in private universities of Bangladesh: a study from students’ perspective. Journal of Marketing For Higher Education, Vol. 22, No 1, pp. 11-33. [26] Suleyman M. Yildiz (2012). Service quality evaluation in the school of physical education and sports: An empirical investigation of students' perceptions. Total Quality Management, Vol. 25, No. 1, pp. 80-94. [27] Long, J. S. - Freese, J. (2006). Regression models for categorical dependent variables using stata (2nd ed.). College Station, TX: Stata Press. [28] Long, J. S. - Freese, J. (2014). Regression models for categorical dependent variables using stata (3rd ed.). College Station, TX: Stata Press. KĨ NĂNG HỢP TÁC VÀ CÁC GIAI ĐOẠN (Tiếp theo trang 20) Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Như Ý (chủ biên, 2011). Đại Từ điển Tiếng Việt. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. [2] Vũ Dũng (chủ biên, 2008). Từ điển Tâm lí học. NXB Từ điển Bách khoa. [3] Lưu Thị Thu Hằng (2017). Xây dựng các mô hình hợp tác nhằm hình thành kĩ năng hợp tác cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 12, tr 9-12. [4] Vũ Thị Nhân (2016). Giáo dục kĩ năng hợp tác trong trò chơi đóng vai có chủ đề cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non. Luận án tiến sĩ Khoa học Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [5] Vũ Thị Nhâm (2013). Tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường mầm non. NXB Cao đẳng Mẫu giáo Trung ương 3. [6] Nguyễn Thị Hòa (2015). Tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường mầm non. NXB Đại học Sư phạm. [7] Vũ Thị Nhân (2016). Những biểu hiện kĩ năng hợp tác của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong các hoạt động ở trường mầm non. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 5, tr 104-106. [8] Bộ GD-ĐT (2011). Chương trình giáo dục mầm non. NXB Giáo dục Việt Nam. [9] Bộ GD-ĐT (2011). Quy định về Bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi (Ban hành kèm theo Thông tư số 23/2010/TT-BGD-ĐT ngày 22/07/2010 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
File đính kèm:
- ung_dung_mo_hinh_hoi_quy_logit_thu_bac_phan_tich_ket_qua_hoc.pdf