Vai trò của tín ngưỡng dân giantrong đời sống của ngư dân đảo Phú Quốc

Tóm tắt

Bài viết này, nhằm giới thiệu những dạng thức tín

ngưỡng liên quan đến hoạt động trên biển của ngư

dân Phú Quốc đồng thời cũng nêu lên vai trò của tín

ngưỡng dân gian trong đời sống của ngư dân đảo

Phú Quốc. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi

tiến hành điền dã (fieldwork) từ năm 2011-2014 để

ghi chép các hoạt động tín ngưỡng diễn ra tại đây.

pdf 8 trang yennguyen 2240
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của tín ngưỡng dân giantrong đời sống của ngư dân đảo Phú Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của tín ngưỡng dân giantrong đời sống của ngư dân đảo Phú Quốc

Vai trò của tín ngưỡng dân giantrong đời sống của ngư dân đảo Phú Quốc
64
64
Kinh tế - Văn hóa – Giáo dục
 Số 22, tháng 7/2016
VAI TRÒ CỦA TÍN NGƯỠNG DÂN GIANTRONG ĐỜI SỐNG
 CỦA NGƯ DÂN ĐẢO PHÚ QUỐC
THE FOLK BELIEFS IN LIFE OF FISHERMEN IN PHU QUOC ISLAND
Tóm tắt
Bài viết này, nhằm giới thiệu những dạng thức tín 
ngưỡng liên quan đến hoạt động trên biển của ngư 
dân Phú Quốc đồng thời cũng nêu lên vai trò của tín 
ngưỡng dân gian trong đời sống của ngư dân đảo 
Phú Quốc. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi 
tiến hành điền dã (fieldwork) từ năm 2011-2014 để 
ghi chép các hoạt động tín ngưỡng diễn ra tại đây.
Từ khóa: tín ngưỡng dân gian, ngư dân đảo 
Phú Quốc, Bà Cậu, tín ngưỡng Cá Voi, Mẫu và 
Nữ thần.
Abstract
This article aims at introducing the kinds of 
belief which are related to activities of fishermen 
in Phu Quoc Island, and also introducing the role 
of folk religion in life of fishermen in Phu Quoc 
Island. During the study we conducted fieldwork 
from 2011-2014 in order to record these religious 
activities. 
Keywords: folk beliefs, the fishermen of Phu 
Quoc Island, Ba Cau, Whale worship, Model and 
Goddess.
1. Vài nét về Phú Quốc1
Đảo Phú Quốc có hình tam giác, cạnh đáy nằm 
ở Bắc đảo, nhỏ dần lại ở phía Nam. Địa hình tự 
nhiên thoai thoải chạy theo hướng Bắc - Nam, 
chiều dài lớn nhất của đảo là 49km; nơi rộng nhất 
ở khu vực Bắc đảo với chiều dài là 27km, nơi hẹp 
nhất phía Nam đảo 3km.
Theo thống kê của Ủy Ban Nhân Dân huyện 
Phú Quốc năm 2010, dân số trên đảo là 92,574 
người, người Việt (87,966), đứng thứ hai là người 
Hoa (1,851) kế đến là người Khemer (801) và một 
số là dân tộc khác. Dân cư sống tập trung dọc theo 
cửa sông Dương Đông, Cửa Cạn và một số làng 
chài ven biển như Hàm Ninh, An Thới, Bãi Sao, 
Cửa Cạn, Rạch Vẹm 
Sinh hoạt kinh tế của cư dân trên đảo chủ yếu 
là đánh bắt thủy sản nên thường gặp nguy hiểm, 
bất trắc và những thách thức từ biển. Đó chính là 
nguyên nhân có những hình thức thờ tự, cúng bái, 
kiêng kỵ,và niềm tin vào các vị thần linh che 
chở, bảo vệ họ được bình an. Vì thế, tôn giáo - tín 
ngưỡng là nhu cầu lớn lao; là chỗ dựa tinh thần 
không thể thiếu để chống lại tai họa từ thiên nhiên.
Qua khảo sát, Phú Quốc có 61 cơ sở tín ngưỡng 
và tôn giáo. Các hình thái tín ngưỡng dân gian 
được thờ như cá Voi, Mẫu và Nữ thần, thần Thành 
Hoàng, Âm linh/Cô Bác, Anh hùng dân tộc, Quan 
Công, Huê Quang Đại Đế.
2. Các hình thái tín ngưỡng dân gian
- Tín ngưỡng cá Voi
1 Thạc sĩ, Trường Cao đẳng CNC Đồng An (Bình Dương)
Tục thờ cá Ông đã trở thành tín ngưỡng dân 
gian quan trọng trong đời sống tâm linh của ngư 
dân từ Đèo Ngang (huyện Quảng Trạch, Quảng 
Bình) trở vào vùng biển phía Nam (Hà Tiên). 
Trong tâm thức của ngư dân Phú Quốc, cá Ông 
đã hóa thân thành vị thần thiêng liêng nơi biển cả, 
luôn được tôn sùng và ngưỡng mộ. Ông là một loài 
cá thần, không chỉ có vóc dáng to lớn mà còn có 
tình cảm, cảm nhận, và tâm linh như con người, 
luôn được xem như một linh vật nằm trong hệ 
thống tín ngưỡng dân gian được tôn thờ với những 
câu chuyện lưu truyền mang màu sắc thần bí. Việc 
thần thánh hóa và lịch sử hóa ấy phần nào khẳng 
định, người dân trên đảo Phú Quốc rất tin tưởng và 
coi trọng việc thờ cúng cá Ông.
Theo thống kê của chúng tôi, Phú Quốc hiện 
nay có 8 nơi thờ cá Ông. Người dân Phú Quốc 
quen gọi là “lăng Ông” hay “dinh Ông Nam Hải”. 
Đó cũng là cách gọi quen thuộc của ngư dân ven 
biển phía Nam đối với nơi thờ tự này. Để phân biệt, 
mỗi địa phương ghi trên bảng đề “lăng Ông Nam 
Hải” kèm theo địa danh tại đó như lăng Ông Nam 
Hải Đường Bào, lăng Ông Nam Hải Bàng Quỳ, 
hay lăng Nam Hải Ông Hàm Ninh, lăng Ông Nam 
Hải Xóm Cồn, lăng Ông Nam Hải Hòn Thơm...
Những nơi thờ cá Ông được xây trên vùng đất 
cao ráo, hướng chính của các lăng thường là hướng 
Đông, hướng của biển. Lăng chia làm hai phần, gian 
thờ cúng và nhà túc (nơi để đồ đạc, bếp nấu nướng 
cho ngày lễ). Trong lăng đều có ngọc cốt của Ông 
và những di vật gắn liền với quá trình tạo dựng lăng 
như lư đồng, hoành phi, liễn, câu đối, chân đèn 
Nguyễn Bình Phương Thảo1
65
65
Kinh tế - Văn hóa – Giáo dục
 Số 22, tháng 7/2016
Bảng 1. Thống kê lăng Ông Nam Hải
Lăng Ngày cúng Địa điểm
Lăng Ông Nam Hải (Xóm Cồn) 15-16/8 Âm lịch Khu phố 3, TT Dương Đông
Lăng Ông Nam Hải (Đường Bào) 15/5 Âm lịch Ấp Đường Bào, xã Dương Tơ
Lăng Ông Nam Hải 17-18/1 Âm lịch Ấp Lê Bát, xã Cửa Cạn
Lăng Ông Nam Hải 22/3 Âm lịch Ấp Rạch Tràm, xã Hàm Ninh
Dinh Ông Nam Hải
Miếu Bà Lăng Ông Thổ Chu
Lăng Ông Nam Hải Bàng Quỳ
Lăng Ông Nam Hải
21/3 Âm lịch
15-16/8 Âm lịch
15/5 Âm lịch
15-16/AL
KP2, thị trấn An Thới
Xã Thổ Chu
Xã Dương Tơ
Xã Hòn Thơm
Nguồn: Tổng hợp tư liệu điền dã (2013)
Phần lớn các lăng Ông ở Phú Quốc đều có một 
đặc điểm chung là được xây dựng bên cạnh dinh 
Bà như lăng Ông Hàm Ninh cạnh dinh Bà Thủy 
Long Thánh Mẫu, dinh Ông Cửa Cạn cạnh dinh 
Bà Kiêm Giao thần Nữ, lăng Ông Thổ Chu cạnh 
dinh Bà Chúa Xứ Vì người dân ở Phú Quốc 
quan niệm “cúng Ông thì phải kiếng Bà”, nhằm 
cầu mong được bình an và thu hoạch nhiều sản vật 
trong mỗi chuyến ra khơi.
Hằng năm, ở mỗi lăng đều tổ chức lễ Nghinh 
Ông. Lễ hội gồm nhiều nghi thức như lễ Nghinh 
thần Nam Hải, Nghinh thần Thành Hoàng, cầu 
Quốc thái Dân an, Tỉnh Sanh, tế Tiền hiền, tế Âm 
linh/Cô Bác và lễ Chánh tế  Trong hàng loạt các 
nghi thức, nghi thức Nghinh Ông, Tỉnh Sanh và 
Chánh tế là quan trọng hơn cả.
Lễ hội cá Ông ở Phú Quốc trước đây, thường có 
hát bả trạo. Nhưng khoảng 30-40 năm trở lại đây 
hát bả trạo không còn nữa vì phần lớn các lão ngư 
biết múa và hát bả trạo đã qua đời; mặt khác do 
điều kiện sống trước đây gặp nhiều khó khăn nên 
việc lưu giữ và truyền dạy cho con cháu còn nhiều 
hạn chế. Tuy nhiên, tại Xóm Cồn có tổ chức loại 
hình văn nghệ dân gian khá độc đáo, đó là “hát Bài 
chòi” để ca ngợi công đức Ông. Vì phần lớn ngư 
dân ở Xóm Cồn là ngư dân Bình Định nên việc 
“hát Bài chòi” hay “chơi Bài chòi” là nét văn hóa 
dân gian độc đáo của họ.
- Tín ngưỡng thờ Mẫu và nữ thần
Đây là dạng tín ngưỡng có nguồn gốc từ lâu 
đời. Trong sách Gia Định thành thông chí (1820) 
đề cập rất sớm việc thờ nữ thần: “Nhiều người 
trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù hàng 
phụ nữ cũng thế, có nhiều giai nhân mỹ nữ, mà 
trong hạng người giàu sang, trường thọ khôn khéo 
cũng có xuất hiện tên tuổi của giới phụ nữ. Họ hay 
chuộng đạo Phật, tin việc đồng bóng, kính trọng 
nữ thần, như: bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động (quen 
gọi người phụ nhân tôn quý bằng Bà), bà Hỏa 
Tinh, bà Thủy Long, và cô Hồng, cô Hạnh.” (Trịnh 
Hoài Đức 1972: tr.4)
Phú Quốc có 15 cơ sở thờ Mẫu và Nữ thần.
Tín ngưỡng thờ Mẫu đóng một vai trò quan 
trọng trong đời sống của ngư dân ở các làng chài 
Phú Quốc. Trong đó, nổi bật lên tín ngưỡng Thủy 
Long Thánh Mẫu, tín ngưỡng Bà-Cậu, đây là loại 
hình tín ngưỡng được cư dân Việt mang theo trên 
bước đường khai phá vùng đất mới.
* Tín ngưỡng Thủy Long Thánh Mẫu
Thủy Long Thánh Mẫu là thần Nước. Bà được 
gọi với nhiều tên khác nhau như Bà Thủy Tề, Bà 
Thủy, Thủy Đức Thánh Phi, Thủy Long Thần Nữ 
Theo Ngô Đức Thịnh, Bà là vị thần vừa ác, vừa 
thiện: “Vị thần này thể hiện tính lưỡng diện, một 
mặt, Bà là nơi ngư dân gửi gắm sự bảo trợ của 
mình trong mỗi chuyến đi biển đầy thách thức và 
Bảng 2. Hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu ở Phú Quốc
Cơ sở thờ tự Địa điểm Ngày cúng Đối tượng thờ cúng
Miếu Bà Chúa Xứ Ấp Thổ Chu, xã Thổ Chu 23-27/4 Âm lịch Mẹ xứ sở
Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu KP 2, thị Trấn Dương Đông 20-21/2 Âm lịch Mẫu Thoải
Đức Mẫu Hạnh Cung Ấp Suối Cát, xã Cửa Dương 8,18,28 hằng tháng Mẫu Thoải
Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu Ấp Rạch Hàm, Hàm Ninh 23/3 Âm lịch Mẫu Thoải
Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu Ấp Hòn Thơm, xã Hòn Thơm 20-21/2 Âm lịch Mẫu Thoải
Dinh Cậu Kp2, thị trấn Dương Đông 16/11 Âm lịch
Bà Chúa Ngọc và thờ 
Cậu
Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu Ấp Lê Bát, xã Cửa Cạn 20-21/2 Âm lịch Mẫu Thoải
Nguồn: Tổng hợp tư liệu điền dã (2013)
66
66
Kinh tế - Văn hóa – Giáo dục
 Số 22, tháng 7/2016
may rủi, mặt khác, nếu làm điều gì “xúc phạm” tới 
Bà, như thả các vật dụng xuống “thủy cung”, cứu 
người đã bị Bà dìm chết để trừng phạt, không làm 
các nghi lễ “vớt vong” hay “chuộc vong” thì Bà 
lại trở thành vị ác thần đáng sợ!”. (Ngô Đức Thịnh 
2007, tr. 96)
Phú Quốc có bốn nơi thờ Thủy Long Thần nữ, 
ngư dân còn gọi bằng mỹ tự “Thủy Long Thánh 
Mẫu” kèm theo địa danh như dinh Bà Thủy Long 
Thánh Mẫu Dương Đông, dinh Bà Thủy Long 
Thánh Mẫu Hàm Ninh, dinh Bà Thủy Long Thánh 
Mẫu Hòn Thơm và dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu 
Cửa Cạn.
Dinh Bà Thủy Long Thánh có nguồn gốc từ 
khoảng thế kỷ XVII, khi có những nhóm ngư dân 
từ miền Trung vào Phú Quốc đánh bắt và định cư 
tại đảo. Dinh Bà được xây dựng tại cửa sông, gồm 
có chánh điện và nhà khói. Bên trong chánh điện 
đặt tượng Bà, bài vị bằng chữ Quốc ngữ ghi “Bà 
Thủy”, hai bên là Tả-Hữu ban. Dinh có linh tượng 
Bà bằng xi măng, được sơn son thếp vàng trông 
rất tinh xảo. 
Trong quá trình điền dã, chúng tôi nhận thấy Bà 
Thủy ở Hàm Ninh chính là Bà Thiên Hậu. Đó là 
kết quả của quá trình giao lưu văn hóa giữa người 
Việt và người Hoa Hải Nam. Ở dinh còn nhiều 
dấu tích cho thấy, đây là nơi thờ Bà Thiên Hậu do 
nhóm người Hoa Hải Nam lập nên để thờ phụng 
như ngày cúng Bà Thủy là 23/3 trùng với ngày 
cúng Bà Thiên Hậu: “Trước đây dinh này cúng 
ngày 22/2 Âm lịch nhưng sau đó Bà “đạp đồng” 
về không cho cúng ngày này mà phải cúng ngày 
23/3 Âm lịch.
Bên trong chánh điện còn có một chiếc thuyền 
nhỏ và tấm liễn do nhóm người Hoa Hải Nam dâng 
cúng vào năm 1902 trên đó có ghi “chữ Tâm” bằng 
Hán tự cho miếu để tạ ơn Bà. Đó chính là tâm thức 
mà họ còn giữ gìn từ truyền thống của cha ông khi 
vượt biển sang đây định cư thành công. 
Trong quá trình chung sống, người Việt đã tiếp 
nhận và đổi tên thành dinh Bà Thủy cho phù hợp 
với tín ngưỡng của cư dân vùng hải đảo. Mặc dù đã 
có sự biến đổi về đối tượng thờ cúng, nhưng yếu tố 
cốt lõi của tín ngưỡng không hề thay đổi. Đó chính 
là vị trí của thần biển. Trong tâm thức của người 
dân, đó là vị thần phù hộ cho người đi biển.
* Tín ngưỡng Bà Cậu
“Tục thờ Bà-Cậu hay tín ngưỡng thờ Bà-Cậu 
là tín ngưỡng được ngư dân miền Trung đưa vào 
Phú Quốc khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ 
XVIII. Tín ngưỡng này thuộc mô típ thờ Mẫu dưới 
thần hiệu Thiên Y Ana Diễn Ngọc Phi, được triều 
Nguyễn sắc phong là Thượng Đẳng thần Thiên 
Y Ana được phối thờ cùng hai người con Trai là 
Cậu Trài (Tài) – Cậu Quý, gọi là thở Bà Cậu”. 
(Nguyễn Bình Phương Thảo 2016, tr. 56)
Ngư dân Phú Quốc rất tin tưởng vào Bà-Cậu và 
họ gọi nghề “hạ bạc” đi biển đánh cá của mình là 
nghề Bà-Cậu. Bà-Cậu là dạng tín ngưỡng phổ biến 
nhất của dân chài ở vùng biển Nam Bộ, hầu hết 
ghe tàu nào cũng thờ Bà-Cậu với những kiêng kỵ 
và cúng kiếng trang trọng. Bàn thờ Bà-Cậu đặt ở 
trước mũi ghe với bài vị được viết bằng chữ Hán là 
“母 聖 龍 水-Thủy Long Thánh Mẫu” hay “母 
聖 娘娘-Thánh Mẫu Nương Nương”. 
Khi xuất bến, các chủ ghe cho ghe neo đậu 
trước Dinh Cậu để cúng bái. Theo những vị cao 
niên sống tại Phú Quốc, trước đây Dinh Cậu2 thờ 
Long Vương và thần Nam Hải, về sau ngư dân tạc 
tượng thờ Bà chúa Ngọc và hai con trai của bà. 
Vì Cậu Tài-Cậu Quí thường hiển linh, giúp đỡ và 
phù hộ cho những người đi biển nên hai cậu giữ 
một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của 
họ. Chính vì thế miếu Long Vương đổi tên thành 
Dinh Cậu.
Kiến trúc Dinh Cậu hình chữ “đinh”, hướng 
biển, mái cong hình thuyền và cửa chính được làm 
bằng gỗ trên vòm cửa có khắc ba chữ “Thạch Sơn 
Điện”. Tường được xây dựng bằng xi măng, mái 
được lợp ngói âm-dương, phía trên nóc mái có 
hình “lưỡng long tranh châu”. Tại Dinh Cậu còn 
lưu giữ nhiều câu đối thể hiện vị thế uy nghiêm của 
Dinh Cậu như: “坐 在 石 頭 龜名 顯, 振 風 
平 涼 保良 民” (Tọa tại thạch đầu quy danh hiển, 
Chấn phong bình lảng bảo lương dân), tạm dịch 
(Nằm trên tảng đá đầu rùa hiển linh, Che chắn 
sóng gió bảo vệ dân lành”.
Theo lời kể của người dân Phú Quốc, bất kỳ ngư 
dân nào khi ra khơi đánh bắt hải sản, gặp sự cố trên 
biển, hoặc đóng một ghe mới đều phải van vái “Bà-
Cậu” cầu mong được phù hộ, độ trì. Khi nhận được 
vận may như đánh bắt được đầy ắp cá, tôm hay bán 
buôn thuận lợi, ngư dân cũng không quên cảm 
tạ Bà-Cậu. Nếu gặp sự cố khi ra khơi, hay buôn 
bán thất bại thì người ta thường cho là Bà-Cậu 
quở, Bà-Cậu trách phạt... Những lúc như thế, họ 
mang lễ vật đến Dinh Cậu để dâng cúng, thường 
2 Dinh Cậu xây dựng 14-7-1937 và trùng tu 14-7-1997
67
67
Kinh tế - Văn hóa – Giáo dục
 Số 22, tháng 7/2016
là cặp vịt –cặp gà, trái cây. Vì theo quan niệm 
của họ, “Ông cúng gà, bà cúng vịt”3 để cầu mong 
cho những chuyến đi được bình an và thuận lợi.
Lễ hội Dinh Cậu được tổ chức một lần vào ngày 
15-16 tháng 10 Âm lịch hằng năm. Đây là một lễ 
hội được hình thành rất sớm của cộng đồng ngư 
dân Phú Quốc, nhằm thể hiện lòng tôn kính với 
thần linh. Vào ngày lễ hội, không chỉ ngư phủ mà 
đông đảo người dân tụ hội về đây để thắp hương 
cầu mong mưa hòa gió thuận, trời yên biển lặng, 
được mùa tôm cá và mọi nhà có cuộc sống an vui, 
hạnh phúc. 
* Tín ngưỡng Kiêm Giao Thần nữ
Kiêm Giao thần nữ gắn liền với quá trình khai 
phá vùng đất Cửa Cạn ở Phú Quốc. Sự tích về Bà 
được miêu tả trong cuốn “La Cochinchine et ses 
habitant (provinces de l’ouest)-Nam kỳ và dân cư, 
xuất bản năm 1894, như sau:
“Một phụ nữ An Nam tên là Kiêm Giao, rất 
giàu có, đã sống ở Phú Quốc cùng với người phục 
vụ là người Cao Miên và người An Nam mà Bà 
thuê. Khu di dân mới này có tên là Phước Lộc 
(Cửa Cạn).
Ngay từ buổi sơ khai của khu đất này, người 
dân ở đây bắt đầu trồng lúa vì đất ở đây rất thuận 
lợi (theo như Kiêm Giao nhận xét). Bà gửi một số 
người phục vụ của mình vào đất liền để mua trâu. 
Độ 50 con thú nuôi được 50 con thú nuôi được 
chuyển đến Phước Lộc. Người ta sử dụng chúng 
để khai hoang khu đất rộng lớn.
Kiêm giao chưa bao giờ rời đảo và đã chết ở 
Phước Lộc lúc 70 tuổi. Vài ngày trước khi chết, B 
đã gọi tất cả người phục vụ lại và nói rằng: “Tôi 
sẽ để lại của cải cho mọi người, nhưng với điều 
kiện, mọi người phải hứa với tôi rằng sau khi tôi 
chết, hãy thả những con trâu của tôi lên núi và 
không được trồng gì trên ruộng lúa của tôi”.
Nếu ai đó được nghe câu chuyện này, người ta 
sẽ nhận thấy rõ số lượng con trâu hoang dã đúng 
như câu chuyện vừa kể. Và những con trâu này 
đến ngày nay vẫn còn trên đảo Phú Quốc. 
Di tích về Kiêm Giao được những di dân gìn 
giữ tôn thờ đến ngày nay. Nơi đây đã được vua Gia 
Long đặt tên là Phú Quốc” (Nguyễn Xuân Hoài 
2012, tr. 23).
Dinh Kiêm Giao Thần nữ nằm cạnh dinh Ông 
3 Thông tin do anh Hậu, người trong coi Lăng Ông Nam Hải, Đường 
Bàu, Phú Quốc cung cấp (do tác giả phỏng vấn)
Bổn, dinh Ông Nam Hải, mặt dinh hướng ra sông 
Cửa Cạn. Cũng giống như những nơi thờ tự khác 
trên đảo, dinh Bà được lợp bằng tôn, tường bằng 
xi măng cốt thép. Kiến trúc dinh tương đối đơn 
giản, không có cổng tam quan, cũng không cầu kỳ 
với những họa tiết đắp nổi hình lưỡng long chầu 
nguyệt. Bên ngoài là khoảng sân rộng có bàn thờ 
thiên và bàn thờ Thổ Công, cùng biểu tượng chú 
trâu đang nằm gặm cỏ với phong  ...  thường, có khả năng chi phối đến đời 
sống của con người. Theo quan điểm của Phật 
giáo, cô hồn gồm có “tứ sanh và lục đạo”, thường 
gọi là “thập loại cô hồn”. Tại Phú Quốc, vì có sự 
tôn trọng nên người dân gọi là Âm linh–Cô bác và 
họ thờ cúng loại hình này để cầu mong sự che chở, 
phù hộ và tránh sự trừng phạt. 
Việc thờ tự những âm linh này tương đối đơn 
giản. Chỉ một ngôi miếu nhỏ đặt trong khuôn viên 
của lăng, dinh, hoặc đình; hay đặt cạnh cửa biển, 
cửa sông hoặc một góc nhỏ trên ghe, thuyền. Thờ 
cúng Âm linh/Cô Bác của cư dân Phú Quốc thể 
hiện ở hai cấp độ: gia đình và làng chài, với nhiều 
nghi lễ khá phức tạp. Trong khuôn khổ của bài 
viết, chúng tôi chỉ đề cập đến nghi lễ, cúng kiếng 
Âm linh/Cô bác liên quan đến biển và mang tính 
cộng đồng thông qua lễ Xô Đụng tại Sùng Hưng 
Cổ Tự, ở thị trấn Dương Đông, Phú Quốc. Đây là 
lễ cúng dành cho những âm linh có quyền năng chi 
phối đáng kể đến đời sống tâm linh con người và 
nghề biển.
Lễ Xô Đụng, còn gọi là Cổ Đụng diễn ra tại 
chùa Sùng Hưng vào dịp Rằm tháng 7 (gồm 2 
ngày: 15 và 16 tháng 7). Đây là lễ lớn nhất, thu 
hút hầu hết cư dân đang sống và làm việc trên đảo 
đến tham dự. Theo giải thích của các vị sư trong 
chùa Sùng Hưng, mục đích chính của lễ Xô Đụng 
là kỷ niệm ngày vía của Địa Tạng Vương Bồ Tát. 
Đây là lễ nhằm xưng tụng công đức xả thân cứu 
độ vong hồn của đức Địa Tạng, và cũng cầu mong 
đức Địa Tạng cứu vớt linh hồn cho các chiến sĩ 
trận vọng, đồng bào chết khô, chết nạn, chết cạn 
và chết bất thường được siêu thoát, không còn “vất 
vơ, vất vưởng” trên thế gian để khỏi “quấy phá” 
người dân. 
Theo người dân, họ tham gia lễ này nhằm mục 
đích cầu khấn cho sự bình an của gia đình và công 
việc được thuận lợi. Vì theo họ, lễ Xô Dụng trong 
69
69
Kinh tế - Văn hóa – Giáo dục
 Số 22, tháng 7/2016
dịp Rằm tháng 7 là dành cho các âm linh, nên cần 
dâng lễ cầu khấu họ phù hộ. 
Lễ Cổ Đụng nằm trong đời sống tâm linh của 
người dân trên đảo, bởi quan điểm “có thờ có 
thiêng, có kiêng có lành” đã ăn sâu trong suy nghĩ 
của người dân đi biển với nhiều bất trắc xảy ra. 
Họ nguyện, cầu và mong muốn sự bình an. Lễ Cổ 
Đụng chính là dịp để họ thể hiện mong muốn đó 
và cũng là dịp để họ trả ơn cho Âm linh – Cô bác 
mà họ đã tin tưởng. 
- Tín ngưỡng thờ Anh hùng dân tộc
Anh hùng dân tộc được người dân ở Phú Quốc 
thờ tự là ông Nguyễn Trung Trực (1837-1868). Sau 
khi hành quyết, thực dân Pháp ra lệnh ngăn cấm 
việc thờ tự Ông. Tuy nhiên, người dân Rạch Giá 
nói riêng và Tây Nam Bộ nói chung vẫn tìm cách 
thờ Ông dưới hình thức phối tự trong các đình. Sau 
giải phóng, người dân xây đình riêng để thờ Ông 
tại nhiều tỉnh thành ở Tây Nam Bộ như Long An, 
An Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang Nhưng có lẽ 
so với quê nhà Long An, những người dân Rạch 
Giá đã chứng kiến cái chết can đảm của ông với 
câu nói bất hữu “Chừng nào xứ này còn cỏ mọc 
thì còn người đánh Tây”. Họ đã đưa Ông vào thờ 
tại miếu cá Ông. Trải qua thời gian, Ông trở thành 
vị chánh thần của đình, trở thành một vị thần do 
“dân sắc phong”. Sắc thần không ghi tên tuổi ông 
vì sắc ban ra 18 năm trước nhưng lòng dân hợp với 
lòng Trời, mặc nhiên trở thành chân lý bất di bất 
dịch. Và ở Kiên Giang lần hồi mọc lên nhiều đình 
làng, nơi vừa khẩn hoang thời Pháp để thờ Nguyễn 
Trung Trực, cúng tế trọng thể. Theo nhà văn Sơn 
Nam, “không có sắc vua phong nhưng vẫn linh 
ứng (theo nghĩa hợp lòng dân).
Ở Phú Quốc, Ông được thờ trong hai đền; một 
ở xã Gành Dầu, và một ở Búng Ghe Lương (xã 
Cửa Cạn). Đây là những nơi mà Ông từng lập căn 
cứ kháng chiến.
Đình xây dựng theo chữ Tam nằm trên khu đất 
rộng 2000m2, nhìn từ ngoài vào trong gồm có cổng 
tam quan được xây dựng bằng xi măng, đắp nổi 
hình lưỡng long tranh châu. Bên trái là khu nhà 
thuốc nam, nơi bốc thuốc và chữa bệnh miễn phí 
cho dân nghèo; bên phải là vỏ ca và khu vực bán 
hàng lưu niệm. Đi thẳng vào trong, sau tấm bình 
phong là chánh điện thờ Nguyễn Trung Trực, hai 
bên trái phải là Đông lang - Tây lang và nhà khói. 
Trước cửa chánh điện là lư hương bằng đá. Ngoài 
ra còn thờ thần Nam Hải và Phó cơ Nguyễn Hiền 
Điều cùng 30 vị anh hùng liệt sĩ đã cùng tham gia 
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Hiện nay, đối với dân Phú Quốc, ông Nguyễn 
Trung Trực không chỉ được tôn vinh là anh hùng 
dân tộc mà còn được xem là “một vị thần” có 
công bảo vệ và che chở cho người dân trên đảo, có 
quyền năng giúp đỡ những người đi biển. Điều này 
có thể là do môi trường sống chi phối mạnh mẽ 
đến tín ngưỡng của người dân nơi đây, nên từ anh 
hùng dân tộc đã trở thành vị “thần” của những dân 
chài trên đảo Phú Quốc. Do đó, họ luôn cầu khấn 
Ông mỗi khi đi biển. 
 “Khi có đền thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực, 
những ngày lễ, tết và trước những chuyến ra khơi 
Tôi và bà con trong ấp dâng những sản vật mà 
mình làm được thắp hương cho Ông và dạy bảo 
con cháu noi gương theo ông.” (Nguồn: Trích 
phỏng vấn người dân ở Gành Dầu, Phú Quốc 2013)
Đối với người dân Cửa Cạn, Ông không chỉ có 
chức năng bảo hộ cho người đi biển mà ngay cả trẻ 
nhỏ cũng được Ông che chở. Người dân Cửa Cạn 
tâm niệm Ông là thần làng chính, là thần bảo hộ 
sinh mệnh, đem lại hạnh phúc cho mỗi thành viên 
trong cộng đồng làng.
Người dân ở Phú Quốc (cụ thể là ở cửa Cạn) 
tin rằng, “khi trẻ nhỏ khóc không nín thì lấy ít ván 
từ ghe của Ông ở Búng Ghe Lương đem về mài 
nhẵn và pha vào nước cho trẻ con uống sẽ không 
khóc nữa” (Nguồn: Trích phỏng vấn người dân ở 
Cửa Cạn, Phú Quốc 2013).
Một điều rất riêng, đến ngày giỗ của Ông (ở 
Cửa Cạn và Gành Dầu tổ chức ngày 26-27 tháng 
8 Âm lịch, còn ở Búng Ghe Lương, xã Cửa Cạn tổ 
chức trước một ngày, tức là ngày 25) không ai nói 
với ai nhưng họ vẫn tụ họp về đông đủ. 
Đối với người dân Phú Quốc, ngày giỗ ông 
Nguyễn là một phần trách nhiệm không thể thiếu 
trong đời sống tinh thần của họ. Những lúc khó 
khăn thắp nén nhang xin Ông phù hộ, những lúc 
thuận lợi thắp nén nhang lạy tạ. Lễ vật dâng cúng 
Ông đa dạng và gần gũi như giỏ trái cây, bịch bột 
ngọt, cây nước đá, con cá đồ cúng giản dị như 
chính tấm lòng của họ. Hằng năm, số lượng người 
về tham dự lễ hội Ông ở Cửa Cạn và Gành Dầu 
ngày càng đông lên đến vài chục ngàn lượt người.
3. Vai trò của tín ngưỡng dân gian Phú Quốc
3.1 Chỗ dựa tâm linh của ngư dân
Có thể nói, đời sống tâm linh của cư dân đảo 
70
70
Kinh tế - Văn hóa – Giáo dục
 Số 22, tháng 7/2016
Phú Quốc được biểu hiện ở niềm tin vĩnh cửu 
của họ vào “cái thiêng”, vào “hoàn cảnh thiêng”, 
“không gian thiêng”, “thời gian thiêng”. Trong 
hoàn cảnh ấy, không gian - thời gian thiêng sẽ giúp 
con người cởi bỏ những ưu phiền, tâm hồn họ được 
giải tỏa và có thể cầu mong những đều may mắn, 
an lành đến với cuộc sống trong tương lai. Để vững 
tâm sinh sống trong thế giới đầy biến động, con 
người bắt đầu ngưỡng vọng về một lực lượng siêu 
nhiên ở bên ngoài. “Niềm tin và ngưỡng vọng ấy 
chính là tinh thần tín ngưỡng của con người xa 
xưa. Tín ngưỡng xuất hiện từ thuở đó và trong suốt 
chiều dài lịch sử nhân loại, tín ngưỡng vẫn là một 
trong những điểm tựa vững chắc - điểm tựa tâm 
linh giúp con người tồn tại và phát triển”. (Văn 
Quảng 2009: tr. 10)
Biểu hiện của tín ngưỡng rất đa dạng và phong 
phú ở mỗi dân tộc, song trên hết vẫn là mục đích 
cầu an cho cuộc sống hiện tại.
Đời sống sinh hoạt của cư dân Phú Quốc phụ 
thuộc vào biển nên đầy rẫy những mối hiểm họa 
đe dọa đến cuộc sống và tính mạng. Vì thế, nhu 
cầu tâm linh càng cao và khát vọng hòa hợp với 
tự nhiên vì một nhu cầu sống tốt đẹp hơn. Đối với 
ngư dân, cá Ông đã trở thành chỗ dựa tinh thần quý 
giá, là nơi gửi niềm tin mà lúc đầu chỉ là một nhu 
cầu giúp người ta chịu đựng gian khổ hiểm nguy 
trong cuộc sống, dần dần hằn sâu trong tiềm thức, 
trở thành tín ngưỡng dân gian. Nhu cầu tâm linh 
gắn với một niềm tin tuyệt đối vào thần ngư của 
mình. Ngư dân tin rằng, cá Ông nghe được tiếng 
người, nên khi nghe lời cầu khẩn dân chài thì Ông 
vội vàng đến và cứu ngay. Tục thờ cá Ông có vai 
trò rất lớn, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa tinh 
thần đặc sắc.
Việc lập đình thờ Thành Hoàng là chỗ dựa về 
mặt tinh thần của nhiều tầng lớp nhân dân trong 
quá trình khai mở vùng đất mới. Thần thánh ở đình 
rất trần thế, gần gũi với người dân từ thần Tài, Ngũ 
Hành Nương Nương, Cửu Thiên Huyền Nữ, cho 
đến Quan Công cùng với Thành Hoàng bổn cảnh. 
Họ đại diện cho các mặt trong cuộc sống và độ 
trì cho nhân dân tai qua nạn khỏi, mưa thuận gió 
hòa, yên tâm làm ăn sinh sống. Mọi người tới đây, 
đặt niềm tin và cầu khẩn những điều tốt lành lên 
những vị thần hữu danh và vô danh cầu mong sự 
bình yên trong tinh thần để bước vào những cạnh 
tranh mới trong đời thường. 
Thờ Mẫu và nữ thần là một tín ngưỡng bản địa 
đã được các lưu dân xác lập trên vùng đất mới. 
Sách Gia Định thành thông chí ghi:“Người Gia 
Định cũng sùng đạo Phật, tin đồng bóng, thờ nhiều 
nữ thần như Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động (tục 
gọi người phụ nữ tôn quý bằng Bà), Bà Thủy Tinh, 
Bà Hỏa Tinh, Long Cô, Cô Hồng, Cô Hạnh” 
Tục thờ Mẫu sớm trở thành nhu cầu tâm linh của 
những người đi mở đất, là chỗ dựa tình thần để 
người nông dân Nam Bộ có thêm sức mạnh, sự yên 
tâm khi đối diện với thiên nhiên còn hoang hóa, 
nhiều thách đố. (Trịnh Hoài Đức 2005: tr.19)
Tuy còn nhiều hạn chế về cơ sở vật chất, thực 
hành nghi lễ nhưng cơ bản nó đã đáp ứng được 
nhu cầu tâm linh của con người, là cầu mong được 
bình an.
Có thể thấy, những cuộc khai hoang lập ấp đầy 
gian khó, đối diện với thiên tai, dịch bệnh nhưng 
con người luôn tin tưởng vào sự che chở của các 
đấng thần linh, giúp họ có đầy đủ can đảm, nghị 
lực để vượt qua. Tín ngưỡng dân gian đã góp phần 
không nhỏ vào việc ổn định đời sống tinh thần của 
người dân Phú Quốc từ trong quá khứ kéo dài cho 
đến hiện tại. Mặc khác, tín ngưỡng dân gian giữ 
một vai trò và vị trí khá quan trọng, đáp ứng nhu 
cầu trong đời sống thường nhật của một bộ phận 
quần chúng nhân dân.
3.2. Cố kết cộng đồng 
Tín ngưỡng dân gian tồn tại, phát triển và trở 
thành nhu cầu tự nguyện của cộng đồng. Việc thực 
hiện nghi lễ cúng các vị thần ở đình, chùa, miếu 
hoặc tại các gia đình, cộng đồng cư dân Phú Quốc 
thể hiện nét sinh hoạt văn hóa thiêng liêng. Họ tạ 
ơn trời đất đã cho con người cuộc sống bình yên, 
mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, đánh bắt 
đầy khoang, tạo nên sự tương tác giữa làng xã và 
cộng đồng. 
Ngư dân Phú Quốc vốn có truyền thống tốt đẹp 
ấy, họ gắn bó với cộng đồng chặt chẽ, không phân 
biệt kẻ trước người sau mà luôn quan niệm “Người 
đến trước rước người đến sau”. Truyền thống này 
có nền tảng từ văn hóa gốc nông nghiệp được ngư 
dân mang đến vùng đất mới. Trong sinh hoạt hằng 
ngày, nhất là trong quá trình lao động đánh bắt 
thủy sản trên biển thì sự gắn bó của những người 
làm chung nghề, đứng chung thuyền, thờ chung 
thần là nhu cầu rất cần thiết. 
Ngư dân sống thành làng, giữa họ có quan hệ 
bà con hoặc láng giềng gắn bó mật thiết, quan tâm 
chăm sóc, lo lắng cho nhau. Sau những ngày lênh 
đênh trên biển, trở về với cộng đồng làng chài của 
71
71
Kinh tế - Văn hóa – Giáo dục
 Số 22, tháng 7/2016
mình cũng chính là trở về với người thân, với xóm 
giềng với những người cùng nghề, cùng niềm tin 
thiêng liêng, cùng hàm ân biển cả. Mối quan hệ 
cộng đồng tốt đẹp đó không chỉ diễn ra giữa ngư 
dân với nhau mà giữa ngư dân với ban quản lý làng 
chài cũng nhờ có mối quan hệ đó, những khi trong 
làng có người hoạn nạn, bệnh đau hay có người 
thân qua đời thì ban quản lý thường xuyên thăm 
viếng, động viên gia đình vượt qua rủi ro.
Những ngày cúng cá Ông, Bà Thủy Long 
Thánh Mẫu, dinh Cậu chính là dịp ngư dân hoặc 
giữa ngư dân với bộ phận dân cư khác trong địa 
phương gặp nhau vui vẻ. Họ giao lưu Đờn ca tài 
tử, thăm hỏi, trao đổi và bàn bạc, phổ biến kinh 
nghiệm nghề nghiệp, kinh nghiệm đối nhân xử thế, 
về thời tiết, về y thuật, cứu nạn trên biển các kỹ 
thuật sản xuất ngư cụ phục vụ từng loại hình khai 
thác đánh bắt. Ngoài ra, lễ hội còn là nơi tiếp thị, 
marketing cho ngành dịch vụ biển phát triển hợp 
lý và có tổ chức.
Tính cố kết cộng đồng còn thể hiện qua vai trò 
chủ động của ngư dân, cư dân trong việc tổ chức và 
tham gia vào các lễ hội. Các thành viên trong cộng 
đồng dựa trên quan hệ bình đẳng và tự nguyện, 
không tranh giành chức tước cũng như quyền lợi 
về bản thân. Đứng trước miếu Bà, lăng Ông không 
ai mang lòng đố kỵ, ganh ghét mà mong sao cho 
bình an, mạnh khỏe, gặp nhiều may mắn, gia đình 
và xóm làng được bình yên. Ai nấy đều vui vẻ ngồi 
vào bàn hưởng lộc được ban, đó là những vật phẩm 
mà cộng đồng dâng cúng, và ra về trong tâm trạng 
phấn khởi tin tưởng vào ngày tương lai tốt đẹp.
Ngày hội ở đình ngoài phần nghi thức lễ còn là 
dịp để mọi người gặp gỡ, chia sẻ tâm tư tình cảm 
với nhau, trao đổi kinh nghiệm trong lao động sản 
xuất.“Mỗi lần sinh hoạt lễ hội Kỳ yên chính là một 
dịp để các ngôi đình có thể tổ chức triển lãm nghệ 
thuật dân gian tại địa phương. Đây là dịp các chị 
phụ nữ và các ông, bà nghệ nhân trổ tài làm bánh 
thổi xôi hoặc chưng hoa kết trái (nghệ thuật chưng 
chế)”. (Huỳnh Quốc Thắng 2003: tr. 84).
4. Thay lời kết
Cộng động dân cư Phú Quốc là những ngư dân 
di dân từ duyên hải miền Trung. Vì vậy, văn hóa 
của ngư dân Phú Quốc nằm trong văn hóa ngư dân 
dân vùng duyên hải miền Trung Việt Nam, nhưng 
có những nét riêng do có điều kiện địa lý và lịch 
sử riêng. Tín ngưỡng dân gian ở đây, đa phần ảnh 
hưởng bởi biển, nên đối tượng thờ cúng cũng gắn 
với biển. Việc ứng xử với biển của cư dân Phú 
Quốc thông qua đời sống vật chất và đời sống tinh 
thần, có thể khẳng định, văn hóa biển luôn tồn tại 
và được thể hiện rất đậm nét đối với cư dân ở đây. 
Tín ngưỡng dân gian của ngư dân Phú Quốc 
được nhận diện qua tín ngưỡng thờ Thủy Long 
Thánh Mẫu, Kim Giao Thần nữ, Bà Cậu, Cô Sáu 
là kết quả của quá trình giao lưu, hỗn dung văn hóa 
của nhiều lớp cư dân người Việt, Chăm, Khmer 
và Hoa. Trong tư duy của ngư dân Phú Quốc, các 
vị thần này đóng một vai trò quan trọng trong đời 
sống tâm linh của họ.
Tóm lại, nghiên cứu tín ngưỡng dân gian của 
ngư dân đảo Phú Quốc cho thấy người Việt có một 
văn hóa ứng xử với biển từ rất lâu, văn hóa đó 
càng ngày càng bồi dưỡng phong phú và khẳng 
định hơn chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phú Quốc. 2000. Phú Quốc những chặng đường đấu tranh Cách 
mạng (1930-1975).Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
Trịnh, Hoài Đức (Lý Việt Dũng biên dịch). 2005. Gia định Thành Thông chí. Nxb Đồng Nai.
Nguyễn, Xuân Hoài và Đồng, Thị Huệ (đồng chủ biên).2012. Lịch sử Phú Quốc qua tài liệu lưu trữ. 
Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia-Sự Thật. tr 23.
Văn, Quảng. 2009. Văn hóa tâm linh Hà Nội. Hà Nội: Nxb Thanh niên, tr.10.
Huỳnh, Quốc Thắng. 2003. Lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông 
tin, tr.84.
Ngô, Đức Thịnh. 2007. Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận. Thành phố Hồ Chí Minh: 
NXB Trẻ, tr 96.
Nguyễn, Bình Phương Thảo và Nguyễn, Thanh Lợi. 2016. Tín ngưỡng dân gian Phú Quốc. Thành 
phố Hồ Chính Minh: Nxb Tổng hợp , tr 56.

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_tin_nguong_dan_giantrong_doi_song_cua_ngu_dan_da.pdf