Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn

Tóm tắt: Trong chương trình mẫu giáo, số lượng trò chơi vận động đã giảm rất nhiều.

Tuy nhiên, nhu cầu vui chơi và hoạt động thi đua, thi đấu ở trẻ vẫn rất cao; do vậy việc tổ

chức hướng dẫn và sử dụng phương pháp trò chơi vào giảng dạy trong giờ thể dục và các

hoạt động giáo dục khác có một vai trò quan trọng. Trò chơi vận động giúp cho trẻ nắm

vững hơn những kĩ năng vận động và phát triển toàn diện các mặt: thể lực, ngôn ngữ,

nhận thức, tình cảm, thẩm mỹ và xã hội.

pdf 9 trang yennguyen 3460
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn

Vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo lớn
100 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
VAI TRÒ CỦA TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN 
CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN 
Phạm Tràng Kha, Lưu Xuân Bình 
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội 
Tóm tắt: Trong chương trình mẫu giáo, số lượng trò chơi vận động đã giảm rất nhiều. 
Tuy nhiên, nhu cầu vui chơi và hoạt động thi đua, thi đấu ở trẻ vẫn rất cao; do vậy việc tổ 
chức hướng dẫn và sử dụng phương pháp trò chơi vào giảng dạy trong giờ thể dục và các 
hoạt động giáo dục khác có một vai trò quan trọng. Trò chơi vận động giúp cho trẻ nắm 
vững hơn những kĩ năng vận động và phát triển toàn diện các mặt: thể lực, ngôn ngữ, 
nhận thức, tình cảm, thẩm mỹ và xã hội. 
Từ khóa: trò chơi, vận động, trẻ mầm non 
Nhận bài ngày 25.11.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 25.12.2019 
Liên hệ tác giả: Phạm Tràng Kha; Email: ptkha@hnmu.edu.vn 
1. MỞ ĐẦU 
Trò chơi nói chung chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của trẻ mầm non, vì 
vậy trò chơi được coi là một trong những phương tiện giáo dục quan trọng cho trẻ. 
Trong thực tế ở trường Mầm non, các loại trò chơi như: trò chơi học tập, trò chơi đóng 
vai theo chủ đề, trò chơi xây dựng, trò chơi vận động (TCVĐ) được sử dụng thường 
xuyên. Trong sự đa dạng của các trò chơi dành cho trẻ, đặc biệt phải chú ý đến loại TCVĐ, 
vì trong loại trò chơi này, tất cả trẻ em tham gia chơi đều được thu hút vào vận động. 
Những vận động đó được quy định bởi nội dung và luật của trò chơi, đồng thời đạt được 
một mục đích nào đó đặt ra trước khi chơi, hay tự trẻ tham gia chơi đề ra. Chẳng hạn như 
rèn luyện kỹ năng vận động gì, quy định điều kiện của trò chơi. 
Ở trường mầm non, TCVĐ vừa là phương tiện để dạy trẻ vận động, vừa là hình thức tổ 
chức giáo dục thể chất (GDTC) một cách tích cực, thoải mái, giúp trẻ giải quyết nhiệm vụ 
rèn luyện thân thể một cách dễ dàng, vừa là phương tiện để giáo dục toàn diện cho trẻ. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Trò chơi vận động và vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ 
Trò chơi vận động thuộc loại trò chơi có luật. Thường do người lớn nghĩ ra và tổ chức 
cho trẻ chơi. Đó là loại trò chơi đòi hỏi trẻ phải phối hợp các thao tác vận động để giải 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 36/2019 
101 
quyết các nhiệm vụ vận động được đặt ra như là nhiệm vụ chơi, qua đó thể chất của trẻ 
được phát triển. 
Chơi là phương tiện giáo dục phát triển trí tuệ: Nội dung chủ yếu của chơi phản ánh 
thế giới xung quanh trẻ, và chính nhờ có chơi mà trẻ hiểu sâu sắc hơn nữa cuộc sống xung 
quanh. Tất cả những điều trẻ lĩnh hội được trước lúc chơi dưới nhiều hình thức hoạt động 
khác nhau sẽ được chính xác hơn, phong phú hơn trong quá trình chơi nhờ sự phát triển 
của dự định chơi, nhờ sự cụ thể hoá các động tác chơi và các vai chơi trong trò chơi 
Thông qua trò chơi, những tri thức đã nắm được trước kia bắt đầu tham gia vào những mối 
liên hệ mới, và trẻ tập điều khiển những tri thức ấy như K.Đ. Usinxki nói: Chúng tự làm 
chủ những điều mà chúng biết. 
Chơi là phương tiện giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới: Trong một số trường hợp khi tham 
gia trò chơi, dưới sự hướng dẫn của người lớn trẻ khám phá ra nhiều điều mới lạ, thú vị ở 
thế giới xung quanh. Trong quá trình thực hiện các thao tác chơi, hành động chơi trẻ nhận 
ra được một vài thuộc tính, mối quan hệ nào đó của sự vật hiện tượng. Ví dụ: trẻ hình dung 
ra được thế nào là to hơn, nhỏ hơn; thế nào là cao hơn, thấp hơn, gần hơn, xa hơn Sự 
phát hiện ra những tri thức mới đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính tích cực nhận thức của 
trẻ, thôi thúc trẻ tham gia một cách chủ động, sáng tạo trong khi chơi 
Trò chơi là phương tiện phát triển các quá trình tâm lý nhận thức của trẻ: Chơi không 
chỉ là phương tiện củng cố, mở rộng chính xác hoá biểu tượng đã có; cung cấp những tri 
thức mới cho trẻ mà còn là phương tiện phát triển các quá trình tâm lý nhận thức cho trẻ 
như: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng và ngôn ngữ. 
Khi tham gia vào trò chơi, các chuẩn cảm giác về hình dạng, kích thước, màu sắc của 
trẻ được củng cố và chính xác hoá, nhờ đó trẻ dễ dàng thực hiện hành động chơi, nội dung 
chơi (phân loại đồ vật theo màu sắc). Khi tham gia vào trò chơi, trí tưởng tượng của trẻ 
được phát triển mạnh mẽ. Trong quá trình chơi, đứa trẻ học thay thế đồ vật này bằng đồ vật 
khác; nhận đóng vai nọ, vai kia, nảy sinh hoàn cảnh tưởng tượng... để thực hiện hành động 
chơi, nội dung chơi. Đó là cơ sở quan trọng để nảy sinh và phát triển trí tưởng tưởng của 
trẻ. Thật vậy, trong khi chơi trẻ có thể làm bất cứ việc gì (nào là lái xe, chữa bệnh, vận 
chuyển lương thực, thu hoạch trái cây...); có bất cứ cái gì mình muốn (muốn có ngựa thì 
dùng chiếc gậy, muốn có ôtô tàu hoả thì chỉ cần bám vào vai nhau; trẻ hình dung sàn nhà 
lớp học khi thì là con đường từ đồng về làng, khi thì là đường tàu hoả “tu tu tu, xìch xình 
xịch”... Khi tham gia vào trò chơi, trẻ suy nghĩ về hành động chơi, thao tác chơi (làm bác sĩ 
thì phải làm gì, như thế nào, sử dụng vật thay thế như thế nào? Trẻ học được cách giải 
quyết nhiệm vụ, tìm kiếm phương tiện thích hợp nhất để thực hiện dự định đã đề ra, qua đó 
tư duy của trẻ được phát triển mạnh mẽ. Vui chơi còn là phương tiện phát triển ngôn ngữ 
cho trẻ. Trước hết khi tham gia trò chơi, trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với bạn, trao đổi 
102 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
suy nghĩ của mình với các bạn và nghe ý kiến của các bạn để đi đến thoả thuận trong khi 
chơi, đánh giá lẫn nhau..., qua đó ngôn ngữ của trẻ được phát triển. 
Chơi là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ em: Trò chơi ảnh hưởng mạnh mẽ đến 
nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức của trẻ. Khi tham gia vào trò chơi đứa trẻ trải 
nghiệm được những thái độ, tình cảm đạo đức và tập được hành vi ứng xử với người xung 
quanh bằng cách nhập vai của mình, qua đó trẻ học làm người. Trong khi chơi trẻ được thử 
sức mình, hành động như người lớn, trẻ tự mình thiết lập mối quan hệ với bạn bè trong 
nhóm chơi và cũng ở nhóm bạn bè này trẻ tìm được vị trí của mình, khẳng định vị trí đó 
giữa các bạn trong nhóm. Trẻ biết sống cùng nhau, hành động vì nhau, trong khi chơi tình 
bạn được củng cố, được thử thách... Nội dung chơi lành mạnh hình thành cho trẻ có thái độ 
tích cực đối với hiện thực, có tinh thần trách nhiệm với người khác, có lòng thương người, 
biết quan tâm lo lắng cho người khác... Thông qua chơi hình thành hành vi xã hội, hình 
thành phẩm chất đạo đức quý giá và đúng đắn của con người chân chính. Dựa vào chơi của 
trẻ, cô giáo cần dạy cho trẻ những quy tắc hành vi xã hội, kiểm tra xem trẻ lĩnh hội và củng 
cố những quy tắc đó như thế nào. Trong khi chơi, cô giáo trau dồi cho trẻ một số phẩm 
chất như lòng dũng cảm, tính trung thực, tính kiên nhẫn, tinh thần chủ động... Có thể nói 
rằng trò chơi như một mắt xích nối liền giữa trẻ với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã 
hội, nó giúp cho quá trình hình thành các phẩm chất đạo đức diễn ra tự nhiên, hiệu quả mặc 
dù chơi chỉ là giả vờ nhưng hiệu quả giáo dục lại rất thật, rất lớn lao. 
Chơi là phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ em: Chơi mang lại niềm vui cho trẻ, làm 
cho tinh thần của trẻ được sảng khoái - một yếu tố quan trọng để phát triển thể chất cho trẻ, 
vì tinh thần sảng khoái, thoả mãn sẽ làm cho thể lực được phát triển tốt hơn. Khi tham gia 
vào trò chơi, các cơ quan trong cơ thể được vận động một cách tích cực, thúc đẩy sự trao 
đổi chất, tăng cường hô hấp và tuần hoàn máu... góp phần tăng cường sức khoẻ cho trẻ. 
Tuy nhiên, các vận động ấy phải diễn ra một cách hợp lý mới mang lại hiệu quả giáo dục, 
nếu không sẽ phản tác dụng. Chẳng hạn một vận động quá mạnh, vượt quá sức của trẻ, tư 
thế vận động không đúng cách... sẽ phương hại đến sự phát triển thể chất của trẻ. Vấn đề ở 
đây là khi lựa chọn trò chơi, cô giáo cần chú ý đến tư thế của trẻ khi chơi và nhiệm vụ chơi 
phải phù hợp với khả năng của trẻ. Những trò chơi phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi 
sẽ góp phần phát triển và hoàn thiện các vận động cơ bản như: đi, chạy, nhảy, leo, trèo, 
ném, bắt và góp phần rèn luyện tố chát thể lực như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự 
khéo léo. 
Chơi là phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em: Chơi là hoạt động phản ánh cuộc 
sống của xã hội. Khi tham gia trò chơi, trẻ cảm nhận được cái đẹp ở sự phong phú, đa dạng 
về màu sắc, hình dạng, kích thước, âm thanh của đồ vật, đồ chơi. Đặc biệt trong khi chơi, 
trẻ cảm nhận được vẻ đẹp trong hành vi, trong giao tiếp, ứng xử của các mối quan hệ giữa 
người với người, giữa người với thế giới hiện thực 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 36/2019 
103 
Chơi là phương tiện giáo dục lao động cho trẻ em: Khi tham gia chơi, trẻ tái tạo lại 
những hành động lao động qua đó mà thu nhận được những biểu tượng về lao động, về ý 
nghĩa xã hội và tính hợp tác của nó. Đồng thời qua tái tạo những hành động lao động của 
người lớn trong trò chơi mà một số kỹ năng lao động đơn giản được hình thành ở trẻ: kỹ 
năng lao động tự phục vụ, kỹ năng lao động trực nhật. Cũng trong quá trình chơi, dưới sự 
hướng dẫn của cô giáo trẻ được giáo dục một số phẩm chất đạo đức cần thiết cho người lao 
động tương lai: tính mục đích, tính sáng tạo lòng yêu lao động yêu thích lao động. 
Như vậy có thể nói, chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ. Nhà giáo dục cần 
khai thác thế mạnh của hoạt động vui chơi trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ em. Hãy 
tạo ra môi trường thuận lợi để trẻ được chơi một cách chủ động sáng tạo và chơi hết mình. 
Đối với trẻ thơ, chơi là cuộc sống của trẻ. Tổ chức cho trẻ chơi là mang lại hạnh phúc cho 
tuổi thơ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách tự nhiên nhất. 
2.2. Trò chơi vận động cho trẻ 5-6 tuổi 
2.2.1. Đặc điểm trò chơi vận động cho trẻ 5-6 tuổi 
TCVĐ là trò chơi có tổ chức, có mục đích cụ thể. Nội dung chơi chứa đựng các nhiệm 
vụ rèn luyện, hoàn thiện các vận động cơ bản, các tố chất thể lực cho trẻ. Trong TCVĐ, 
các nhiệm vụ vận động được giải quyết như một nhiệm vụ thực hành dưới dạng trò chơi. 
Chính vì vậy, trẻ vận động một cách tích cực, vui vẻ, thoải mái. 
Đa số các TCVĐ dành cho lứa tuổi mầm non là những trò chơi mang tính chủ đề, phù 
hợp với đặc điểm tâm sinh lý và khả năng tư duy tưởng tượng của trẻ. Những chủ đề của 
trò chơi thường được lấy từ thực tiễn xung quanh và thể hiện những hình ảnh về các hiện 
tượng thiên nhiên, xã hội, các hành vi của con vật. Do đó trò chơi vận động mang tính 
hiện thực. 
Khi tham gia TCVĐ, trẻ phải tập trung chú ý, ghi nhớ những lời giải thích của cô (về 
nội dung chơi, luật chơi, cách chơi) để giải quyết các nhiệm vụ chơi. Do vậy, đặc điểm nổi 
bật của TCVĐ là đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa quá trình nhận thức và vận động. 
Mỗi TCVĐ đều có 3 bộ phận liên quan chặt chẽ với nhau: nội dung chơi, hành động 
chơi và luật chơi. 
+ Nội dung chơi là nhiệm vụ vận động mà trẻ phải thực hiện. Đó là những vận động cơ 
bản phù hợp với lứa tuổi và được thể hiện dưới dạng hành vi vận động của con vật mà trẻ 
biết: con gà, con chim, con ếch, con chuột, con mèo hoặc những phương tiện đồ dùng xã 
hội: đoàn tàu, xe ôtô, tàu thuỷ, máy bay Nội dung vận động được hình tượng hoá như 
vậy sẽ lôi cuốn sự hứng thú, tích cực của trẻ và trẻ tiếp nhận dễ dàng hơn. 
+ Hành động chơi là hệ thống những động tác (thao tác) vận động mà trẻ phải thực 
hiện trong quá trình chơi. Hệ thống các động tác vận động thường có những lời ca, tiếng 
hát có vần có nhịp đi kèm: trẻ vừa hát vừa chạy nhảy, vừa hát vừa bò 
104 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
+ Luật chơi là những quy định, quy ước mà trẻ phải tuân theo trong khi chơi. Luật 
chơi ở đây không gò đứa trẻ vào một khuôn mẫu cứng nhắc song nó trở thành động cơ thúc 
đẩy trẻ vận động tích cực. Ví dụ, trong trò chơi “Cáo và Thỏ”, nếu con thỏ nào bị cáo bắt 
hoặc vào nhầm hang thì phải ra ngoài một lần chơi. Hay trong trò chơi “Chó sói xấu tính” 
nếu ai không chạy kịp về chuồng của mình thì bị sói bắt 
Trong TCVĐ, mọi trẻ đều được tham gia. Có hoạt động tập thể nên có sự ganh đua, 
trong đó yếu tố thắng - thua đã kích thích tính tích cực vận động của trẻ. Nói đúng hơn, kết 
quả chơi đã thúc đẩy trẻ tích cực vận động, song điều lí thú hơn là dù thắng hay thua, mọi 
trẻ đều vui vẻ thoải mái, không hề buồn bã. Quan sát các cháu chơi trò chơi “Chó sói xấu 
tính” ta thấy những chú thỏ bị bắt và phải làm sói ở lần chơi tiếp theo không hề buồn bã mà 
còn tỏ ra khoái chí vui cười thoải mái. 
2.2.2. Phân loại trò chơi vận động 
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, có nhiều cách phân loại TCVĐ khác nhau 
- Dựa vào nguồn gốc của TCVĐ, người ta chia TCVĐ thành 2 nhóm cơ bản: 
+ Nhóm TCVĐ dân gian: Đó là những TCVĐ có từ lâu đời, được lưu truyền từ thế hệ 
này sang thế hệ khác, từ vùng này sang vùng khác và được xem như là thể loại văn hoá dân 
gian. Khó mà tìm ra được ai là tác giả của trò chơi này và không xác định được ngày, 
tháng, năm ra đời của chúng. TCVĐ dân gian ở mọi thời đại đều luôn hấp dẫn trẻ em. 
Ví dụ, trò chơi “Kéo co”, “Bịt mắt bắt dê”, “Mèo đuổi chuột”, “Nhảy dây”, “Thả đỉa ba 
ba”, “Chi chi chành chành”... luôn sống mãi với thời gian và được trẻ đón nhận một cách 
tích cực. 
+ Nhóm TCVĐ mới: Đó là những trò chơi được các nhà giáo dục thiết kế - xây dựng. 
Những trò chơi mới có thể biết tác giả, ngày, tháng, năm ra đời. Dựa vào nội dung, nhiệm 
vụ vận động của trẻ, người ta thiết kế một số trò chơi vận động nhằm giải quyết nhiệm vụ 
vận động một cách vui vẻ, thoải mái, tích cực. Ví dụ, trò chơi “Quạ và gà con”, “Chó sói 
xấu tính”, “Nhổ củ cải”, “Chuyền bóng” 
- Dựa vào tính chất của TCVĐ, người ta chia TCVĐ thành 2 nhóm: 
+ Nhóm TCVĐ theo chủ đề. Đó là những trò chơi được xây dựng trên cơ sở những 
kinh nghiệm, những ấn tượng và những hiểu biết của trẻ về cuộc sống xung quanh. Nội 
dung chơi, hành động chơi, luật chơi (quy tắc chơi) trong trò chơi này được diễn ra theo 
chủ đề. Ví dụ, trò chơi “Quạ và gà con”, “Mèo đuổi chuột” Chủ đề chơi, quy tắc chơi 
xác định tính chất vận động của trẻ trong khi chơi, và các vận động này thường mô phỏng 
lại các hành động, các thao tác theo vai: “vai sói” “vai quạ” “vai mèo” đuổi bắt, “vai gà” 
“vai chuột” “vai thỏ” chạy trốn. Nhóm TCVĐ theo chủ đề phần lớn là những trò chơi tập 
thể, số lượng trẻ có thể khác nhau (từ 5- 30 trẻ), điều đó cho phép nhà giáo dục sử dụng trò 
chơi này với các lứa tuổi khác nhau, trong những điều kiện với những mục đích khác nhau. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 36/2019 
105 
+ Nhóm TCVĐ không theo chủ đề. Đó là những trò chơi được xây dựng chủ yếu từ 
những vận động cơ bản của trẻ. Những vận động này không diễn ra dưới dạng mô phỏng 
lại các hành động, thao tác theo vai mà do nhiệm vụ chơi, luật chơi quy định. TCVĐ không 
theo chủ đề có nhiều loại: TCVĐ không theo chủ đề loại “đuổi bắt”. Loại trò chơi này rất 
gần với TCVĐ theo chủ đề, chỉ khác là không có hình ảnh nhân vật để trẻ mô phỏng. Trò 
chơi này được xây dựng chủ yếu từ những vận động đơn giản, thường là vận động “chạy” 
kết hợp với vận động bắt. 
2.2.3. Ý nghĩa của trò chơi vận động 
Nhờ có sự vận động một cách tích cực, hứng thú mà quá trình trao đổi chất của trẻ 
được tăng cường, hệ tuần hoàn hô hấp, tiêu hoá hoạt động tích cực hơn; hoạt động của hệ 
thần kinh được linh hoạt bền bỉ hơn, cơ bắp được phát triển mạnh mẽ. 
TCVĐ góp phần phát triển sự tập trung chú ý, trí nhớ, tư duy tưởng tượng và cảm xúc 
tình cảm cho trẻ em. Để tham gia trò chơi, trẻ phải tập trung nghe cô giới thiệu nội dung 
chơi, luật chơi làm cho tri giác, trí nhớ có chủ định của trẻ được phát triển. Khi tham gia 
trò chơi, trẻ tích cực sáng tạo giải quyết các nhiệm vụ chơi, tình huống chơi trong hoàn 
cảnh tưởng tượng nhờ đó mà tư duy, trí tưởng tượng của trẻ được phát triển. 
Những TCVĐ có kèm lời ca, tiếng hát mô tả động tác vận động làm cho ngôn ngữ của 
trẻ được phát triển. Thực hiện hành động chơi, nhất là hành động chơi theo vai (vai quạ, 
vai gà con, vai gà mẹ) và kết thúc chơi (ai thắng, ai thua) mang lại niềm vui vô bờ bến, 
qua đó xúc cảm, tình cảm của trẻ được phát triển (trẻ lo lắng, chạy thật nhanh khi “quạ” 
đuổi; vui sướng khi chạy đến bên mẹ, không bị bắt). 
Khi tham gia TCVĐ, những biểu tượng về thế giới xung quanh: đặc điểm hoạt động 
lao động của người lớn, cách thức di chuyển của con vật, của phương tiện giao thông 
được mở rộng và củng cố. TCVĐ còn ảnh hưởng đến tính cách và khí chất của trẻ. Trong 
khi chơi, trẻ thể hiện hành vi, đạo đức, tính cách của mình, trẻ phải tuân theo quy tắc (luật) 
của trò chơi. Những quy tắc đó điều khiển hành vi của trẻ, tạo điều kiện để trẻ hợp tác với 
nhau trong khi chơi, hình thành ở trẻ tính trung thực, lòng dũng cảm, tính kiên trì 
Thực tế cho hay rằng, trong công tác GDTC cho trẻ ở trường MN, người ta thường tổ 
chức TCVĐ hoặc ít ra là đưa yếu tố chơi vào các bài tập thể dục, các vận động cơ bản để 
trẻ thực hiện một cách hứng thú. Cũng là động tác thở, cô tổ chức dưới dạng trò chơi bắt 
chước tiếng gà gáy “ò ó o” hoặc ngửi hoa Bài tập phát triển chung được triển khai một 
cách nhẹ nhàng, ví dụ “Trồng nụ, trồng hoa”: Trẻ chụm 5 đầu ngón tay lại, nâng cánh tay 
ngang vai, bàn tay xoè ra (“một hoa” là động tác vai). Khi làm động tác lườn, cô đưa trẻ 
vào tình huống thiên nhiên “gió thổi, cây nghiêng” để vặn mình sang hai bên, thậm chí 
động tác diễn ra không đúng với logic thực tế mà trẻ không hề ý thức được (gió thổi sang 
trái nhưng “cây” lại nghiêng sang phải). 
106 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
TCVĐ còn là phương tiện để chống mệt mỏi, căng thẳng của trẻ trong hoạt động học 
tập. Trong quá trình chơi TCVĐ, không những sự căng thẳng thần kinh được giảm bớt mà 
cơ thể trẻ còn được “nạp thêm” năng lượng, tăng cường thêm khả năng tập trung trong hoạt 
động. Do vậy người ta thường dùng TCVĐ để chuyển tiếp giữa các hoạt động. 
2.3. Vai trò của giáo viên trong việc tổ chức TCVĐ cho trẻ 5-6 tuổi. 
Hiệu quả của hoạt động vui chơi phụ thuộc khá lớn vào công tác tổ chức, hướng dẫn 
của giáo viên. Để hướng dẫn trẻ chơi có hiệu quả, giáo viên phải thực hiện tốt các vai trò 
sau đây: 
- Lập kế hoạch tổ chức trò chơi cho trẻ. Kế hoạch tổ chức trò chơi cho trẻ phải phù 
hợp với mục tiêu, nội dung, chủ đề giáo dục, phù hợp với độ tuổi, phù hợp với thời gian, 
thời điểm tổ chức trò chơi cho trẻ, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của trường, lớp 
- Tổ chức trò chơi cho trẻ ở các thời điểm khác nhau trong ngày ở trường mầm non. 
Cụ thể là: 
+ Tạo môi trường chơi phù hợp với chủ đề giáo dục, với nội dung chơi, với độ tuổi của 
trẻ nhằm kích thích hứng thú chơi của trẻ. 
+ Hướng dẫn trẻ chơi một cách tích cực, chủ động sáng tạo trong các góc 
+ Theo dõi quá trình chơi của trẻ, cổ vũ động viên trẻ chơi tích cực, sáng tạo 
+ Tạo tình huống để trẻ hợp tác với nhau trong các nhóm và giữa các nhóm với nhau. 
+ Rèn luyện cho trẻ một số thói quen cần thiết trước khi chơi (tự lấy đồ chơi, vật liệu 
chơi) trong khi chơi (vui vẻ, hết mình, hợp tác với bạn, không tranh dành đồ chơi, phá 
quấy bạn khi chơi), kết thúc chơi (cất dọn đồ chơi vào nơi quy định) 
- Nhận xét đánh giá trẻ chơi. Nhận xét diễn ra trong suốt quá trình chơi của trẻ. 
Phương châm của nhận xét đánh giá là động viên khích lệ trẻ chơi hết mình, chơi tích cực 
sáng tạo. Do vậy phải diễn ra một cách nhẹ nhàng thoải mái và kịp thời. 
Để tổ chức cho trẻ chơi tốt, rèn luyện thể lực tốt, người giáo viên phải có năng lực sư 
phạm tốt. Năng lực sư phạm của người giáo viên bao gồm: năng lực tri giác- óc quan sát sư 
phạm; năng lực xây dựng- nhìn thấy được kết quả hoạt động của mình, đoán trước được 
hành vi của trẻ; năng lực lí luận dạy học- cho phép truyền đạt mọi vấn đề một cách dễ hiểu 
nhất đối với trẻ; năng lực biểu cảm- thể hiện qua điệu bộ, nét mặt, lời nói; năng lực giao 
tiếp- giúp thiết lập mối quan hệ tốt giữa cô và trẻ; năng lực tổ chức- thể hiện trong việc tổ 
chức sinh hoạt rèn luyện, vui chơi cho trẻ. Tính đa dạng của năng lực sư phạm và mối quan 
hệ giữa chúng góp phần hình thành phong cách hoạt động của người giáo viên. 
Để TCVĐ đáp ứng được mục đích giáo dục, rèn luyện kỹ năng vận động, cũng như 
đáp ứng được nhu cầu vui chơi và vận động của trẻ, cô giáo phải nắm vững tri thức về 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 36/2019 
107 
TCVĐ. TCVĐ là nơi tập hợp trẻ dễ nhất vì chúng đến với nhau vừa để vui chơi cho thoả 
thích, vừa để thoả mãn nhu cầu vận động tích cực. Điều đó có lợi cho việc rèn luyện thân 
thể, tránh được các trò nghịch ngợm vô ích nhiều khi còn gây ra những hậu quả nguy hại 
đến sức khoẻ và tính mạng của các em và tạo ra sự an toàn xã hội. Vì vậy, khi giáo viên tổ 
chức TCVĐ cho trẻ, cần phải đảm bảo sao cho vừa có tác dụng rèn luyện sức khoẻ, vừa 
phát triển được nhận thức của trẻ trong các trò chơi và hình thành được những nét tính 
cách cần thiết, lại vừa đảm bảo tính chất vui chơi thực sự. Việc lựa chọn TCVĐ cho trẻ 
cũng phải phù hợp với khả năng vận động của trẻ và có thể coi đó là phương tiện có hiệu 
quả để GDTC, đồng thời có thể là liệu pháp chống ỳ, một hiện tượng không tốt đã sớm 
xuất hiện ở một số trẻ ngày nay... 
Việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo lớn có những đặc thù riêng, thường 
diễn ra độc lập trong từng lớp do cô giáo của từng lớp phụ trách. Ngoài ra, còn phụ thuộc 
vào trình độ chuyên môn, độ tinh tế nhạy bén và sáng tạo của cô giáo trong việc tổ chức 
vui chơi cho trẻ. 
3. KẾT LUẬN 
Trong giáo dục thể chất, TCVĐ là một trong các hình thức cơ bản, đặc biệt đối với trẻ 
em lứa tuổi mẫu giáo, TCVĐ là một phương thức giáo dục nhẹ nhàng và hiệu quả nhất 
“Học mà chơi - Chơi mà học”. Thông qua trò chơi, các em thể hiện được khả năng của 
mình, khám phá và hiểu biết thêm cuộc sống đồng thời tạo ra bầu không khí đoàn kết thân 
ái giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện. Đây là phương pháp, phương tiện rèn luyện sức 
khoẻ, góp phần giáo dục đạo đức nhân cách cho trẻ đạt hiệu quả cao và được trẻ đặc biệt 
ưa thích. Muốn trẻ hứng thú chơi và vui chơi mang lại hiệu quả giáo dục cao phải có sự 
hướng dẫn, tổ chức cho trẻ chơi một cách khoa học, đảm bảo được tính đặc thù của loại trò 
chơi, phải biết sáng tạo biết khai thác tất cả những gì đã có trong thực tế và suy nghĩ tìm tòi 
tạo thêm nhiều niềm vui mới cho trẻ bằng chính khả năng sư phạm, lòng yêu trẻ, yêu nghề 
nghiệp của mình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo và hướng dẫn thực 
hiện (5-6 tuổi), - Nxb Giáo dục Việt Nam. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Chương trình giáo dục mầm non, - Nxb Giáo dục Việt Nam. 
3. Hoàng Thị Bưởi (2000), Phương pháp giáo dục thể chất trẻ em, - Nxb Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 
2. E.A. Chimôppaêva (1986), Trò chơi vận động dành cho trẻ mẫu giáo, - Nxb Trẻ. 
108 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 
MOTOR ACTIVITIES FOR 5-6 YEAR-OLDS 
CHILDREN'S DEVELOPMENT 
Abstract: In the kindergarten program, the number of motor activities has decreased 
greatly. However, the demand of playing and emulation activities in children is still very 
high, so the organization of guidance and use of game methods in teaching during 
gymnastics and other educational activities are very important. Outdoor games help 
children master the motor skills and comprehensively develop aspects: physical, 
linguistic, cognitive, emotional, aesthetic and social. 
Keywords: activity, exercise, preschool children... 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_tro_choi_van_dong_doi_voi_su_phat_trien_cua_tre.pdf