Vai trò “Tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ

Tóm tắt: Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu lưu trữ (ở Pháp và

Việt Nam), các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và các luận án

tiến sĩ, bài viết góp phần làm sáng tỏ vai trò “tiên phong”của

Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở

Việt Nam trong những năm 1920-1945 nói chung và vai trò đối

với sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội nói riêng

pdf 16 trang yennguyen 5340
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò “Tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò “Tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ

Vai trò “Tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 61 
NINH THỊ SINH* 
VAI TRÒ “TIÊN PHONG” CỦA THIỀN SƯ KHÁNH HÒA 
TRONG PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở 
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1920-1945 
QUA TÀI LIỆU LƯU TRỮ 
Tóm tắt: Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu lưu trữ (ở Pháp và 
Việt Nam), các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và các luận án 
tiến sĩ, bài viết góp phần làm sáng tỏ vai trò “tiên phong”của 
Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở 
Việt Nam trong những năm 1920-1945 nói chung và vai trò đối 
với sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội nói riêng. 
Từ khóa: Thiền sư Khánh Hòa, phong trào, chấn hưng, Phật 
giáo, lưu trữ, Việt Nam. 
1. Đặt vấn đề 
Trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, dưới ảnh 
hưởng của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Châu Á, đặc biệt là ở 
Trung Quốc, ở Việt Nam cũng xuất hiện cuộc vận động chấn hưng 
Phật giáo, mà nơi khởi đầu là Nam Kỳ. Trải qua gần 10 năm vận động 
sôi nổi, đến năm 1931, phong trào đạt được địa vị hợp pháp, đánh dấu 
bằng sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội. Tiếp sau Nam 
Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội, các hội Phật giáo lần lượt được thành 
lập ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mặc dù mỗi hội Phật học có một chương 
trình hoạt động riêng nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu phổ thông giáo 
lý Phật giáo bằng việc phiên dịch kinh điển Phật giáo ra chữ Quốc 
ngữ, chỉnh đốn thiền môn, thiết lập kỷ luật tăng già, đào tạo một thế 
hệ thanh niên tu sĩ chân chính và hữu học. 
Chấn hưng Phật giáo là một trong ba vấn đề quan trọng trong lịch 
sử tôn giáo ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX1, chính vì vậy đã 
thu hút sự quan tâm của các học giả ở cả trong và ngoài nước, ở nhiều 
* Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội 2; NCS Đại học Aix-Marseille và Viện 
Nghiên cứu Châu Á (Cộng hòa Pháp). 
62 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
mức độ và khía cạnh khác nhau. Ở Việt Nam, chấn hưng Phật giáo 
được đề cập trước hết trong các tác phẩm về lịch sử Phật giáo Việt 
Nam. Có thể kể tới các công trình của Mật Thể2, Mai Thọ Truyền3, 
Vân Thanh4, Nguyễn Lang5, Nguyễn Tài Thư6, Nguyễn Duy Hinh7 
Một số khía cạnh của phong trào cũng là đối tượng nghiên cứu của các 
học giả trong nước, chẳng hạn như Trần Văn Giàu quan tâm đến vấn 
đề tư tưởng và triết học Phật giáo8, trong khi đó Thích Thiện Hoa9, 
Thích Đồng Bổn10 lại giới thiệu một số gương mặt tiêu biểu của phong 
trào. Báo chí Phật giáo thu hút sự quan tâm của Thích Thanh Đạt11, 
trong khi đó Nguyễn Thị Thảo12 lại tìm hiểu về vấn đề văn học và 
Phật học trên báo chí Phật giáo giai đoạn trước năm 1945. Nguyễn 
Quốc Tuấn tập trung tìm hiểu về đặc điểm và vai trò của Phật giáo 
Việt Nam trong thế kỷ XX13. 
Ở nước ngoài, phong trào chấn hưng Phật giáo được đề cập trong 
các nghiên cứu của Nguyễn Thế Anh14, Trịnh Văn Thảo15 (Pháp). 
Trong những năm gần đây, cũng đã thấy xuất hiện hai luận án tiến sĩ ở 
Hoa Kỳ tìm hiểu về chấn hưng Phật giáo. Đó là luận án tiến sĩ Triết 
học của Nguyễn Thị Minh16 và Ngô Đức Hoàng17. Nếu như Nguyễn 
Thị Minh khai thác khía cạnh giáo dục tăng chúng trong phong trào 
chấn hưng ở cả ba kỳ, thì luận án của Ngô Đức Hoàng lại tìm hiểu về 
vấn đề “nhập gian Phật giáo”. 
Các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu hoặc là phong trào 
chung hoặc là các phương diện, khía cạnh khác nhau của phong trào 
chấn hưng Phật giáo. Bên cạnh đó, nhiều công trình cũng đã đề cập 
đến nhiều nhân vật quan trọng trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở 
cả ba Kỳ. Chẳng hạn, Lê Tâm Đắc trong tác phẩm Phong trào chấn 
hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam 1924-1954 đã giới thiệu 10 
gương mặt tiêu biểu của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, 
Nguyễn Lang giới thiệu những đại diện tiêu biểu (tăng sĩ và cư sĩ) của 
cả ba Kỳ. Tuy nhiên, có một nhân vật rất quan trọng và là một trong 
hai nhân vật gắn liền với phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ - 
Thiền sư Khánh Hòa, nhưng các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc 
giới thiệu tiểu sử, hoặc đưa ra nhận định hết sức khái quát về vai trò 
của Thiền sư trong phong trào chấn hưng. Ví dụ, Nguyễn Lang, trong 
Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, có nhận xét rằng: “Công đầu của 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 63 
phong trào chấn hưng thuộc về Thiền sư Khánh Hòa”18 hay Trần 
Hồng Liên cũng khẳng định rằng “Hòa thượng Khánh Hòa là vị tổ mở 
đầu phong trào chấn hưng Phật giáo trong người Việt ở Nam Bộ”19. 
Vậy, vai trò ấy là gì ? Bài viết này, trên cơ sở khảo cứu các hồ sơ lưu 
trữ ở Pháp và Việt Nam, góp phần làm sáng tỏ “công đầu” cũng như 
vai trò “tiên phong” của Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn 
hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945. 
2. Vai trò của Thiền sư Khánh Hòa trong giai đoạn 1920-1945 
Trước hết, Cần nhắc lại rằng, trong phong trào chấn hưng Phật giáo 
giai đoạn 1920-1945, trên cả ba Kỳ, có nhiều hội Phật giáo đã được 
thành lập. Theo Pascal Bourdeaux, đến năm 1935, ở Nam Kỳ có 6 hội, 
như Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội, Lưỡng Xuyên Phật học Hội, 
Thiên thai Thiền giáo tông lương hữu Hội20, ở Trung Kỳ có hai hội 
là Annam Phật học Hội và Đà thành Phật học21, ở Bắc Kỳ có Hội Phật 
giáo Bắc Kỳ. Chính các hội Phật giáo, Phật học này giữ vai trò chủ 
đạo trong các hoạt động chấn hưng. 
Trong số các hội đó, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội ra đời sớm 
nhất. Sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội có một ý nghĩa 
quan trọng, không những đạt được địa vị hợp pháp mà còn có tác dụng 
cổ vũ đối với tăng sĩ, trí thức trong việc vận động thành lập các hội Phật 
học ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mặc dù đến tháng 8 năm 1931, Nam Kỳ 
Nghiên cứu Phật học Hội mới chính thức được thành lập, nhưng những ý 
tưởng về việc thành lập một hội Phật giáo đã xuất hiện từ cuối năm 1927 
và tác giả của nó, không ai khác, chính là Thiền sư Khánh Hòa. 
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877, tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị 
(Bến Tre). Vào thời điểm năm 1927, ngài trụ trì chùa Tiên Linh, ở Tân 
Hương (Bến Tre). Trên thực tế, liên quan đến vấn đề năm sinh của 
Ngài, các tài liệu hiện nay chưa có ý kiến thống nhất. Trần Hồng Liên 
trong Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ từ thế kỷ XVII 
đến năm 1975 cũng như Vân Thanh trong Lược khảo Phật giáo sử 
Việt Nam qua các thời đại và phát nguồn của các giáo phái Phật giáo 
đều cho rằng Hòa thượng Khánh Hòa sinh năm 1878, trong khi đó 
Nguyễn Lang lại cho rằng Hòa thượng sinh năm 1877. Căn cứ vào kê 
khai của Hòa thượng trong hồ sơ xin phép thành lập Hội Phật giáo 
năm 1927 thì Hòa thượng Khánh Hòa sinh năm 187722. 
64 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
Hòa thượng Khánh Hòa, lúc nhỏ tên là Lê Văn Hiệp, con của ông 
Lê Văn Chất và bà Thị Nương. Lúc thơ bé được học Tứ Thư Ngũ 
Kinh với cụ Đồ Chiểu, và chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của cụ 
Đồ. Ngài xuất gia năm 18 tuổi, tại chùa Khải Tường, lễ thiền sư Chơn 
Tánh làm thầy. Sau đó lại theo học sư tổ Chánh Tâm, một bậc danh 
đức thời bấy giờ ở chùa Kim Cang, làng Bình Cang, Thủ Thừa, tỉnh 
Tân An. Theo học với tổ Kim Cang 10 năm, đến năm 1906 tổ Kim 
Cang thị Phật, sau đó, vào năm 1907, Thiền sư Khánh Hòa được dân 
làng và bổn đạo chùa Tiên Linh làng Tân Hương mời về trụ trì chùa 
này. Nhận xét về Thiền sư Khánh Hòa, Nguyễn Lang viết : “Ông rất 
có chí cầu học, hễ nghe ở đâu có bực cao tăng là tìm tới họ để thọ 
giáo. Năm 28 tuổi, trong kỳ kiết hạ tại chùa Long Hoa ở quận Gò Vấp, 
Gia Định, ông được mời giảng kinh Kim Cương Chư Gia cho đại 
chúng. Đây là lần đầu ông làm giảng sư Phật học. Ông được các bậc 
tôn túc khen ngợi và từ đó tiếng tăm ông được đồn xa”23. Khi trụ trì 
chùa Tiên Linh, nhận thấy tình trạng thất học của tăng đồ, Phật pháp 
suy đồi nên Hòa thượng Khánh Hòa tận lực giáo hóa. Chính vì vậy, 
ngôi chùa Tiên Linh do Ngài trụ trì đã trở thành trường học để dạy 
chư tăng thời bấy giờ. 
Riêng đối với phong trào chấn hưng Phật giáo trong những năm 
1920 đến 1945, Hòa thượng Khánh Hòa là người sớm có chí 
nguyện, đồng thời cũng là người tiên phong và có thể coi là vị kiến 
trúc sư trưởng trong việc thành lập hội Phật giáo để lo việc chấn 
hưng Phật giáo. 
Hiện nay, trong các kho lưu trữ ở Pháp và Việt Nam, chúng tôi tìm 
thấy các hồ sơ cho phép làm sáng tỏ nhận định nêu trên. Ở Trung tâm 
Lưu trữ Quốc gia II, có hai hồ sơ D.62/432 và D9.56/58 (phông Phủ 
Thống đốc Nam Kỳ), và ở Kho Lưu trữ Hải ngoại Pháp (Aix-en-
Provence) cũng có hồ sơ 65539 (phông Phủ Toàn quyền Đông Dương) 
và hồ sơ 227 (phông Phủ Thống sứ Cao Miên). 
Trước hết, hồ sơ D9.56/58 cho biết, vào tháng 12 năm 1927, thông 
qua M. Guigues, Hòa thượng Khánh Hòa, với tư cách là Hội trưởng 
tạm thời, đã đệ trình hồ sơ xin phép thành lập Hội Phật giáo 
(Association des Bouddhistes) lên Thống đốc Nam Kỳ. Riêng đối với 
sự kiện này, có hai vấn đề cần nghị luận. Thứ nhất, thời điểm xin phép 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 65 
lập hội, tháng 12 năm 1927 và thứ hai là nội dung cụ thể hồ sơ xin lập 
hội mà Hòa thượng Khánh Hòa đã đệ trình. Việc phân tích hai nội 
dung này sẽ cho thấy rõ tâm huyết của Hòa thượng Khánh Hòa trong 
sự nghiệp chấn hưng Phật giáo. 
Cuộc vận động chấn hưng Phật giáo xuất hiện trên báo chí quốc 
ngữ khoảng cuối năm 1923 đầu năm 192424, và thực sự sôi nổi kể từ 
năm 1927, với những đại diện tiêu biểu như sư Lai (chùa Hang, Thái 
Nguyên, Bắc Kỳ), sư Thiện Chiếu (Nam Kỳ).... Trong khi các vị này 
còn đang bàn luận về chương trình chấn hưng, chẳng hạn như chương 
trình 10 điểm của sư Lai25 thì cuối năm 1927, Hòa thượng Khánh Hòa 
đã bắt đầu xin phép thành lập hội Phật giáo. Theo chúng tôi, hành 
động này của Hòa thượng Khánh Hòa được khích lệ bởi những tin tức 
về sự hoạt động của Hội Phật giáo Trung Quốc. Nếu những thông tin 
mà cuốn Biên niên sử Phật giáo Gia Định - Sài Gòn -Thành phố Hồ 
Chí Minh là chính xác thì nhận định này hoàn toàn có cơ sở. Trang 81, 
tác phẩm này viết “Ngày 10 tháng 7 năm 1927, mãn hạ, Hòa thượng 
Khánh Hòa về (từ chùa Long Khánh, Quy Nhơn, Trung Kỳ) ghé chùa 
Linh Sơn (Sài Gòn), gặp Thiện Chiếu giới thiệu Điều lệ Hội Phật giáo 
Trung Quốc”26. 
Tuy nhiên, ý tưởng thành lập hội Phật giáo với tư cách như một 
biện pháp để chấn hưng Phật giáo đã xuất hiện trên báo chí Quốc 
ngữ ở Việt Nam ngay từ năm 1926, mà tác giả của nó là một người 
Pháp, ông G. Robert, Đốc học trường Trung học Pháp-Hoa (Chợ 
Quán). Khảo cứu một số tờ báo Quốc ngữ nổi tiếng thời bấy giờ như 
Đông Pháp, Đông Pháp thời báo, Khai hóa nhật báo, Thực nghiệp 
dân báo, trong hai năm 1925-1926, chúng tôi thấy xuất hiện một 
số bài viết về Phật giáo. Trong số đó, đáng chú ý là bài viết “Vì sao 
đạo Phật đáng cho hết thảy dân cõi cực Đông sùng bái” của G. 
Robert đăng trên ba số báo Đông Pháp, ra ngày 13, 16 và 18 tháng 
11 năm 1926. Trong bài viết này, ông Robert đã chỉ ra những điều 
cốt yếu của Phật giáo nguyên thủy. Sau đó, khi liên hệ với Phật giáo 
ở các nước cực Đông, như Trung Quốc, Nhật Bản thì ông nhận thấy, 
Phật giáo ở đây bị “sai khác” nhiều lắm so với đạo gốc. Riêng đối 
với Phật giáo ở xứ Đông Pháp ông nhận thấy rằng “chín nghìn chín 
trăm chín mươi chín người xưng mình là theo Phật giáo, nhưng 
66 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
không biết Phật giáo là cái gì ráo. Theo ý mấy người ấy, theo Phật 
giáo là theo chùa miếu và theo mấy điều dị đoan thô kịch đó”27. Tuy 
nhiên, theo Robert, thực trạng đó hoàn toàn có thể thay đổi được. Và 
biện pháp mà ông đưa ra là thành lập một hoặc nhiều hội “Annam 
chuyên học về Phật”. Các hội này phải tập hợp những người Annam 
giỏi về khoa học cũng như triết học Phương Tây, đọc hiểu, giải nghĩa 
và bình luận được các sách Phật bằng tiếng Pháp, tiếng Anh. Hội lập 
rồi thì những người trong hội phải “diễn thuyết phép Phật”, “in sách 
về phép Phật ra cho nhiều”, “phải coi xét cách chọn lựa thầy chùa 
Annam cùng cách ăn học của mấy thầy chùa ấy”, cuối cùng lập ra 
“trường cao đẳng về Phật học”. Quan trọng hơn nữa, ông Robert 
khẳng định, việc chấn hưng Phật giáo ở xứ Đông Pháp không hề trái 
với lợi ích của nước Pháp ở xứ này. 
Ý kiến của Robert về việc chấn hưng Phật giáo thực sự có ảnh 
hưởng lớn đến một bộ phận sư tăng cũng như những người có tư 
tưởng chấn hưng phật giáo thời bấy giờ. Bằng chứng là bài báo cũng 
như ý kiến của ông Robert được đề cập trong các bài viết vận động 
chấn hưng Phật giáo của nhiều vị tăng sĩ cũng như cư sĩ trong năm 
1927, như của sư Lai (Bắc Kỳ), của Bất Tài Tử, thậm chí Thần Nông 
báo - một tờ báo phổ thông kiến thức trong lĩnh vực nông nghiệp do 
Nguyễn Gia Huy làm chủ nhiệm, trụ sở tại số 93 đường Carreau, Hà 
Nội (nay là đường Lý Thường Kiệt) còn đăng lại một phần nội dung 
của bài viết trong số 90, ra ngày 21 và 29 tháng 11 năm 1931. 
Mặc dù, hiện tại chúng tôi không tìm thấy một dẫn chứng nào cho 
phép khẳng định sư Khánh Hòa trong cuộc vận động thành lập hội 
Phật giáo có chịu ảnh hưởng từ bài viết này hay không, nhưng rõ ràng 
bài báo của Robert là sự cổ vũ và động viên rất lớn đối với tăng sĩ và 
cư sĩ trong cuộc vận động chấn hưng Phật giáo. Một điều đáng chú ý 
nữa là, năm 1931, khi Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội được thành 
lập, ông G. Robert có tên trong danh sách hội viên danh dự. Điều này 
chắc chắn không phải ngẫu nhiên. 
Trở lại vấn đề hồ sơ xin phép lập hội của Hòa thượng Khánh Hòa 
cuối năm 1927. Hồ sơ này gồm có đơn xin thành lập hội, dự thảo Điều 
lệ, bản khai về mục đích thành lập Hội Phật giáo và đơn xin xuất bản 
tạp chí Từ Bi Âm. Căn cứ vào các giấy tờ nêu trên, có thể biết được 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 67 
những nội dung cụ thể liên quan đến Hội Phật giáo như về tên hội, 
mục đích thành lập, các hạng hội viên 
Về tên hội, chủ trương thành lập một hội của các tín đồ theo Phật 
giáo ở Nam Kỳ lấy tên là “Hội Phật giáo” (L’Association des 
bouddhistes). Hội này sẽ đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn. 
Hội Phật giáo được thành lập nhằm 10 mục đích, gồm, đoàn kết và 
giúp đỡ lẫn nhau giữa các tín đồ Phật giáo trên con đường tu học; 
Nâng cao hiểu biết về Phật giáo trên cơ sở nghiên cứu kinh điển; Bảo 
tồn giáo lý Phật giáo, thiết lập trật tự và kỷ luật tăng giới; Cập nhật 
cho hội viên những tin tức liên quan đến Phật giáo; tổ chức các buổi lễ 
Phật tại hội quán trung ương cũng như ở các địa phương; thành lập 
trường phật học; mở thư viện; xuất bản kinh sách bằng chữ Quốc ngữ; 
tổ chức các cuộc diễn giảng; xuất bản một tờ nguyệt san làm cơ quan 
ngôn luận của hội. Cũng theo tài liệu trong hồ sơ này cho biết, thì tờ 
tạp chí này sẽ lấy tên là Từ Bi Âm, in bằng chữ Quốc ngữ, nhằm mục 
đích làm cơ quan tuyên truyền giáo lý của Phật giáo cũng như cập 
những thông tin trong Hội28. 
Mặc dù còn rất khái quát, nhưng những mục đích được nêu ra, rõ 
ràng cho phép nhận định rằng, Hội rất chú trọng đến việc phổ thông 
giáo lý Phật giáo. Điều đó được thể hiện thông qua hoạt động xuất 
bản kinh sách bằng chữ Quốc ngữ cũng như tạp chí Từ Bi Âm và tổ 
chức diễn giảng. Cần nhắc lại ở đây rằng, lúc bấy giờ kinh điển Phật 
giáo ở Việt Nam chủ yếu bằng chữ Hán, nhưng do Khổng giáo suy 
tàn, nên chỉ một bộ phận nhỏ chư tăng có thể thông hiểu kinh điển, 
trong khi đó chữ Quốc ngữ lại đang được sử dụng ... đại diện cho Thống đốc Nam Kỳ, 
ông Me Béziat - Đốc lý thành phố, cùng với nhiều quan chức Nam, 
Pháp và các chư tăng, tín đồ Phật giáo. Trước sự hiện diện của đại 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 71 
diện chính quyền và chư tăng, ông Trần Nguyên Chấn có một bài phát 
biểu trang trọng bằng tiếng Pháp. Trong bài phát biểu này, ông Trần 
Nguyên Chấn nói rõ mục đích của Thư viện Phật học và Duyệt Kinh 
Thất nhằm chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ. Vì Phật giáo vốn là một 
tôn giáo cổ truyền của người Việt, nhưng lại đang đứng trước nguy cơ 
bị diệt vong do sự xuất hiện của đạo Cao Đài. Ý tưởng này của ông 
phù hợp với chủ trương của Toàn quyền Đông Dương Pasquier. 
Tháng 7 năm 1929, nhân cuộc viếng thăm các tỉnh miền Tây, Pasquier 
nói rằng “Quyết định thành lập một Viện Phật giáo ở Nam Kỳ để bảo 
tồn tôn giáo này”. Nhưng theo ông Trần Nguyên Chấn, trước mắt, 
Thư viện Phật học mang lại nhiều lợi ích cho Phật giáo ở Nam Kỳ 
hơn. Thư viện này tàng trữ kinh sách Phật, bằng chữ Hán, chữ Pháp và 
các tiếng nước ngoài. Tại thời điểm khánh thành, thư viện có 820 tập 
của bộ Tục Tạng Kinh được đặt mua tại Thượng Hải, và 100 tác phẩm 
Phật giáo bằng tiếng Pháp được đặt mua tại Paris. Thư viện bắt đầu 
mở cửa phục vụ công chúng (cả tăng và tục) kể từ ngày 1 tháng 1 năm 
1930. Ông Trần Nguyên Chấn hy vọng sẽ xây dựng Pháp Bảo Phương 
thành hạt nhân cho Phật giáo ở Nam Kỳ. 
Cùng với việc thành lập Thư viện Phật học, những người chủ 
trương chấn hưng cũng quan tâm đến việc xin phép xuất bản tạp chí 
Phật học bằng chữ Quốc ngữ. Cụ thể tháng 9 năm 1929, ông Phạm 
Ngọc Vinh gửi đơn cho Thống đốc Nam Kỳ, xin phép xuất bản tạp chí 
Từ Bi Âm bằng chữ Quốc ngữ. Ông Phạm Ngọc Vinh sinh ngày 15 
tháng 12 năm 1903 tại làng Phú Tài, tổng Đức Thắng (Phan Thiết), 
trong một gia đình quan lại. Cha là ông Phạm Ngọc Quát, Thượng thư 
triều đình Huế, mẹ là bà Trà Thị Thức. Bản thân Phạm Ngọc Vinh làm 
việc tại ngân hàng Đông Pháp từ năm 1923, và là con rể của ông Trần 
Nguyên Chấn. Ngày 30 tháng 4 năm 1931, nghị định số 2683 do Toàn 
quyền Đông Dương René Robin ký, cho phép ông Phạm Ngọc Vinh 
được phép xuất bản tạp chí Từ Bi Âm bằng chữ Quốc ngữ, mỗi tháng 
một kỳ32. 
Bước tiếp theo là việc xin phép thành lập hội Phật giáo. Ngày 28 
tháng 12 năm 1929, ông Trần Nguyên Chấn thay mặt Ban Trị sự tạm 
thời đệ trình hồ sơ xin phép thành lập Association pour l’Etude et la 
Conservation du Bouddhisme en Cochinchine (tạm dịch: Hội Nghiên 
72 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
cứu và Bảo tồn Phật giáo Nam Kỳ) lên Thống đốc Nam Kỳ. Hồ sơ này 
gồm đơn, bản Dự thảo Điều lệ của Hội và danh sách Ban trị sự tạm 
thời. Ban trị sự tạm thời gồm có 8 vị, trong đó tăng sĩ chỉ có một 
người duy nhất là Thiền sư Khánh Hòa, 7 người còn lại đều là cư sĩ và 
đều giữ các chức vụ trong các cơ quan hành chính, hãng sở của chính 
quyền thuộc địa33. Chính quyền thuộc địa nghiên cứu rất tỉ mỉ hồ sơ 
xin phép lập hội, và để đạt được sự phê chuẩn của chính quyền, bản 
dự thảo điều lệ cũng trải qua nhiều lần bổ sung và chỉnh sửa. Lần cuối 
cùng là ngày 19 tháng 8 năm 1931. Ông Trần Nguyên Chấn, thay mặt 
Ban Trị sự tạm thời Association pour l’Etude et la Conservation du 
Bouddhisme en Cochinchine gửi lên Thống đốc Nam Kỳ bản Dự thảo 
Điều lệ được hoàn thiện theo sự hướng dẫn của bức thư số 7190 ngày 
7 tháng 8 năm 1931. Đồng thời, ông cũng xin được bổ sung thêm hai 
chữ “Nam Kỳ” vào tên Hội bằng chữ Quốc ngữ, vừa để diễn tả nghĩa 
chữ “Cochinchine” sang tiếng Việt, vừa để phân biệt với Viện Phật 
học ở Phnom-Penh và Phật giáo Nam tông ở Campuchia và Lào. Sau 
gần hai năm kể từ ngày đệ trình hồ sơ xin phép thành lập, ngày 26 
tháng 8 năm 1931, Thống Đốc Nam Kỳ, J. Krautheimer, đã phê chuẩn 
bản Điều lệ của Hội và cho phép Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội 
được thành lập, quyết định số 206234. 
Theo bản Điều lệ được phê chuẩn, hội quán của Nam Kỳ Nghiên 
cứu Phật học Hội đặt tại chùa Linh Sơn, đường Douaumont, Sài Gòn, 
do Hòa thượng Khánh Hòa làm Chánh Hội trưởng. Bản Điều lệ cũng 
cho biết, mục đích của Hội nhằm sùng thượng Phật giáo tại chùa Linh 
Sơn, đường Douaumont, Sài Gòn và tu bổ chùa ấy; lo sự tu bổ và hành 
động ngôi Pháp Bảo Phương và ngôi Duyệt Kinh Thất lập tại chùa ấy, 
và mua kinh sách chữ Pháp và chữ Hán nói về Phật giáo trữ thêm 
trong ngôi Pháp Bảo Phương; dịch ra chữ Quốc ngữ những kinh sách 
bằng chữ Hán; lập tại chùa Linh Sơn một Thích học đường để dạy 
tăng đồ học đạo. 
Bốn tháng sau khi thành lập, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội 
xuất bản tạp chí Từ Bi Âm làm cơ quan ngôn luận cũng như truyền bá 
Phật giáo. Số đầu tiên ra mắt bạn đọc ngày 1 tháng 1 năm 1932. Tòa 
soạn tạp chí đặt tại chùa Linh Sơn, do Hòa thượng Khánh Hòa làm 
chủ nhiệm. 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 73 
So với mục đích và hoạt động của dự thảo điều lệ Hội Phật giáo 
năm 1927, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội đã giữ lại những “ý 
tưởng công trình” quan trọng như xuất bản tạp chí Từ Bi Âm, phiên 
dịch và xuất bản kinh sách bằng chữ Quốc ngữ. Tác giả của những 
công trình đó, không ai khác là Hòa thượng Khánh Hòa. 
Tuy nhiên, Hòa thượng Khánh Hòa cũng chỉ giữ những chức vụ 
này trong khoảng gần 2 năm. Sao đó, do “Hội đã bị một số cá nhân 
dùng địa vị xã hội của họ để khuynh loát và hướng dẫn về một nẻo 
khác”35 nên Hòa thượng Khánh Hòa từ chức trong Ban Trị sự cũng 
như Chủ nhiệm tạp chí Từ Bi Âm. Cuối năm 1933, Ngài về chùa 
Long Hoa, tổ chức Phật học đường lưu động lấy tên là Liên đoàn 
Phật học xã, rồi lại chuyển sang thành lập Lưỡng Xuyên Phật học 
Hội vào năm 1934. 
3. Kết luận 
Như vậy, qua sự trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng Hòa 
thượng Khánh Hòa chính là vị tiên phong và là tác giả của chủ 
trương thành lập Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội và tạp chí Từ Bi 
Âm. Bản thân Hòa thượng đã tích cực vận động thành lập Hội Phật 
giáo trong hai năm 1927-1928, tuy nhiên, cả hai lần xin phép đều 
không được chính quyền thuộc địa chấp nhận. Kinh nghiệm sau hai 
lần thất bại đã đưa đến sự hợp tác giữa Hòa thượng Khánh Hòa - là 
người có trình độ Phật học uyên bác, lại có sẵn chủ trương hành 
động về việc chấn hưng và ông Trần Nguyên Chấn - người có địa vị 
xã hội, có khả năng tài chính, nhiệt thành sùng Phật cùng với các 
viên chức trong các cơ quan hành chính của chính quyền thuộc địa. 
Sự hợp tác này đã đưa đến sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật 
học Hội vào năm 1931. Đây là hội Phật giáo đầu tiên trong phong 
trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam. Với sự xuất hiện của Nam Kỳ 
Nghiên cứu Phật học Hội, phong trào chấn hưng Phật giáo không 
những đạt được địa vị hợp pháp mà còn khuyến khích các nhà trí 
thức cùng các vị tăng sĩ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ tích cực vận động 
đưa đến sự ra đời của các hội Phật học ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ trong 
các năm sau đó./. 
74 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
CHÚ THÍCH: 
1 Nguyễn Thế Anh (2008), “Les principaux courants de pensée religieuse du 
Vietnam au XXe siècle”, in Nguyễn Thế Anh, Parcours d’un historien du 
Vietnam, Paris, Les Indes savantes: 623-633. 
2 Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 232-234. 
3 Mai Thọ Truyền (2007), Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 98-102. 
4 Vân Thanh (1974), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam qua các thời đại và phát 
nguồn của các giáo phái Phật giáo, Sài Gòn: 185-227. 
5 Nguyễn Lang (1985), Việt NamPhật giáo sử luận, Paris, Lá Bối; tái bản lần thứ 
2, San Jose-USA, 1993, tr. 13-179. 
6 Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học 
xã hội, Hà Nội: 428-472. 
7 Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 
Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội: 524-593. 
8 Trần Văn Giàu (1971), “Phong trào chấn hưng Phật giáo và các vấn đề tư tưởng 
triết học mà phong trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai 
cuộc chiến tranh thế giới”, Nghiên cứu Lịch sử, số 139: 8-21, số 140: 7-19. 
9 Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm (1920-1970) Chấn hưng Phật giáo Việt Nam 
hay là "ghi ơn tiền bối", Sài Gòn. 
10 Thích Đồng Bổn (chủ biên, 1996), Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, Thành 
hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành: 79-220. 
11 Thích Thanh Đạt (1994), Báo chí Phật giáo với phong trào chấn hưng Phật giáo 
1930-1945, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội. 
12 Nguyễn Thị Thảo (2014), Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam 
trước năm 1945, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 
13 Nguyễn Quốc Tuấn (2013), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ 
XX, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
14 Nguyễn Thế Anh (2008), Parcours d’un historien du Vietnam, Paris, Les Indes 
savantes, les chapitres "L’engagement politique du bouddhisme au sud du 
Vietnam dans les années soixante" et "Les principaux courants de pensée 
religieuse du Vietnam au XXe siècle", pp. 614-633. 
15 Trịnh Văn Thảo (2007), Vietnam du Confucianisme au Communisme, Paris, 
L’Harmattan: 305-309. 
16 Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival 
movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Université de Wisconsin, Madison. 
17 Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social 
Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Université de Washington, Washington. 
18 Nguyễn Lang (1985), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất: 51. 
19 Trần Hồng Liên (1995), Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ từ thế 
kỷ XVII đến năm 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 49. 
20 Pascal Bourdeaux (2003), Émergence et constitution de la communauté du 
Bouddhisme Hòa Hảo: Contribution à l’histoire sociale du delta du Mékong, 
1935-1955, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Paris, École Pratique des Hautes Études: 85. 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 75 
21 Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social 
Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Université de Washington, Washington: ii. 
22 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 
23 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất, 
Paris 1985; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA, 1993: 51. 
24 Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival 
movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ triết học, 
Université de Wisconsin, Madison: 134-137. 
25 Chương trình 10 điểm gồm: lập Phật giáo tổng hội, lập Phật gia công học hội, lập 
Phật học tu thư xã, lập giảng đàn, lập trường học cho các con cái thiện tín học, 
lập thư viện trong các chùa, lập ra cuộc y tế trong các chùa, lập nhà bảo cô, tức là 
nhà để nuôi trẻ mồ côi, lập nhà nuôi kẻ khó, dạy nữ công cho con cái thiện tín. 
26 Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Biên niên sử Phật giáo Sài 
Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh, 1600-1992, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 81. 
27 G. Robert (1926), “Vì sao đạo Phật đáng cho hết thảy dân cõi cực đông sùng bái, 
Đông Pháp, ngày 13, 16 và 18 tháng 11. 
28 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 
29 Trung tâm Lưu tữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D.62/432. 
30 Ông là người đã cổ động phong trào duy tân của Phan Châu Trinh cũng như hoạt 
động của Phan Bội Châu. Đồng thời ông còn thành lập Đảng Lập Hiến Đông 
Dương vận động đòi tự trị cho Việt Nam. Đảng này dùng ba tờ báo: La tribune 
indochinoise, L’Écho Annamite và Đuốc Nhà Nam làm diễn đàn. 
31 Kho Lưu trữ Hải ngoại Pháp, Aix-en-Provence, phông Phủ thống sứ Cao Miên, 
hồ sơ 227. 
32 Kho Lưu trữ Hải ngoại Pháp, Aix-en-Provence, phông Phủ thống sứ Cao Miên, 
hồ sơ 227. 
33 Ban Trị sự tạm thời gồm các vị sau: 
Chánh Hội trưởng: Lê Khánh Hòa, Hòa thượng chùa Linh Sơn 
Phó Hội trưởng: Trần Nguyên Chấn, Chánh Thừa Biện hạng nhất tại dinh Đốc lý 
thành phố Sài Gòn 
Thủ quỹ: Trần Văn Khuê, Tri huyện tại phòng thứ sáu dinh Soái Phủ Nam Kỳ 
Phó Thủ quỹ: Lê Văn Phổ, thư ký tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn 
Thư ký: Nguyễn Văn Nhơn, thư ký tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn 
Phó thư ký: Phạm Ngọc Vinh, thư ký tại ngân hàng Đông Pháp, Sài Gòn 
Cố vấn: Huỳnh Văn Quyền, Thông phán thượng hạng tại dinh Đốc lý thành phố; 
Nguyễn Văn Cần, Thừa biện tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn. 
34 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 
35 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất, 
Paris 1985; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA, 1993, tr. 54. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
A. Tài liệu lưu trữ 
76 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
1. Kho Lưu trữ Hải ngoại (Aix-en-Provence, Pháp), phông Phủ Toàn quyền Đông 
Dương, hồ sơ 65539. 
2. Kho Lưu trữ Hải ngoại (Aix-en-Provence, Pháp), phông Phủ Thống sứ Cao 
Miên, hồ sơ 227. 
3. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D.62/432. 
4. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D9.56/58. 
B. Báo chí giai đoạn thuộc địa 
1. G. Robert (1926), “Vì sao đạo Phật đáng cho hết thảy dân cõi cực Đông sùng 
bái”, Đông Pháp, ngày 13, 16 và 18 tháng 11. 
C. Sách tham khảo 
1. Nguyễn Thế Anh (2008), Parcours d’un historien du Vietnam, Paris,Les Indes 
savantes. 
2. Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social 
Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Université de Washington, Washington. 
3. Nguyễn Lang (1985, 1993), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản 
lần thứ nhất, Paris; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA. 
4. Trần Hồng Liên (1995), Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ từ thế 
kỷ XVII đến năm 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
5. Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival 
movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ triết học, 
Université de Wisconsin, Madison. 
6. Pascal Bourdeaux (2003), Émergence et constitution de la communauté du 
Bouddhisme Hòa Hảo: Contribution à l’histoire sociale du delta du Mékong, 
1935-1955, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Paris, École Pratique des Hautes Études. 
7. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Biên niên sử Phật giáo Sài 
Gòn- Gia Định-Thành phố Hồ Chí Minh, 1600-1992, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 
Abstract 
“PIONEER” ROLE OF MASTER KHÁNH HÒA 
IN THE BUDDHIST REVIVAL MOVEMENT IN VIETNAM 
FROM 1920 TO 1945 THROUGH THE ARCHIVES’ DOCUMENTS 
On the basis of analysing the archives’ data (in France and in 
Vietnam), the works in Vietnam and theses, the article clarifies the 
“pioneer” role of Master Khánh Hòa in the Buddhist revival movement 
in Vietnam during the years 1920-1945 in general and the birth of the 
Association of Buddhist Studies in the South (Nam Kỳ) in particular. 
Keywords: Master Khánh Hòa, movement, revival, Buddhism, 
archives, Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_tien_phong_cua_thien_su_khanh_hoa_trong_phong_trao_c.pdf