Về công tác quản lý các trường THPT tư thục trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

TÓM TẮT

Công tác quản lý giáo dục THPT tư thục Thành phố Hồ Chí Minh thời gian

qua có nhiều thành quả trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục; tuy

cũng còn không ít khó khăn, bất cập nhưng đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của giáo

dục nói riêng và kinh tế - xã hội của cả Thành phố nói chung.

pdf 9 trang yennguyen 3800
Bạn đang xem tài liệu "Về công tác quản lý các trường THPT tư thục trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về công tác quản lý các trường THPT tư thục trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Về công tác quản lý các trường THPT tư thục trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
1 
VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC TRƯỜNG THPT TƯ THỤC 
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
 ThS. Lê Văn Khoa1 
TÓM TẮT 
 Công tác quản lý giáo dục THPT tư thục Thành phố Hồ Chí Minh thời gian 
qua có nhiều thành quả trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục; tuy 
cũng còn không ít khó khăn, bất cập nhưng đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của giáo 
dục nói riêng và kinh tế - xã hội của cả Thành phố nói chung. 
Từ khóa: Quản lý, xã hội hóa giáo dục, tư thục, công lập 
1. Mở đầu 
Thành phố Hồ Chí Minh gồm 
19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 
2.095,06 km². Tính đến năm 2014, dân 
số Thành phố là 7.981.900 người (theo 
Tổng cục Thống kê), phía Bắc giáp 
tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp 
tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp 
tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà 
Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp 
tỉnh Long An và Tiền Giang; trung tâm 
Thành phố cách bờ biển Đông 50 km 
theo đường chim bay. Với vị trí tâm 
điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành 
phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao 
thông quan trọng về cả đường bộ, 
đường thủy và đường hàng không, nối 
liền các tỉnh trong vùng và còn là một 
cửa ngõ quốc tế. Sự phát triển nhanh 
mạnh và ổn định của kinh tế - xã hội 
Thành phố trong những năm gần đây 
cùng với cơ chế, chính sách thông 
thoáng đã tạo điều kiện cho giáo dục 
nói chung, giáo dục tư thục nói riêng 
trên địa bàn Thành phố phát triển mạnh, 
tuy cũng còn không ít khó khăn, bất cập 
nhưng đã góp phần đáp ứng nhu cầu 
học tập, thúc đẩy sự phát triển của giáo 
dục nói riêng và kinh tế - xã hội của cả 
Thành phố nói chung. 
2. Vài nét về giáo dục THPT 
tư thục trên địa bàn Thành phố Hồ 
Chí Minh 
Tính đến năm học 2015-2016, 
số trường THPT tư thục trên địa bàn 
Thành phố Hồ Chí Minh là 85 trường 
với trên 100 cơ sở trường lớp ở khắp 
các quận, huyện. Trong đó có 18 
trường gồm nhiều cấp học TH – 
THCS – THPT và 36 trường có hai 
cấp học THCS – THPT. Tổng số học 
sinh cấp THPT là 31.968 học sinh với 
1.056 lớp (bình quân 30,3 HS/lớp), 
phân bố tại các quận, huyện như trong 
Bảng 1. 
1Trường THPT Nguyễn Khuyến TP. Hồ Chí Minh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
2 
Bảng 1. Biên chế trường/lớp/học sinh THPT tư thục ở TP. Hồ Chí Minh 
Địa bàn 
S
ố
 t
rư
ờ
n
g
 Số lớp Số học sinh 
Tổng 
số 
Trong đó 
Tổng 
số 
Trong đó 
Lớp 
10 
Lớp 
11 
Lớp 
12 
Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 
Quận 1 04 75 36 27 12 1.524 758 530 236 
Quận 2 01 3 1 1 1 50 18 20 12 
Quận 3 02 12 5 5 2 273 110 123 40 
Quận 5 04 51 23 19 9 1.447 722 513 212 
Quận 6 04 34 17 11 6 893 508 251 134 
Quận 7 04 45 20 16 9 1,176 576 415 185 
Quận 9 02 48 22 15 11 1,421 647 455 319 
Quận 10 03 42 22 13 7 1.016 519 336 161 
Quận 11 04 105 50 34 21 3.563 1.742 1.158 663 
Quận 12 06 62 30 17 15 1,763 899 485 379 
Quận Gò Vấp 09 86 39 26 21 2.764 1.347 831 586 
Quận Tân Bình 10 202 75 67 60 7.811 2.979 2.650 2.182 
Quận Tân Phú 16 191 85 57 49 5.703 2.734 1.652 1.317 
Quận Bình Thạnh 04 15 8 5 2 384 210 130 44 
Quận Phú Nhuận 03 17 6 6 5 293 109 103 81 
Quận Thủ Đức 02 25 10 9 6 645 300 209 136 
Quận Bình Tân 05 37 18 11 8 1,177 613 323 241 
Huyện Bình Chánh 02 6 3 2 1 65 31 19 15 
Tổng cộng 85 1.056 470 341 245 31.968 14.822 10.203 6.943 
(Nguồn: Thống kê năm học 2015-2016, Sở GDĐT TP. Hồ Chí Minh) 
Trong đó, số lượng học sinh có 
hộ khẩu từ các tỉnh thành khác ở nội trú 
là 12.833 học sinh (chiếm 40,1%) [1]. 
Tổng số cán bộ quản lý các 
trường THPT tư thục trên địa bàn 
Thành phố Hồ Chí Minh (TNCLTP) là 
216 người (bình quân 2,6 
CBQL/trường). Số cán bộ quản lý ở 
mỗi trường có khoảng từ 1 – 6 người 
tùy theo quy mô phát triển của trường; 
cá biệt có trường số phó hiệu trưởng là 
5 người (THCS-THPT Đức Trí, TH-
THCS-THPT Thanh Bình). 
Đặc điểm chung của đội ngũ cán 
bộ quản lý là phần lớn từ nguồn cán bộ 
quản lý các trường công lập đã nghỉ hưu 
nhưng có sức khỏe tốt, có nhiều kinh 
nghiệm trong điều hành hoạt động của 
trường. Trong những năm gần đây, các 
trường THPT tư thục đã chú trọng việc 
xây dựng đội ngũ kế cận, cử tuyển giáo 
viên học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
3 
cán bộ quản lý trường học, vì vậy đội 
ngũ cán bộ quản lý các trường đã được 
trẻ hóa, được bồi dưỡng nghiệp vụ quản 
lý, tạo thêm tính năng động, sáng tạo 
trong công tác quản lý nhà trường. 
Về đội ngũ giáo viên các trường 
tư thục trên địa bàn Thành phố, theo 
thống kê năm học 2015-2016 là 3.384 
người (bình quân 3,2 GV/lớp); trong đó 
số có trình độ trên đại học chiếm tỷ lệ 
khoảng 14,5% [2]. Một số trường có bố 
trí giáo viên chuyên phụ trách công tác 
Đoàn – Đội trong nhà trường. 
Đặc điểm chung của đội ngũ 
giáo viên hệ thống các trường tư thục 
là được tuyển chọn từ nhiều nguồn như 
hợp đồng giáo viên tự do, giáo viên đã 
về hưu, hoặc thỉnh giảng giáo viên từ 
các trường công lập tham gia giảng 
dạy. Một số trường có sử dụng giáo 
viên nước ngoài trong giảng dạy ngoại 
ngữ và giáo dục kỹ năng sống. Đội ngũ 
giáo viên hầu hết được đào tạo chính 
quy đạt chuẩn và trên chuẩn, có tinh 
thần trách nhiệm cao, nhiệt tình công 
tác, có kinh nghiệm giảng dạy, có lòng 
yêu nghề, quan tâm chăm sóc học sinh, 
có ý thức rèn luyện đạo đức, phẩm chất 
chính trị, lối sống, luôn học tập để 
nâng cao tay nghề, đạt hiệu quả giảng 
dạy cao. 
Về cơ sở vật chất, thống kê năm 
học 2015-2016, tổng số phòng học các 
trường THPT tư thục là 1.583 phòng 
học, trong đó số phòng học kiên cố là 
1.529 phòng. Về cơ bản, cơ sở vật chất 
phục vụ giảng dạy của các trường như 
phòng ốc, trang thiết bị, thư viện 
phục vụ học tập của học sinh ngày càng 
được đầu tư tốt hơn. Trong quá trình 
phát triển, nhiều trường đã xây mới 
trường lớp và trang bị các thiết bị dạy 
học theo chuẩn quy định, điển hình là 
các trường: Tiểu học, THCS và THPT 
Ngô Thời Nhiệm; Tiểu học, THCS và 
THPT Nguyễn Khuyến; THCS và 
THPT Bắc Mỹ; THCS và THPT Ngôi 
Sao; THCS và THPT Trí Đức; THCS 
và THPT Nhân Văn; Tiểu học, THCS 
và THPT Thanh Bình; THCS và THPT 
Sao Việt; THCS và THPT Duy Tân; 
THPT Hòa Bình; THCS và THPT Hồng 
Đức; Tiểu học, THCS và THPT Vạn 
Hạnh Một số trường còn phải thuê 
mướn cơ sở vật chất, thường là các tòa 
nhà được cải tạo thành cơ sở dạy học 
với trang thiết bị nhưng nhìn chung đảm 
bảo tương đối đầy đủ các điều kiện 
phục vụ dạy học và có cam kết xây 
dựng trường sau 5 năm hoạt động. Các 
trường có yếu tố nước ngoài có diện 
tích mặt bằng rộng, đầu tư nhiều về cơ 
sở vật chất nên trường lớp khang trang, 
sạch đẹp, quy mô. Hầu hết các trường 
đều đảm bảo các điều kiện cơ sở vật 
chất phục vụ ăn ở, sinh hoạt, giải trí cho 
học sinh nội trú tại trường. 
Hằng năm, căn cứ chỉ đạo của 
Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường 
THPT tư thục đều tiến hành xây dựng 
và tổ chức triển khai các kế hoạch hoạt 
động nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ 
dạy học và giáo dục theo mục tiêu năm 
học. Các loại kế hoạch được xây dựng 
và triển khai thực hiện như: Kế hoạch 
năm học; Kế hoạch giáo dục chính trị, 
tư tưởng; Kế hoạch chuyên môn; Kế 
hoạch tổ chức hoạt động giáo dục ngoài 
giờ lên lớp; Kế hoạch tổ chức dạy nghề, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
4 
hướng nghiệp; Kế hoạch tổ chức dạy 
học 02 buổi/ngày,... Tất cả các kế hoạch 
này đều được Sở Giáo dục và Đào tạo 
kiểm tra và phê duyệt. 
Kết quả học tập của học sinh 
THPT tư thục Thành phố Hồ Chí Minh 
có thể thấy qua sự phát triển theo các 
giai đoạn như sau [1]: 
Năm học 2005-2006, số học sinh 
xếp loại giỏi: 3.222 học sinh (đạt 
14,2%); loại khá: 8.531 học sinh (đạt 
37,5%); trung bình: 9.960 học sinh (đạt 
43,8%); yếu, kém: 1.022 học sinh (đạt 
4,5%); tỷ lệ đậu tốt nghiệp trung học 
phổ thông trên 95%, nhiều trường đạt 
100%. 
Năm học 2009-2010 số học sinh 
xếp loại giỏi: 4.871 học sinh (đạt 
14,5%); loại khá: 14.176 học sinh (đạt 
42,0%); trung bình: 14.353 học sinh 
(đạt 42,6%); yếu, kém: 330 học sinh 
(đạt 0,9%). Tỷ lệ học sinh đạt loại khá, 
giỏi tăng; tỷ lệ đậu tốt nghiệp trung học 
phổ thông tương đương giai đoạn trước. 
Năm học 2013-2014 số học sinh 
xếp loại giỏi: 10.964 học sinh (đạt 
27,1%); loại khá: 17.907 học sinh (đạt 
44,2%); trung bình: 10.649 học sinh 
(đạt 26,3%); yếu, kém: 994 học sinh 
(đạt 2,4%). Nhiều trường có tỷ lệ tốt 
nghiệp trung học phổ thông đạt 100% 
do các trường hết sức nỗ lực và có 
nhiều phương pháp tác động để không 
ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy. 
Có thể hình dung kết quả học 
tập của học sinh THPT tư thục Thành 
phố qua các giai đoạn trong sơ đồ ở 
hình 1: 
Hình 1. Biểu đồ phát triển chất lượng học tập qua các giai đoạn 
(Nguồn: Báo cáo số 776/GDĐT-QLCSGDNCL ngày 24/3/2015 của Sở Giáo dục và 
Đào tạo TP. Hồ Chí Minh) 
Nhìn chung, trong xu thế cạnh 
tranh để tồn tại các trường THPT tư 
thục Thành phố đang có nhiều biện 
pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, 
đã có không ít trường tư thục có chất 
lượng dạy học nổi trội hơn hẳn các 
trường công lập như: Trường Tiểu học, 
THCS và THPT Nguyễn Khuyến; 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
5 
Trường Tiểu học, THCS và THPT Ngô 
Thời Nhiệm, v.v 
3. Chủ trương, chính sách 
quản lý các trường THPT tư thục 
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 
Nghị quyết các kỳ Đại hội của 
Đảng luôn khẳng định quan điểm của 
Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh công 
tác xã hội hóa giáo dục để phát huy tinh 
thần dân chủ, huy động các nguồn lực 
xã hội tham gia vào các hoạt động giáo 
dục: “Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và 
đào tạo. Huy động và sử dụng có hiệu 
quả mọi nguồn lực cho giáo dục và đào 
tạo” [3]. “Thực hiện xã hội hoá giáo 
dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí 
tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự 
nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa 
ngành giáo dục với các ban, ngành, các 
tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề 
nghiệp... để mở mang giáo dục, tạo điều 
kiện học tập cho mọi thành viên trong 
xã hội” [4]. “Hoàn thiện cơ chế, chính 
sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo trên 
cả ba phương diện: động viên các 
nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò 
giám sát của cộng đồng; khuyến khích 
các hoạt động khuyến học, khuyến tài, 
xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện 
để người dân được học tập suốt đời” 
[5]. “Phát triển hợp lý và bảo đảm bình 
đẳng giữa giáo dục công lập và giáo dục 
ngoài công lập” [6]. 
Quan điểm quản lý nhà nước đối 
với trung học phổ thông tư thục nói 
riêng được quy định trong Luật Giáo 
dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 
2009) [7]: “Trường dân lập, trường tư 
thục tự chủ và tự chịu trách nhiệm về 
quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà 
trường, tổ chức các hoạt động giáo dục, 
xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, 
huy động, sử dụng và quản lý các nguồn 
lực để thực hiện mục tiêu giáo dục” 
(Khoản 2 Điều 65) và quy định trong 
Quy chế tổ chức và hoạt động của 
trường tiểu học, trường trung học cơ sở, 
trường trung học phổ thông và trường 
phổ thông có nhiều cấp học loại hình tư 
thục (Ban hành kèm theo Thông tư số 
13/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Quan 
điểm, đường lối này được cụ thể hóa ở 
nhiều văn bản dưới luật và trong các 
công văn hướng dẫn, triển khai tổ chức 
hoạt động của Sở Giáo dục và Đào tạo 
TP. Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực. 
Ngoài ra, trên cơ sở các quy định 
chung, căn cứ vào sự thỏa thuận với cha 
mẹ học sinh và điều kiện thực tế mà các 
trường có quyền tự chủ, tự chịu trách 
nhiệm trước pháp luật, cơ quan quản lý 
giáo dục trong việc tổ chức, điều hành 
các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, 
bảo đảm chất lượng giáo dục và hoạt 
động của trường trong phạm vi nhiệm vụ 
và quyền hạn được giao. 
Năm học 2016-2017, Ủy ban 
nhân dân Thành phố cũng đã có chỉ thị 
cho phép các trường “đẩy mạnh thực 
hiện phân cấp quản lý giáo dục theo 
tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu 
trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ 
giáo dục; tăng cường thanh tra, kiểm tra 
và xử lý nghiêm các vi phạm nhằm đảm 
bảo tính đồng bộ và hiệu quả quản lý 
nhà nước” (Chỉ thị số 17/CT-UBND 
ngày 19/9/2016 của Ủy ban nhân dân 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
6 
Thành phố về việc thực hiện nhiệm vụ 
giáo dục và đào tạo năm học 2016-2017 
tại Thành phố Hồ Chí Minh). 
Kể từ năm học 2015-2016, Sở 
Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí 
Minh cũng đã thành lập Phòng Quản lý 
cơ sở Giáo dục Ngoài công lập nhằm 
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý 
các trường ngoài công lập trên địa bàn 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
4. Một số khó khăn, bất cập 
Mặc dù đạt được những bước 
tiến quan trọng trong thời gian gần đây 
nhưng giáo dục TP. Hồ Chí Minh vẫn 
còn nhiều khiếm khuyết. Tại Hội nghị 
tổng kết năm học 2015-2016 và triển 
khai nhiệm vụ năm học mới 2016-2017 
của Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ 
Chí Minh (ngày 12/8/2016), Bí thư 
Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Đinh La 
Thăng đã chỉ ra nhiều điều bất cập, yếu 
kém như: tệ nạn dạy thêm, học thêm; 
thiếu cơ sở và giáo viên được đào tạo 
theo chuẩn cho việc chăm sóc trẻ em ở 
tuổi mầm non; chương trình dạy kiến 
thức còn tạo áp lực cho học sinh và các 
bậc phụ huynh; hiện tượng quá tải về 
số học sinh trong một lớp học còn xảy 
ra ở khắp nơi; vẫn còn để xảy ra bạo 
lực học đường từ cả phía giáo viên và 
học sinh, sinh viên. Ngay cả chất lượng 
chuyên môn của giáo viên, nhất là giáo 
viên môn Tiếng Anh cũng còn nhiều 
hạn chế; việc chưa thống nhất được 
đầu mối quản lý trong giáo dục nghề 
nghiệp khiến còn buông lỏng công việc 
này ở nhiều nơi; việc quản lý cơ sở 
giáo dục có yếu tố nước ngoài còn 
nhiều bất cập [8]. 
Thể hiện của những khó khăn, 
bất cập này ở khối trường THPT tư thục 
cụ thể trên các mặt như: 
- Học sinh đầu vào thường là có 
học lực yếu kém, hạnh kiểm chưa 
ngoan; thường xuyên chuyển đến, 
chuyển đi trong năm học; không có 
động cơ học tập đúng đắn. Khá nhiều 
học sinh do ảnh hưởng từ mạng thông 
tin và các tệ nạn bên ngoài nên còn một 
số biểu hiện tiêu cực trong lối sống, 
trong cách ứng xử với mọi người xung 
quanh và cả việc nhận thức về chuẩn 
mực đạo đức xã hội. 
- Số lượng giáo viên cơ hữu còn 
ít, đa số là thỉnh giảng thường xuyên 
thay đổi nên có nhiều khó khăn trong 
điều hành, chỉ đạo các hoạt động 
chuyên môn. Một số cán bộ quản lý, 
giáo viên còn ngán ngại trong việc thực 
hiện đổi mới, có tâm lý trông chờ sự 
hướng dẫn của cấp trên, còn duy trì 
cách quản lý, dạy dỗ bắt buộc, áp đặt 
một chiều theo lối cũ nặng về truyền thụ 
và đánh giá kiến thức, chưa chú trọng 
phát triển năng lực học sinh, làm hạn 
chế khả năng tích cực, chủ động của 
học sinh. 
- Một số phụ huynh lo công việc 
làm ăn, kinh doanh, ít quan tâm đến học 
sinh, không có thời gian để nhắc nhở, 
hướng dẫn các em trong học tập, trong 
cuộc sống thường nhật; có cả không ít 
trường hợp bất lực trong nuôi dạy con, 
phó mặc cho nhà trường. 
Nguyên nhân của những hạn chế, 
yếu kém: 
- Nhận thức, tâm lý và hành 
động của một số cán bộ quản lý, giáo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
7 
viên về đổi mới giáo dục chưa phù hợp 
với yêu cầu thực tiễn; chưa tích cực, 
chủ động trong tổ chức hoạt động nhằm 
thực hiện nhiệm vụ đổi mới căn bản, 
toàn diện giáo dục nhà trường theo yêu 
cầu của Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội 
nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung 
ương khóa XI [9]. 
- Năng lực của một số cán bộ 
quản lý ở các trường không đủ đáp ứng 
với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay 
(phần đống là cán bộ quản lý các trường 
công lập đã nghỉ hưu); trình độ, kỹ năng 
điều hành, quản lý còn hạn chế. Đa số 
làm việc dựa trên kinh nghiệm cá nhân, 
chưa chú trọng đến công tác dự báo, 
xây dựng chiến lược và kế hoạch hoạt 
động; phong cách làm việc còn lúng 
túng, một số cán bộ quản lý còn thiếu 
chủ động, chưa sáng tạo, trông chờ vào 
hướng dẫn của cấp trên, còn chậm trễ 
trong việc giải quyết các vấn đề ở cơ sở, 
chưa có sự linh hoạt, mạnh dạn trong 
quản lý, khả năng thuyết phục quần 
chúng còn hạn chế; phương pháp làm 
việc chưa thật sự đáp ứng yêu cầu của 
nhiệm vụ. 
- Một số giáo viên còn tư tưởng 
làm thuê, thiếu tâm huyết, chưa đầu tư 
tốt cho các hoạt động dạy học và giáo 
dục; chưa thực sự cố gắng tu dưỡng, rèn 
luyện phẩm chất đạo đức và năng lực 
chuyên môn; kỹ năng sử dụng thiết bị, 
đồ dùng và ứng dụng công nghệ thông 
tin trong dạy học còn hạn chế; chậm đổi 
mới phương pháp dạy học dẫn đến chất 
lượng dạy học chưa cao. 
- Sự phối hợp giữa nhà trường, gia 
đình và xã hội chưa thực sự hiệu quả. 
Những tiêu cực, tệ nạn trong xã hội 
đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức, 
lẽ sống của giới trẻ trong khi nhiều phụ 
huynh chưa nhận thức rõ tầm quan 
trọng của giáo dục, một số khác có hoàn 
cảnh khó khăn nên chưa thực sự quan 
tâm đến việc giáo dục con em. 
- Mặt khác, vì là trường tư thục 
nên kinh phí do Hội đồng quản trị cấp 
chủ yếu cho lương; kinh phí cho các 
hoạt động phong trào, khen thưởng rất 
hạn chế dẫn đến chưa khuyến khích 
được giáo viên và học sinh, chưa thúc 
đẩy hiệu quả các hoạt động thi đua 
dạy học. 
- Ngoài ra, một số cơ chế, chính 
sách quản lý nhà nước nói chung đối 
với các trường tư thục cũng còn nhiều 
bất cập gây trở ngại không ít cho sự 
phát triển của các trường như: quy định 
về quỹ đất, quy định về số học sinh Việt 
Nam không quá 20% học sinh ở các 
trường THPT có vốn đầu tư nước 
ngoài 
5. Kết luận và kiến nghị 
Xã hội hóa giáo dục là một quan 
điểm đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với xu 
thế thời đại vừa góp phần giảm thiểu, 
xóa bỏ thế độc quyền đầu tư vào giáo 
dục của Nhà nước vừa huy động được 
các nguồn lực trong xã hội tham gia vào 
giáo dục. Những thành tựu hoạt động 
trên lĩnh vực này thời gian qua đã 
chứng minh điều đó, đặc biệt ở các tỉnh 
thành lớn trên cả nước mặc dù còn 
nhiều khó khăn bất cập chưa được giải 
quyết cả từ góc độ quản lý hoặc ở khâu 
tổ chức thực hiện. TP. Hồ Chí Minh là 
địa phương đi đầu cả nước trong triển 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
8 
khai và thực hiện chủ trương xã hội hóa 
giáo dục. Hiện nay mạng lưới các 
trường ngoài công lập ở Thành phố đã 
phủ khắp các bậc học từ mầm non, phổ 
thông đến đại học với hàng chục ngàn 
học sinh, sinh viên đang theo học. Đây 
là sự đóng góp to lớn của cộng đồng 
trong việc tạo dựng một xã hội học tập, 
giúp giảm tải gánh nặng cho ngân sách 
Thành phố đang phải trang trải quá 
nhiều cho các mục tiêu phát triển kinh 
tế - xã hội. 
Để khắc phục, hạn chế những 
khó khăn, bất cập trong quản lý hoạt 
động giáo dục tại các trường THPT tư 
thục trên địa bàn Thành phố nói riêng, 
các trường ngoài công lập nói chung, 
trong thời gian tới, thiết nghĩ Nhà nước 
cần phải có những chính sách minh 
bạch, tạo điều kiện cạnh tranh công 
bằng giữa các khu vực công lập/ngoài 
công lập. Bản thân các trường THPT tư 
thục trên Thành phố cần tích cực đổi 
mới trong quản lý, trong giáo dục, dạy 
học, lấy sự tiến bộ của học sinh, sự hài 
lòng của phụ huynh làm mục tiêu tồn 
tại. Đó là cách để khẳng định vị thế và 
vai trò của các trường ngoài công lập 
trong việc thực hiện chủ trương xã hội 
hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo số 776/GDĐT-
QLCSGDNCL ngày 24/3/2015 
2. Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo học kì 1 năm 
học 2015-2016 các trường THPT tư thục 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần 
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần 
thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần 
thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần 
thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
7. Quốc hội (2005), Luật Giáo dục, Luật số 38/2005/QH11 
8. 
vu-trong-tam-cua-nam-hoc-moi-2165361-v.html 
9. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-
2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa và hội nhập quốc tế 
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Đề án xã hội hóa giáo dục và đào tạo, 
Nxb. Giáo dục, Hà Nội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 03 - 2016 ISSN 2354-1482 
9 
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Điều lệ trường trung học cơ sở, trường 
trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo 
Thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) 
12. Chính phủ (2005), Nghị quyết số 05/2005/NQ – CP về đẩy mạnh xã hội 
hóa lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao 
ON THE EDUCATIONAL MANAGERIAL WORK OF 
 THE PRIVATE HIGH SCHOOLS IN HO CHI MINH CITY 
ABSTRACT 
The educational managerial work of the private high schools in Ho Chi Minh 
City has achieved many accomplishments in the policy of educational socialization 
for the past few years. Despite encountering many difficulties and shortcomings, it 
itself has contributed to the promoting of educational development in particular and 
socio-economic development of the city in general. 
Keywords: management, educational socialization, private, public 

File đính kèm:

  • pdfve_cong_tac_quan_ly_cac_truong_thpt_tu_thuc_tren_dia_ban_tha.pdf