Xác định mối tương quan giữa hàm lượng nitơ trong đất với hàm lượng nitrat tích lũy trong một số loại rau xanh

Nitơ là một trong những yếu tố dinh dưỡng

quan trọng và rất cần thiết cho quá trình sinh

trưởng và phát triển của các loài cây trồng. Nitơ

tham gia vào cấu thành các chất liệu di truyền và

tất cả các loại protein cũng như các thành phần chủ

yếu khác của tế bào thực vật. Khi không được cung

cấp đủ hàm lượng nitơ cần thiết, quá trình sinh

trưởng và phát triển của cây trồng sẽ bị hạn chế

hoặc ngưng hoàn toàn. Năng suất cây trồng phụ

thuộc rất lớn vào hàm lượng phân nitơ bón vào đất.

Nhưng khi bón với liều lượng quá nhiều sẽ dẫn đến

sự tích luỹ một dư lượng đáng kể nitrat (NO3-)

trong nông phẩm, đặc biệt là các loài rau xanh có

thời gian canh tác ngắn và là những thực phẩm

chính sử dụng hàng ngày của người dân [2].

Việc giảm hàm lượng NO3- trong rau quả đang

là một vấn đề lớn và quan trọng trong sản xuất

nông nghiệp trên thế giới. Nông phẩm có dư lượng

NO3- cao thì càng có nhiều nguy cơ gây ngộ độc

cho người tiêu dùng. Khi xâm nhập vào cơ thể

người với liều lượng cao, NO3- sẽ chuyển thành

nitrit (NO2-) dưới tác động của các enzim trong cơ

thể, ngăn cản việc hình thành và trao đổi ôxy của

hemoglobine trong máu, dẫn đến tình trạng thiếu

ôxy của tế bào (ngộ độc nitrat). Ngoài ra, NO2-

trong cơ thể là nguồn tạo ra các nitroza gây ung

thư. NO3- đặc biệt nguy hại với cơ thể trẻ em [1].

Để hạn chế mối nguy hại do NO3- tồn dư trong

nông phẩm gây ra, đặc biệt là trong các sản phẩm

rau quả, người ta đã đưa ra quy định mức tối đa dư

lượng NO3- có trong từng loài rau quả. Việc nghiên

cứu mối tương quan giữa hàm lượng NO3- trong

rau quả với với lượng phân bón vô cơ đưa vào đất

và diễn biến hàm lượng NO3- trong rau quả theo

thời gian là rất cần thiết. Các kết quả nghiên cứu

này sẽ góp phần xác định lượng phân bón cần thiết

và thời gian thu hoạch thích hợp cho một số loài

rau quả để hàm lượng nitrat tích lũy trong sản

phẩm không vượt quá giới hạn cho phép [4].

pdf 6 trang yennguyen 4800
Bạn đang xem tài liệu "Xác định mối tương quan giữa hàm lượng nitơ trong đất với hàm lượng nitrat tích lũy trong một số loại rau xanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xác định mối tương quan giữa hàm lượng nitơ trong đất với hàm lượng nitrat tích lũy trong một số loại rau xanh

Xác định mối tương quan giữa hàm lượng nitơ trong đất với hàm lượng nitrat tích lũy trong một số loại rau xanh
 418
35(4), 418-423 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013 
XÁC ĐỊNH MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA HÀM LƯỢNG 
NITƠ TRONG ĐẤT VỚI HÀM LƯỢNG NITRAT 
TÍCH LŨY TRONG MỘT SỐ LOẠI RAU XANH 
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG 
E-mail: lanhuong.vdl@gmail.com 
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Ngày nhận bài: 15 - 9 - 2013 
1. Mở đầu 
Nitơ là một trong những yếu tố dinh dưỡng 
quan trọng và rất cần thiết cho quá trình sinh 
trưởng và phát triển của các loài cây trồng. Nitơ 
tham gia vào cấu thành các chất liệu di truyền và 
tất cả các loại protein cũng như các thành phần chủ 
yếu khác của tế bào thực vật. Khi không được cung 
cấp đủ hàm lượng nitơ cần thiết, quá trình sinh 
trưởng và phát triển của cây trồng sẽ bị hạn chế 
hoặc ngưng hoàn toàn. Năng suất cây trồng phụ 
thuộc rất lớn vào hàm lượng phân nitơ bón vào đất. 
Nhưng khi bón với liều lượng quá nhiều sẽ dẫn đến 
sự tích luỹ một dư lượng đáng kể nitrat (NO3-) 
trong nông phẩm, đặc biệt là các loài rau xanh có 
thời gian canh tác ngắn và là những thực phẩm 
chính sử dụng hàng ngày của người dân [2]. 
Việc giảm hàm lượng NO3- trong rau quả đang 
là một vấn đề lớn và quan trọng trong sản xuất 
nông nghiệp trên thế giới. Nông phẩm có dư lượng 
NO3- cao thì càng có nhiều nguy cơ gây ngộ độc 
cho người tiêu dùng. Khi xâm nhập vào cơ thể 
người với liều lượng cao, NO3- sẽ chuyển thành 
nitrit (NO2-) dưới tác động của các enzim trong cơ 
thể, ngăn cản việc hình thành và trao đổi ôxy của 
hemoglobine trong máu, dẫn đến tình trạng thiếu 
ôxy của tế bào (ngộ độc nitrat). Ngoài ra, NO2- 
trong cơ thể là nguồn tạo ra các nitroza gây ung 
thư. NO3- đặc biệt nguy hại với cơ thể trẻ em [1]. 
Để hạn chế mối nguy hại do NO3- tồn dư trong 
nông phẩm gây ra, đặc biệt là trong các sản phẩm 
rau quả, người ta đã đưa ra quy định mức tối đa dư 
lượng NO3- có trong từng loài rau quả. Việc nghiên 
cứu mối tương quan giữa hàm lượng NO3- trong 
rau quả với với lượng phân bón vô cơ đưa vào đất 
và diễn biến hàm lượng NO3- trong rau quả theo 
thời gian là rất cần thiết. Các kết quả nghiên cứu 
này sẽ góp phần xác định lượng phân bón cần thiết 
và thời gian thu hoạch thích hợp cho một số loài 
rau quả để hàm lượng nitrat tích lũy trong sản 
phẩm không vượt quá giới hạn cho phép [4]. 
2. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu là hàm lượng nitơ trong 
đất phù sa sông Hồng không được bồi ở thôn Cổ 
Điển, xã Hải Bối, huyện Đông Anh, thành phố Hà 
Nội. Đây là vùng chuyên sản xuất rau xanh cung 
cấp cho thị trường Hà Nội. Nghiên cứu tập trung 
vào 8 loài rau được người dân trồng phổ biến gồm: 
rau dền, rau mồng tơi, rau đay, rau muống, rau 
ngót, cải canh, cải bẹ mào gà, cải ngọt (bảng 1). 
Bảng 1. Các loài rau xanh được nghiên cứu 
STT Loài rau xanh Ký hiệu Thời gian lấy mẫu 
1 Rau dền RR 20/05/2012 
2 Rau mồng tơi MT 20/05/2012 
3 Rau đay RĐ 20/05/2012 
4 Rau muống RM 20/05/2012 
5 Rau ngót RN 20/05/2012 
6 Cải canh CC 15/10/2012 
7 Cải bẹ mào gà CMG 15/10/2012 
8 Cải ngọt CN 15/10/2012 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp bón phân đạm: loại phân bón 
được sử dụng cho các thí nghiệm là phân đạm 
amôn 36% N. Phân đạm được hòa tan vào nước và 
tưới lên các luống trồng rau với tỷ lệ 14kg phân 
đạm tưới cho 1.000m2 đất trồng rau. 
 419
- Phương pháp lấy mẫu ngoài thực địa: các mẫu 
đất, rau xanh được lấy vào thời điểm trước khi bón 
phân trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 10 năm 
2012, tùy thuộc vào từng loài rau. Sau khi bón phân 
đạm 03 ngày bắt đầu lấy các mẫu đất và mẫu rau và 
cứ cách 02 ngày lấy mẫu lặp lại đến ngày thứ 17 sau 
khi bón phân. Các mẫu đất được lấy và bảo quản 
theo TCVN 5297-1995. Các mẫu rau xanh được lấy 
theo Tiêu chuẩn ngành 10TCN 449-2001. 
- Phương pháp phân tích trong phòng thí 
nghiệm: hàm lượng NO3- trong các mẫu rau xanh 
được phân tích bằng phương pháp trắc quang trên 
máy so màu UV-VIS. Hàm lượng nitơ tổng số 
trong đất được phân tích bằng phương pháp 
Kjeldahl. Các mẫu đất và rau xanh được xử lý và 
phân tích tại Phòng Phân tích Thí nghiệm Tổng 
hợp Địa lý - Viện Địa lý. Phân tích nhắc lại 3 lần 
trên mỗi mẫu đất và mẫu rau, sau đó lấy giá trị 
trung bình của 3 lần phân tích. 
- Phương pháp so sánh: Kết quả phân tích hàm 
lượng nitơ trong đất được so sánh trong Tiêu chuẩn 
Việt Nam TCVN 7373:2004 và hàm lượng nitrat 
trong các mẫu rau xanh được so sánh với giới hạn 
tối đa cho phép quy định tại Quyết định số 
99/2008/QĐ-BNN. 
3. Kết qủa nghiên cứu 
3.1. Hàm lượng nitơ trong đất và nitrat trong rau 
trước khi bón phân đạm 
Kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng nitơ 
tổng số trong đất trồng rau trước khi bón phân ở 
khu vực nghiên cứu là khá cao so với giá trị trung 
bình về hàm lượng nitơ tổng số trong đất phù sa ở 
Việt Nam quy định tại Tiêu chuẩn Việt Nam 
7373:2004 (giá trị trung bình của nitơ tổng số là 
0,141%) [3]. Khi chưa bón thúc phân đạm cho rau
gần đến kỳ thu hoạch, hàm lượng nitrat trong rau 
ghi nhận được là rất thấp, nằm dưới giới hạn cho 
phép (500 mg NO3-/kg rau tươi) về rau an toàn của 
Bộ NN&PTNN quy định (hình 1). 
Hình 1. Hàm lượng nitrat tích lũy trong các loài rau trước khi bón 
phân đạm 
Hàm lượng NO3- tích lũy có sự biến động giữa 
các loài rau và phụ thuộc vào chu kỳ canh tác. Hàm 
lượng NO3- tích lũy trong những loài rau có chu kỳ 
canh tác dài ngày lớn hơn so với hàm lượng tích 
lũy trong các loài rau có chu kỳ canh tác ngắn 
ngày. Cụ thể, cải bẹ mào gà có chu kỳ canh tác 
khoảng 40 - 45 ngày và hàm lượng NO3- ghi nhận 
trong rau thu hoạch lên đến 59,77 mg/kg; rau 
muống có chu kỳ canh tác 35 - 40 ngày và hàm 
lượng NO3- ghi nhận ở mức 57,43 mg/kg; rau dền 
có chu kỳ canh tác 30 - 35 ngày và hàm lượng 
NO3- ghi nhận là 38,68 mg/kg; cải ngọt có chu kỳ 
canh tác 30 - 35 ngày và hàm lượng NO3- ghi nhận 
là 48,60 mg/kg (bảng 2). 
Bảng 2. Kết quả phân tích hàm lượng nitơ trong đất và NO3- trong rau xanh 
Loài rau Thông số 
RR MT RĐ RM RN CC CMG CN 
N trong đất (%) 0,168 0,173 0,179 0,165 0,177 0,149 0,155 0,143
NO3- trong rau (mg/kg) 38,68 51,90 49,75 57,43 55,41 50,64 59,77 48,60
Chu kỳ canh tác (ngày) 30-35 30-35 30-35 35-40 35-40 30-35 40-45 30-35
3.2. Hàm lượng nitơ trong đất và nitrat trong rau 
sau khi bón phân đạm 
Sau khi bón phân đạm, giá trị nitơ trung bình 
trong đất trồng các loài rau có xu hướng giảm dần 
theo thời gian. Hàm lượng nitơ trung bình trong đất 
ghi nhận được sau ngày thứ 3 bón phân là 0,863% 
và đến ngày thứ 5 giảm xuống còn 0,645%; ngày 
thứ 7 còn 0,564%; ngày thứ 9 còn 0,427%; ngày 
thứ 11 còn 0,379%; ngày thứ 13 còn 0,365%; ngày 
thứ 15 còn 0,298 và đến ngày thứ 17 giảm xuống 
chỉ còn 0,173%. Điều này có thể giải thích là do sự 
hấp thụ chất dinh dưỡng tăng dần theo sự phát triển 
sinh khối của cây rau trong quá trình sinh trưởng 
và do quá trình tưới nước làm một phần chất dinh 
dưỡng bị rửa trôi bề mặt và rửa trôi xuống tầng đất 
dưới (bảng 3, hình 2). 
0
100
200
300
400
500
600
RR MT RĐ RM RN CC CMG CN
Hàm lượng nitrat trong các loài rau trước khi bón phân đạm 
(mg/kg)
TCCP
 420
Bảng 3. Kết quả phân tích hàm lượng nitơ trong đất và nitrat trong rau sau khi bón phân đạm 
Loài rau xanh Thời điểm lấy 
mẫu sau 
bón phân 
Chỉ tiêu 
RR MT RĐ RM RN CC CMG CN 
N (%) 0,863 0,896 0,858 0,978 0,875 0,903 0,935 0,964 3 ngày 
NO3-(mg/kg) 461,54 423,21 349,97 482,65 498,49 576,58 532,62 556,81 
N(%) 0,645 0,582 0,673 0,634 0,702 0,764 0,636 0,673 5 ngày 
NO3-(mg/kg) 578,41 653,52 560,38 536,70 503,65 603,11 621,35 597,08 
N(%) 0,564 0,462 0,501 0,516 0,528 0,487 0,491 0,508 7 ngày 
NO3-(mg/kg) 593,54 587,97 605,13 597,22 578,56 635,89 637,50 610,23 
N(%) 0,427 0,408 0,387 0,402 0,459 0,399 0,402 0,471 9 ngày 
NO3-(mg/kg) 603,98 623,54 598,76 613,09 580,43 587,08 599,11 580,73 
N(%) 0,379 0,354 0,328 0,297 0,288 0,301 0,382 0,403 11 ngày 
NO3-(mg/kg) 530,65 498,56 503,50 570,62 511,26 509,63 510,81 498,06 
N(%) 0,365 0,344 0,307 0,280 0,267 0,273 0,299 0,296 13 ngày 
NO3-(mg/kg) 498,87 404,56 487,65 499,72 425,43 487,05 498,18 423,47 
N(%) 0,298 0,239 0,276 0,212 0,203 0,211 0,199 0,226 15 ngày 
NO3-(mg/kg) 354,91 325,43 314,54 297,89 306,87 311,23 324,76 287,19 
N(%) 0,173 0,201 0,215 0,174 0,154 0,162 0,146 0,137 17 ngày 
NO3-(mg/kg) 297,40 210,43 287,54 169,03 247,18 274,11 248,25 198,31 
%N trong đất trồng rau
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1
3 ngày 5 ngày 7 ngày 9 ngày 11 ngày 13 ngày 15 ngày 17 ngày
Thời gian sau bón phân
Hình 2. Biến động hàm lượng nitơ trong đất trồng rau 
sau thời gian bón phân 
Kết quả phân tích cho thấy, sau 3 ngày bón 
phân đạm, hàm lượng nitrat trong các mẫu rau 
nghiên cứu có xu hướng tăng khá cao, đạt mức cao 
nhất từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 11 và sau đó giảm 
dần. Các loài rau họ cải hấp thụ đạm nhanh hơn so 
với các loài khác và có hàm lượng nitrat vượt giới 
hạn cho phép trung bình khoảng 1,1 lần đối với rau 
an toàn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 
quy định (giới hạn cho phép là 500 mg NO3-/kg rau 
tươi). Thời gian này cũng là lúc lá rau chuyển màu 
xanh thẫm, cây rau bắt đầu sinh trưởng mạnh hơn. 
Đối với rau dền, hàm lượng NO3- tích lũy ở 
mức cao từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 7 sau khi bón 
phân và đạt giá trị lớn nhất ở ngày thứ 9 (623,54 
mg/kg), vượt 1,25 lần tiêu chuẩn cho phép đối với 
rau an toàn. Từ ngày thứ 11 sau khi bón phân, hàm 
lượng NO3- tích lũy trong mẫu rau bắt đầu giảm 
dần, đến ngày thứ 15 thì đảm bảo an toàn vệ sinh 
thực phẩm theo quy định (hình 3). 
Hình 3. Biến động hàm lượng nitrat trong rau dền 
sau khi bón phân 
Hàm lượng NO3- ghi nhận được trong rau mồng 
tơi tăng cao vượt ngưỡng cho phép từ ngày thứ 5 
đến ngày thứ 11 sau khi bón phân, nồng độ NO3- 
tích lũy cao nhất ở mức 653,52 mg/kg ở ngày thứ 
5. Sau thời gian 13 ngày bón phân đạm, hàm lượng 
NO3- trong rau mồng tơi đã giảm xuống dưới 
ngưỡng cho phép (hình 4) và có thể thu hoạch để 
bán ra thị trường. 
 421
0
100
200
300
400
500
600
700
3
ngày
5
ngày
7
ngày
9
ngày
11
ngày
13
ngày
15
ngày
17
ngày
Hàm lượng nitrat trong rau mồng
tơi sau khi bón phân (mg/kg)
TCCP
Hình 4. Biến động hàm lượng nitrat trong rau mồng tơi 
sau khi bón phân 
Hàm lượng NO3- tích lũy trong rau đay (hình 5) 
cao trong khoảng thời gian 5 - 7 ngày sau khi bón 
phân, nồng độ cao nhất là 605,13 mg/kg ở ngày thứ 
7. Trong thời gian từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 11 
sau khi bón phân đạm, hàm lượng NO3- vượt tiêu 
chuẩn cho phép và đến ngày thứ 13 tuy đã giảm 
xuống dưới ngưỡng cho phép nhưng vẫn khá cao. 
Để an toàn cho người tiêu dùng, nên thu hoạch rau 
đay sau 15 ngày bón phân. 
0
100
200
300
400
500
600
700
3 n
gà
y
5 n
gà
y
7 n
gà
y
9 n
gà
y
11
 ng
ày
13
 ng
ày
15
 ng
ày
17
 ng
ày
Hàm lượng nitrat trong rau đay
sau khi bón phân (mg/kg)
TCCP
Hình 5. Biến động hàm lượng nitrat trong rau đay sau khi bón phân 
Tương tự như rau dền, rau muống tích lũy hàm 
lượng NO3- cao vượt giới hạn cho phép trong 
khoảng thời gian 5 - 11 ngày sau khi bón phân. Sau 
ngày thứ 3 bón phân, hàm lượng NO3- tích lũy 
trong rau muống đã khá cao (482,65 mg/kg) và chỉ 
giảm mạnh từ sau 15 ngày bón phân (hình 6). 
0
100
200
300
400
500
600
700
3 n
gà
y
5 n
gà
y
7 n
gà
y
9 n
gà
y
11
 ng
ày
13
 ng
ày
15
 ng
ày
17
 ng
ày
Hàm lượng nitrat trong
rau muống sau khi bón
phân (mg/kg)
TCCP
Hình 6. Biến động hàm lượng nitrat trong rau muống 
sau khi bón phân 
Từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 11 sau khi bón 
phân, không nên thu hoạch rau ngót để cung cấp ra 
thị trường vì hàm lượng NO3- tích lũy trong rau 
ngót khá cao và nồng độ tích lũy cao nhất ghi nhận 
ở ngày thứ 7 là 578,56 mg/kg và ở ngày thứ 9 là 
580,43 mg/kg. Đến ngày thứ 13, hàm lượng NO3- 
trong rau ngót đã giảm xuống dưới tiêu chuẩn cho 
phép. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn sức khỏe cho 
người tiêu dùng nên thu hoạch sau 15 ngày bón 
phân (hình 7). 
0
100
200
300
400
500
600
700
3 n
gà
y
5 n
gà
y
7 n
gà
y
9 n
gà
y
11
 ng
ày
13
 ng
ày
15
 ng
ày
17
 ng
ày
Hàm lượng nitrat trong rau
ngót sau khi bón phân (mg/kg)
TCCP
Hình 7. Biến động hàm lượng nitrat trong rau ngót 
sau khi bón phân 
 422
Các loài rau họ cải hấp thụ dinh dưỡng trong 
đất và chuyển hoá thành NO3- nhanh hơn các loài 
rau khác, kết quả phân tích thể hiện trên các hình 8, 
9, 10. Sau khi bón phân 3 ngày, hàm lượng NO3- 
tích lũy trong rau cải canh, cải mào gà và cải ngọt 
đã vượt từ 1,07 đến 1,15 lần tiêu chuẩn cho phép. 
Đến ngày thứ 13, hàm lượng NO3- trong các loài 
rau cải bắt đầu có xu hướng giảm xuống dưới 500 
mg/kg và để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng 
nên thu hoạch sau 15 ngày bón phân. 
Hình 8. Biến động hàm lượng nitrat trong rau cải canh 
sau khi bón phân 
Hình 9. Biến động hàm lượng nitrat trong rau cải mào gà 
sau khi bón phân 
0
100
200
300
400
500
600
700
3 n
gà
y
5 n
gà
y
7 n
gà
y
9 n
gà
y
11
 ng
ày
13
 ng
ày
15
 ng
ày
17
 ng
ày
Hàm lượng nitrat trong rau cải
ngọt sau khi bón phân (mg/kg)
TCCP
Hình 10. Biến động hàm lượng nitrat trong rau cải ngọt sau khi 
bón phân 
3.3. Hệ số tương quan giữa hàm lượng nitơ trong 
đất với hàm lượng nitrat trong rau 
Hệ số tương quan (r) giữa hàm lượng nitơ trong 
đất với hàm lượng NO3- tích lũy trong các loài rau 
được tính toán và thể hiện ở bảng 4. Hệ số tương 
quan lấy giá trị trong khoảng từ -1 đến 1 (-1 ≤ r 
≤ 1). 
Khi hệ số r càng tiến gần tới 0 thì quan hệ càng 
lỏng lẻo, ngược lại khi r càng gần 1 hoặc -1 thì 
quan hệ càng chặt chẽ (r > 0 có quan hệ thuận và r 
< 0 có quan hệ nghịch). Trường hợp r = 0 thì giữa 
hàm lượng nitơ trong đất và hàm lượng nitrat trong 
rau không có quan hệ. 
Từ kết quả tính toán hệ số tương quan cho thấy, 
mối quan hệ giữa hàm lượng nitơ trong đất và hàm 
lượng nitrat trong các loài rau có mối quan hệ 
nghịch. Hàm lượng nitrat trong các loài rau khác 
nhau có hệ số tương quan với hàm lượng nitơ trong 
đất khác nhau và dao động từ 0,575 đến 0,631. 
Hàm lượng nitơ trong đất được rau cải mào gà hấp 
thu và chuyển hóa thành dạng nitrat ở mức cao 
nhất, tiếp đến là sau cải ngọt và rau muống. Rau 
dền có hệ số tương quan thấp nhất trong các loài 
rau nghiên cứu vì hàm lượng nitrat hấp thụ của nó 
thấp hơn các loài rau khác. 
Việc tính toán hệ số tương quan trong nghiên 
cứu này nhằm mục đích kiểm chứng được mối 
quan hệ giữa hàm lượng nitơ trong đất sau khi bón 
phân đạm với hàm lượng nitrat tích lũy trong các 
loài rau để đưa ra được những nhận định chính xác 
hơn về sự ảnh hưởng của nitơ trong đất đến hàm 
lượng nitrat trong rau. 
 423
Bảng 4. Hệ số tương quan giữa hàm lượng nitơ trong đất với hàm lượng nitrat trong rau 
Đối tượng Đất - rau dền Đất - mồng tơi Đất - rau đay 
Đất - rau 
muống 
Đất- rau 
ngót 
Đất - rau 
cải canh 
Đất - rau cải 
mào gà 
Đất - rau 
cải ngọt 
Hệ số tương 
quan r 
- 0,575 - 0,584 - 0,598 - 0,603 - 0,586 -0,594 - 0,631 - 0,614 
4. Kết luận 
Các kết quả thí nghiệm cho thấy, trước khi bón 
phân đạm, hàm lượng nitơ tổng số trong đất ở mức 
khá, hàm lượng nitrat trong các loài rau rất thấp so 
với tiêu chuẩn cho phép đối với rau an toàn của Bộ 
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Sau khi bón 
phân đạm, hàm lượng nitơ tổng số trong đất đã 
tăng nhiều và ở mức rất giàu so với thang đánh giá 
về dinh dưỡng đất quy định trong Tiêu chuẩn Việt 
Nam TCVN 7373:2004. 
Sau ngày thứ 3 bón phân đạm, hàm lượng nitrat 
tích lũy trong các loài rau đã tăng rất cao, hầu hết 
các loài rau đều có hàm lượng nitrat cao nhất sau 7 
đến 9 ngày bón phân và giảm dần từ ngày thứ 11. 
Vì vậy, để đảm bảo sức khỏe về lâu dài cho người 
tiêu dùng, nên thu hoạch và sử dụng rau sau 15 
ngày bón phân. 
Hàm lượng nitơ trong đất và nitrat trong rau có 
mối tương quan ở mức khá, hàm lượng nitrat trong 
các loài rau khác nhau có hệ số tương quan với 
hàm lượng nitơ trong đất khác nhau. Hàm lượng 
nitơ trong đất và nitrat trong rau cải mào gà có hệ 
số tương quan lớn nhất, chứng tỏ cải mào gà có 
khả năng hấp thụ dinh dưỡng và chuyển hóa thành 
dạng nitrat ở mức cao nhất so với các loại rau khác. 
Vì vậy, tùy thuộc vào từng loại rau, người nông 
dân các vùng trồng rau cần hạn chế bón phân đạm 
một cách tối đa và kết hợp các loại phân lân, phân
kali cân đối để đảm bảo hàm lượng nitrat trong rau 
dưới tiêu chuẩn cho phép đối với rau an toàn do Bộ 
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quy định. 
Lời cảm ơn: công trình là kết quả nghiên cứu 
của Đề tài khoa học trẻ "Xác định mối tương quan 
của nitơ trong đất trồng rau và hàm lượng nitrat 
tích lũy trong rau xanh" do Viện Hàn lâm Khoa 
học và Công nghệ Việt Nam giao cho Viện Địa lý 
thực hiện năm 2012. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Lê Huy Bá, 2006: Độc học môi trường cơ 
bản. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ 
Chí Minh, 403tr. 
[2] Trần Kim Đồng, Nguyễn Quang Phổ, Lê 
Thị Hoa, 1991: Giáo trình sinh lý cây trồng. Nhà 
xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp Hà 
Nội, 1991, 454tr. 
[3] Bộ Khoa học và Công nghệ, 2004: Tiêu 
chuẩn Việt Nam TCVN 7373:2004 - Chất lượng 
đất - Giá trị chỉ thị về hàm lượng nitơ tổng số trong 
đất Việt Nam. 
[4] Mức giới hạn tối đa cho phép của một số vi 
sinh vật và hóa chất gây hại trong sản phẩm rau, 
quả, chè (Ban hành kèm theo Quyết định số 
99/2008/QĐ-BNN ngày 15 tháng 10 năm 2008 của 
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT). 
SUMMARY 
Determining the correlation between nitrogen content in soil and nitrate accumulation in vegetables 
Study on the correlation between nitrogen content in soil and nitrate accumulation in farming producs have important 
implications to determine the amount of nitrogenous fertilizer required and appropriate time for harvest, to minimize the 
effects on human health caused by NO3- residues in agricultural products. This study was conducted on eight common 
vegetables grown in Hai Boi commune, Dong Anh district of Hanoi for demand of city residents. The research results 
indicate that the correlation between soil nitrogen and nitrate in vegetables is high level, which depends on the species 
of vegetables and duration after manuring nitrogenous fertilizer. In particular, the correlation coefficient of nitrate 
concentration in Brassicaceae Juncea and soil nitrogen is highest in comparison with the studied vegetables. After 
fertilizer supply, nitrate content in vegetables increased very sharply, the highest accumulation was recorded from the 5th 
to 11th day after fertilization depending different vegetables and decreased gradually after 11th day of manuring. 
Therefore, in order to ensure the health of the consumer, it is possible to harvest vegetables from the 15th day after 
fertilization. At the same time, a small quantity of nitrogenous fertilizer should be used a long with phosphate and 
potassium fertilizers in a balanced way to reduce nitrate content in vegetables under standard permit for safe vegetables 
as current regulations. 

File đính kèm:

  • pdfxac_dinh_moi_tuong_quan_giua_ham_luong_nito_trong_dat_voi_ha.pdf