Xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp

I. XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP

1. Một số quan điểm chủ yếu trong Xây dựng văn hoá doanh nghiệp

Văn hoá doanh nghiệp quyết định sự trường tồn và phát triển của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp là bản sắc riêng, là bộ gen được duy trì, kế thừa và trường tồn qua nhiều thế hệ thành viên, nó là tài sản tinh thần, chất keo kết dính các thành viên lại với nhau. Vì vậy doanh nghiệp nào biết chú trọng xây dựng một nền văn hoá doanh nghiệp thực sự thì doanh nghiệp ấy phát triển bền vững. Trong quá trình xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp, cần có nhận thức rõ ràng về một số quan điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, người lãnh đạo (hay người sáng lập) doanh nghiệp đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự chia sẻ đồng thuận và cùng nhau thực hiện của mọi thành viên trong doanh nghiệp cũng là yếu tố không thể thiếu.

Văn hoá doanh nghiệp chỉ có thể được tạo lập khi người lãnh đạo doanh nghiệp có đủ đức đủ tài để sáng tạo ra hệ thống giá trị, xác lập ý nghĩa hoạt động của doanh nghiệp. Họ phải là người khởi xướng, cổ vũ, bênh vực và làm lan truyền các giá trị văn hoá trong khắp doanh nghiệp. Người lãnh đạo trước hết phải hiểu thấu đáo và sâu sắc các giá trị mà họ khởi xướng, sau đó phải gương mẫu và thực hiện nghiêm túc những tập tục, thói quen và tuân thủ những chuẩn mực chung.

 

doc 32 trang yennguyen 8900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp

Xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
I. XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
1. Một số quan điểm chủ yếu trong Xây dựng văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp quyết định sự trường tồn và phát triển của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp là bản sắc riêng, là bộ gen được duy trì, kế thừa và trường tồn qua nhiều thế hệ thành viên, nó là tài sản tinh thần, chất keo kết dính các thành viên lại với nhau. Vì vậy doanh nghiệp nào biết chú trọng xây dựng một nền văn hoá doanh nghiệp thực sự thì doanh nghiệp ấy phát triển bền vững. Trong quá trình xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp, cần có nhận thức rõ ràng về một số quan điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, người lãnh đạo (hay người sáng lập) doanh nghiệp đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự chia sẻ đồng thuận và cùng nhau thực hiện của mọi thành viên trong doanh nghiệp cũng là yếu tố không thể thiếu. 

Văn hoá doanh nghiệp chỉ có thể được tạo lập khi người lãnh đạo doanh nghiệp có đủ đức đủ tài để sáng tạo ra hệ thống giá trị, xác lập ý nghĩa hoạt động của doanh nghiệp. Họ phải là người khởi xướng, cổ vũ, bênh vực và làm lan truyền các giá trị văn hoá trong khắp doanh nghiệp. Người lãnh đạo trước hết phải hiểu thấu đáo và sâu sắc các giá trị mà họ khởi xướng, sau đó phải gương mẫu và thực hiện nghiêm túc những tập tục, thói quen và tuân thủ những chuẩn mực chung.
Thứ hai, Văn hoá doanh nghiệp là tài sản tinh thần của doanh nghiệp, không thể muốn mà xây dựng được ngay trong ngày một ngày hai mà đòi hỏi một quá trình phấn đấu bền bỉ, gian khổ, hình thành nên những quan niệm giá trị, xu hướng tâm lý và sắc thái văn hoá chung của doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải có sự tổng kết thực tiễn, phát hiện những hành vi tiêu biểu, những giá trị cao đẹpkhuyến khích mọi người làm theo, thực hiện, duy trì và nuôi dưỡng lâu bền để trở thành thành truyền thống, tập tục, và những thói quen không gì thay đổi được.
Thứ ba, Văn hoá doanh nghiệp gắn liền với văn hoá quốc gia và văn hoá kinh doanh. Không doanh nghiệp nào xây dựng được nền văn hoá mạnh nếu nó đứng ngoài tác động của văn hoá xã hội. Vì thế khi xây dựng văn hoá doanh nghiệp phải tính đến những dấu ấn, truyền thống, tập quán, giá trị chung, của văn hoá tổ chức và văn hoá kinh doanh.
Thứ tư, Văn hoá doanh nghiệp do toàn thể các thành viên của doanh nghiệp tạo nên. Vì thế, xây dựng văn hoá doanh nghiệp đòi hỏi phải giáo dục văn hoá cho các thành viên trong doanh nghiệp, nâng cao tri thức, trình độ đạo đức, thẩm mỹlàm cho họ hiểu và thấm nhuần những chuẩn mực và giá trị cơ bản của văn hoá doanh nghiệp. Chỉ khi nào các thành viên hiểu rõ được các giá trị, các chuẩn mực, truyền thống, tập tụctrong nền văn hoá doanh nghiệp mình, thừa nhận nó và từ giác tuân thủ thì khi đó doanh nghiệp mới thành công trong việc xây dựng cho mình một nền văn hoá thực sự. 
Thứ năm, Văn hoá doanh nghiệp phải được tiếp cận như là một bộ phận cấu thành của hệ thống quản trị doanh nghiệp, có nghĩa là văn hoá doanh nghiệp phải được xây dựng trong sự gắn bó chặt chẽ với hệ thống quản trị doanh nghiệp. Không thể có một nền văn hoá doanh nghiệp thực sự nếu như các yếu tố khác của hệ thống quản trị doanh nghiệp không được xác lập phù hợp như cơ cấu tổ chức, sứ mệnh và mục tiêu của doanh nghiệp, hệ thống quản trị nguồn nhân lực, công tác kiểm soát
Thứ sáu, Văn hoá doanh nghiệp là cái phù hợp, ổn định và cần thiết đối với doanh nghiệp này có thể trở nên bất hợp lý, không phù hợp đối với doanh nghiệp khác. Vì vậy, khi nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm xây dựng văn hoá doanh nghiệp không được tuỳ tiện áp dụng (bắt chước) các triết lý, giá trị, chuẩn mực, hành vi ứng xử của các nền văn hoá khác hay của tổ chức (doanh nghiệp) khác vào trong doanh nghiệp mình 
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến Xây dựng Văn hoá Doanh nghiệp
2.1. Các yếu tố bên ngoài
2.1.1. Văn hoá xã hội
Văn hoá xã hội là yếu tố đầu tiên quan trọng ảnh hưởng tới Văn hoá Doanh nghiệp. Với tư cách là lối sống, nét sinh hoạt của một cộng đồng lớn, văn hoá tổ xã hội sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lề lối, cách thức làm việc, nét sinh hoạt trong cộng đồng nhỏ hơn - cộng đồng người trong doanh nghiệp.
Người Việt Nam với hệ thống giá trị chung, các chuẩn mực, niềm tin, cách thức ứng xử giao tiếp, quan niệm, truyền thống, tập tục, thói quen trong sinh hoạt và làm việc như thế nàosẽ ảnh hưởng tới văn hoá của các doanh nghiệp Việt Nam.
Như vậy để các giá trị, chuẩn mực, hành vi ứng xử dễ dàng được đa số các thành viên tự nguyện chấp hành và cùng nhau thực hiện thì đó phải là các giá trị cao đep, hành vi tiêu biểu, không trái với văn hóa xã hội của người Việt Nam. 
Xây dựng và phát triển Văn hoá Doanh nghiệp phải gắn liền với việc khai thác, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam như “lòng yêu nước thương người, ý chí vượt gian khổ, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống” cũng như khắc phục hoặc tìm cách loại bỏ một số nhược điểm rất cơ bản trở thành những tập tính xấu xuất phát từ truyền thống văn hoá của nền nông nghiệp nhỏ khép kín. Các nhược điểm đó như sau :
Thứ nhất là bệnh tuỳ tiện, làm việc (hành xử) không đúng quy chế, hay thay đổi ý kiến, khi thế này, khi thế khác, không theo nền nếp kỷ cương, không quen sống và làm việc theo pháp luật. Chẳng hạn, nhân viên có suy nghĩ “đến muộn một tý cũng không chết ai” thì đấy là biểu hiện của bệnh tuỳ tiện.
Thứ hai là bệnh gia đình chủ nghĩa, tật xuề xoà đại khái, thói ỷ lại, tâm lý sống lâu nên lão làng, tác phong đủng đỉnh (hoàn toàn ngược lại với tác phong công nghiệp đòi hỏi sự nhanh gọn, chính xác, khoa học).
Thứ ba là bệnh làm ăn kiểu sản xuất nhỏ, cung cách làm ăn kiểu phường hội, ngắn hạn, thiếu đầu óc tổ chức, thiếu kế hoạch, tủn mủn, dẫn đến nạn làm hàng giả, tệ nói thách, không tôn trọng khách hàng.
Thứ tư là cát cứ cục bộ , sinh ra ứng xử kiểu “phép vua thua lệ làng” dẫn đến tình trạng thiếu thông suốt từ trên xuống dưới, thiếu đồng bộ giữa các bộ phận với nhau; bệnh cửa quyền, tàn dư của chế độ quan liêu bao cấp, dẫn đến hiện tượng coi thường tổ chức, coi thường pháp luật, coi thường khách hàng đi đến sách nhiễu.
Ngoài việc khắc phục các nhược điểm nêu trên, trong việc xây dựng Văn hoá Doanh nghiệp cần phải chống lại sự tiếp thu cực đoan, phiến diện lối sống thực dụng, văn minh theo kiểu phương Tây, dẫn đến chưa có gì mới, không thể như Tây đã kịp phá vỡ lối cư xử truyền thống nhiều mặt tích cực của người Việt Nam, làm băng hoại đạo đức xã hội, làm lỏng lẻo quan hệ trong gia đình, cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, lợi mình hại người, vun vén cho bản thân, thiếu quan tâm đến cộng đồng.
2.1.2. Các thông lệ kinh doanh
Các thông lệ kinh doanh trên thực tế và nhiều khi được hiểu là xuất phát từ tập tính văn hoá của con người (cộng đồng doanh nhân, người lao động và các đối tượng khác) thể hiện trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Thông lệ kinh doanh gồm những qui tắc chính thức hoặc các qui ước không chính thức, nhưng chi phối tư duy, hoạt động kinh doanh trong cả một cộng đồng rộng lớn, trong từng lĩnh vực. Điều này cũng giống như những người làm nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng bới văn hoá nông dân. Với tư cách là thông lệ kinh doanh nó ảnh hưởng tới văn hoá doanh nghiệp.
Vì vậy thông lệ kinh doanh bao gồm “toàn bộ phương thức tiến hành kinh doanh, quản lý kinh doanh, đàm phán giao dịch với các đối tác, giải quyết các nhiệm vụ xuất hiện trong quá trình kinh doanh”. Trong quan hệ giữa các doanh nghiệp. Thông lệ kinh doanh có thể bao gồm môi trường kinh doanh, những quy tắc ứng xử được các đối tác cùng chia xẻ, hoặc những truyền thống hay thói quen có tính đặc thù cho từng thị trường, từng nước hay từng nhóm đối tác.
Hiện nay, các doanh nhân Việt Nam tích cực cổ vũ cho việc xây dựng một tinh thần kinh doanh, văn hoá kinh doanh của người Việt Nam giống như nó đã được thể hiện trong chiến tranh: phát huy tinh thần tổ chức, đề cao ý chí tự lực, tự cường, sức vươn lên của mỗi doanh nghiệp, phát huy tính cộng đồng, truyền thống “chị ngã em nâng”, đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tôn trọng luật pháp trong kinh doanh, tôn trọng các quyền về tài sản trí tuệ, nộp thuế, bảo vệ môi trường, bảo hộ lao động vv
Hơn nữa, trong văn hoá kinh doanh của người Việt Nam hiện nay cần khắc phục chủ nghĩa thực dụng, dùng mọi thủ đoạn để đạt lợi nhuận cao, thậm chí siêu lợi nhuận, bất kể việc làm đó có hại cho lợi ích của người khác, của xã hội; các thủ đoạn làm giầu bất chính, thậm chí làm giàu trên sự đau khổ của đối tác, trên sự phá sản của các doanh nghiệp yếu thế. Hoặc là đi vào các hoạt động phi chính thống nảy sinh nên những vấn đề của kinh tế ngầm.
Người lãnh đạo cần phải tính đến các giá trị được đề cao và các nhược điểm cần khắc phục ở trên khi xây dựng văn hoá doanh nghiệp mình.
2.1.3. Hệ thống thể chế
Hệ thống thể chế bao gồm thể chế chính trị, thể chế hành chính, thể chế kinh tế, thể chế văn hoácó tác động sâu sắc đến việc hình thành và hoàn thiện văn hoá doanh nghiệp. Theo ông Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cấp cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, "để cho kinh doanh có văn hoá, doanh nghiệp có văn hoá thì công sở, cơ quan nhà nước các cấp cũng phải có văn hoá, viên chức phải hành xử đúng pháp luật, có trách nhiệm và có văn hoá. Không thể đòi hỏi doanh nghiệp trong sạch nếu bộ máy tham nhũng, cũng như không thể đòi hỏi doanh nghiệp phải có văn hoá trong khi viên chức nhà nước ứng xử tư lợi và thiếu văn hoá". 
Hệ thống thể chế của Việt Nam hiện nay đang trong quá trình hình thành, củng cố và hoàn thiện vì vậy nó chưa thực sự đồng bộ, nhiều yếu tố chưa được thiết lập phù hợp để có ảnh hưởng tích cực cho việc xây dựng một nền văn hoá doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta không thể xây dựng cho doanh nghiệp mình một nền văn hoá thực sự tốt đẹp, vững mạnh.
2.1.4. Đặc thù ngành kinh doanh và đối tượng khách hàng
Tuỳ vào ngành kinh doanh mà có những đặc thù được bao nhiêu đời nay xem như là chuẩn mực tuyệt đối nếu doanh nghiệp vi phạm thì các giá trị khác coi như không có. Mỗi doanh nghiệp cần xác định và xây dựng các giá trị phù hợp để làm ‘sợi chỉ đỏ’ cho việc thực hiện mục tiêu kinh doanh và chiến lược của mình. Chẳng hạn trong ngành y thì đạo đức nghề nghiệp (y đức) phải là giá trị đặt lên hàng đầu, trong ngành tin học thì giá trị hàng đầu lại là lao động sáng tạo. Đối với ngân hàng thuộc về ngành kinh doanh dịch vụ thì có lẽ dịch vụ tốt nhất, khách hàng phải được phục vụ tốt nhất là những giá trị trong giao dịch được đề cao. Nhưng nói chung trong thời đại ngay nay dù mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp can theo đuổi hay tôn vinh giá trị gì thì công thức chung là ( được đề cao từ xã hội và khách hàng): 
	Đạo đức nghề nghiệp + Trách nhiệm toàn diện + Cam kết cung ứng
2.2. Các yếu tố bên trong
2.2.1. Phong cách, giá trị và ước muốn của lãnh đạo doanh nghiệp 
Người lãnh đạo doanh nghiệp là người có ảnh hưởng quyết định tới việc hình thành văn hoá doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp bao giờ cũng in đậm dấu ấn cá nhân của nhà lãnh đạo, từ nhân cách, lối suy nghĩ, cách thức quản lý hoạt động kinh doanh, phong cách làm việc, ứng xử, hệ thống giá trị mà họ đã đúc kết được từ thực tiễn vốn sống cá nhân. Đây chính là nguồn gốc của tính đặc thù (riêng) trong văn hoá doanh nghiệp (phân biệt với các doanh nghiệp khác)
Chẳng hạn, qua các cuộc điều tra xã hội học ở Việt Nam, có thể thấy mục đích kinh doanh của mỗi doanh nhân ở nước ta hiện nay rất đa dạng về tính chất, một số khuynh hướng nổi bật như: có những người chỉ mong kiếm được nhiều tiền, cũng có những người muốn qua kinh doanh mà có danh tiếng lớn, uy tín và địa vị xã hội cao, có người muốn vươn lên tiếp nối truyền thống gia đình, báo hiếu cha mẹ, lại có người kinh doanh vì khao khát tự hoàn thiện bản thân, có ý chí mạnh mẽ về sự phát triển tự do của con người trong xã hội mới vvChính những mục tiêu này sẽ ảnh hưởng đến văn hoá kinh doanh của các doanh nhân và ảnh hưởng tới văn hoá doanh nghiệp 
2.2.2. Đội ngũ nhân viên 
Văn hoá doanh nghiệp là văn hoá của cộng động người trong doanh nghiệp, ngoài vai trò chủ chốt của người lãnh đạo doanh nghiệp thì đội ngũ nhân viên là những người cấu thành, tạo dựng nên nền văn hoá doanh nghiệp của chính họ. Những giá trị, chuẩn mực, quan niệm, truyền thống, tập tục, thói quen, lối sống, phong cách làm việc, ứng xử, giao tiếp của họ, được đem đến doanh nghiệp và góp phần tạo dựng nên văn hoá doanh nghiệp. Khi người lãnh đạo doanh nghiệp muốn đơặt một giá trị mới nào đó vào trong doanh nghiệp, nếu không được các thành viên thừa nhận một cách tự giác hoặc bị tẩy chay thì sẽ không thể trở thành một nét (giá trị) của văn hoá doanh nghiệp. 
Một doanh nghiệp có văn hoá chỉ khi các thành viên của doanh nghiệp là những người có văn hoá.
2.2.3. Quá trình lịch sử, cơ chế đã tồn tại
Văn hoá doanh nghiệp có tính kế thừa, duy trì và bảo tồn qua nhiều thế hệ thành viên, nó có thể được thay đổi nhưng sự thay đổi diễn ra rất chậm chạp. Điều này được nhìn nhận như một lực cản đối với công cuộc đổi mới của doanh nghiệp để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh.
Vì vậy quá trình lịch sử, cơ chế đã tồn tại trong quá khứ có thể ảnh hưởng tới nền văn hoá hiện tại, ít nhất cũng là những tàn dư của nó. Như vậy xây dựng nền văn hoá doanh nghiệp hiện tại phải chú ý tới quá trình lịch sử, cơ chế và những giá trị văn hoá cũ, đã tồn tại trong doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là các doanh nghiệp Nhà nước), người ta vẫn thấy có sự hiện diện (tàn dư) của những nét văn hoá thời kỳ bao cấp trước đây.
2.2.4. Chế độ và chính sách nhân sự
Hệ thống quản lý của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại cơ chế và chính sách liên quan đến các lĩnh vực hoạt động khác nhau (như tài chính, nguồn nhân lực, sản xuất, marketing, nghiên cứu và triển khai,). Trong đó, các chế độ và chính sách nhân sự (liên quan tới con người) như tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự, đãi ngộ nhân sự,. có ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành nền văn hoá của doanh nghiệp. Và như vậy, quá trình xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp cần được sự hỗ trợ của hệ thống chính sách và chế độ nhân sự phù hợp.
Chẳng hạn một doanh nghiệp có chính sách đánh giá nhân sự công bằng, rõ ràng và khách quan thì sẽ giúp tạo ra một môi trường làm việc mà ở đó không có sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa, năng lực và tài năng của con người được đề cao, được trọng dụng
2.2.5. Vị thế cạnh tranh và chiến lược của doanh nghiệp 
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chỉ rõ mục tiêu và những định hướng cơ bản, dài hạn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, văn hoá doanh nghiệp phải được thiết lập phù hợp và hỗ trợ cho việc thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Khi điều chỉnh hay thay đổi chiến lược kinh doanh thì một số giá trị văn hoá cũ cần phải được điều chỉnh và xác lập lại cho phù hợp.
Chẳng hạn, nếu trong chiến lược doanh nghiệp, đa dạng hoá và sự khác biệt về sản phẩm dịch vụ được xác định là phưng án cơ bản để tạo ra lợi thế cạnh tranh thì các giá trị văn hoá doanh nghiệp cần được xác lập sẽ là đề cao tinh thần sáng tạo của các nhân viên. Giá trị văn hoá này sẽ hỗ trợ cho việc nâng cao năng lực hoạt động nghiên cứu và triển kha ... i vì mọi người, mọi người vì một người “.
Tất cả những chương trình hoạt động đó mặc dù có thể là không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều phải hướng tới mục tiêu đảm bảo nhận được sự đồng tình, hưởng ứng ở người lao động, giúp cho người lao động nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hoá doanh nghiệp đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp mà trong đó mỗi thanh viên – người lao động đều có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi để xây dựng và hưởng thụ. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp luôn gắn với đời sống vật chất, tinh thần của gia đình và bản thân người lao động và người lao động sẽ gắn bó với doanh nghiệp kể cả khi doanh nghiệp gặp khó khăn nhất.
3.3. Truyền bá văn hóa doanh nghiệp tới cán bộ cốt cán, trong nhân viên
Văn hóa doanh nghiệp là một dạng của văn hoá cộng đồng - cộng đồng doanh nghiệp. Nó không phải là con số cộng đơn giản của những văn hoá cá nhân sống trong cộng đồng mà là toàn bộ giá trị và chuẩn mực, cùng với các hệ thống biểu tượng, được cộng đồng chấp nhận và thực thi một cách tự nguyện. Một doanh nghiệp trở thành một cộng đồng vững chắc và phát triển phải có sự cố kết giữa các thành viên của cộng đồng ấy, chất kết dính đó là văn hoá doanh nghiệp: hệ thống giá trị, chuẩn mực chung, các nghi lễ, tập tục, giai thoại, truyền thuyết trong đó cốt lõi là hệ thống giá trị mà cộng đồng đó chia sẻ, chấp nhận và đồng thời nó chi phối cách hành xử của các thành viên trong cộng đồng. Do đó, những giá trị, triết lý kinh doanh của doanh nghiệp phải được truyền bá tới tất cả các thành viên của doanh nghiệp, từ cán bộ cốt cán cho đến những nhân viên. Chính vì thế, ở nhiều công ty, ban lãnh đạo dành nhiều công sức cho việc tuyên truyền cho những giá trị và triết lý của mình. Mục đích của công việc này là để những giá trị đó phải trở thành tài sản trong thế giới nội tâm của toàn bộ nhân viên công ty. 
Truyền bá văn hóa doanh nghiệp còn được tiến hành thông qua việc nghiên cứu lịch sử doanh nghiệp và tuyên truyền lịch sử đó. Lịch sử doanh nghiệp sẽ đóng một vai trò nhất định trọng việc hình thành văn hóa doanh nghiệp. Mục đích chủ yếu của việc hướng tới lịch sử là mong muốn đứng từ góc độ quá khứ để lý giải hoạt động của nhân viên trong hiện tại. ý nghĩa của lịch sử đó giúp mọi người thích ứng với những điều kiện hoạt động hiện tại của doanh nghiệp. Lịch sử dứt khoát phải phản ánh những sự việc quan trọng của doanh nghiệp như lịch sử hình thành và phát triển của doanh nghiệp, hoàn cảnh thành lập doanh nghiệp, những sự kiện đã diễn ra, những thời điểm sáp nhập với các doanh nghiệp khác, những ngày tháng và biến cố quan trọng nhất, những nhân vật lịch sử. ở đây có thể nói đến người sáng lập doanh nghiệp, những nguyên tắc và giáo huấn của những người này.
Việc truyền bá văn hóa doanh nghiệp được tiến hành dựa trên cơ sở những hình thức khác nhau của hệ thống ký hiệu - biểu tượng. Hoạt động của hệ thống này được thực hiện trong mối tác động qua lại giữa hai yếu tố hợp thành là huyền thoại và nghi thức. 
3.4. Hiện thực hóa trong hoạt động để hình thành Văn hóa mới
Truyền bá văn hoá doanh nghiệp là bước quan trọng cho hiện thực hoá những giá trị văn hoá trong hoạt động để hình thành văn hoá mới. Văn hóa doanh nghiệp ở đây là nói đến tinh thần, tư tưởng của doanh nghiệp. Nó không chỉ là mấy câu chữ khẩu hiệu treo ở cổng doanh nghiệp mà phải thể hiện trong mỗi lời nói hành động của cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp. Có thể nói văn hóa của mỗi doanh nghiệp đều có sắc thái riêng, khó có thể bắt chước được.
Hình thành văn hóa doanh nghiệp không phải chỉ đưa ra một bộ tiêu chuẩn giá trị mà quan trọng là phải liên kết một cách hữu cơ các tiêu chuẩn giá trị này lại và đơa vào trong quá trình vận hành của doanh nghiệp. Chỉ khi nào, văn hóa thâm nhập vào trong mọi hoạt động của doanh nghiệp thể hiện thông qua phương thức ứng xử, hành động của các thành viên trong doanh nghiệp, nhằm hướng tới lý tưởng của người sáng lập, xây dựng công ty thịnh vượng thì doanh nghiệp đó mới xác lập cho mình một kiểu văn hóa riêng lành mạnh, vững chãi. 
Văn hóa doanh nghiệp lành mạnh thực sự có sức sống thì phải được phần lớn công nhân viên quan tâm đến. Văn hóa doanh nghiệp mới một khi đã được công nhân viên tín nhiệm sẽ thổi bùng lên lòng nhiệt tình và hăng say của mỗi cá nhân. Họ đều tuân theo các giá trị tiêu chuẩn và văn hóa doanh nghiệp mới thực sự phát huy được sức mạnh của nó.
3.5. Các giải pháp thực hiện
3.5.1. Kiên trì phấn đấu xây dựng văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp được hình thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển Doanh nghiệp, tức là nó được hình thành và gìn giữ lâu dài qua nhiều năm. Đồng thời, văn hoá doanh nghiệp lại là sự nghiệp do tất cả mọi người trong doanh nghiệp phấn đấu xây dựng nên, vì không có lực lượng nào tự nhiên tạo nên văn hoá - nghĩa là, sự nghiệp lâu dài này đòi hỏi phải sự nỗ lực từ nhiều phía:
Quyết tâm sắt đá, kiên trì của ban lãnh đạo Doanh nghiệp hướng tới mục tiêu đã định.
Lao động cần mẫn, tận tuỵ và kiên trì của tất cả cán bộ, công nhân viên trong Doanh nghiệp.
Sự phối hợp đồng bộ của tất cả lực lượng trong Doanh nghiệp.
Bước đầu tiên để xây dựng văn hoá doanh nghiệp là giáo dục những người làm việc trong Doanh nghiệp, chú trọng đến phương thức giáo dục và sử dụng cán bộ, nhân viên vì đây là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công và sức mạnh cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
3.5.2. Hoàn thiện tổ chức hoạt động của doanh nghiệp
Với đặc thù là một doanh nghiệp lớn, sản xuất - dịch vụ đòi hỏi phải có sự thống nhất, đồng bộ, phối hợp chặt chẽ trong quản lý để điều hành. Phương thức tổ chức hoạt động của Doanh nghiệp cần được cụ thể hoá thành các định chế, cơ chế hoạt động.
Định chế là hệ thống các chính sách, quy chế và thủ tục được đưa lên thành một chế độ vận hành trong thực tế, nhằm giải quyết các công việc, vấn đề của Doanh nghiệp. Chế độ vận hành này phải được toàn bộ ban lãnh đạo doanh nghiệp, từ giám đốc đến người lao động, chấp nhận, chia sẻ và đề cao thành nề nếp; thói quen và chuẩn mực làm việc và sinh hoạt trong doanh nghiệp, và từ đó chúng trở thành bền vững và truyền thống của doanh nghiệp. Chế độ vận hành phải xuyên suốt:
Phong cách lãnh đạo của giám đốc doanh nghiệp.
Toàn bộ các mối quan hệ giữa cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp.
Phong cách làm việc của tất cả cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp.
Phong cách lãnh đạo – yếu tố trung tâm của văn hoá doanh nghiệp. Phong cách lãnh đạo phải gồm những quan điểm và định chế lâu bền, bao quát mọi mặt của hoạt động lãnh đạo doanh nghiệp. Xét về tổng quát, nó có thể bao gồm những định chế sau đây:
Định chế về chế độ tập trung và dân chủ trong lãnh đạo doanh nghiệp, thể hiện trong:
Quy trình về thông qua và tổ chức thực hiện các quyết định.
Bộ tiêu chuẩn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các bộ phận chức năng trong việc thông qua và thực hiện các quyết định.
Các quy định về phối hợp giữa các bộ phận chức năng trong quá trình thông qua vừa thực hiện các quyết định.
Các quy định về đánh giá quá trình thực hiện các quyết định.
Định chế về kết hợp hài hoà các lợi ích để doanh nghiệp trở thành ngôi nhà chung, là con thuyền vận mệnh của tất cả mọi người trong doanh nghiệp.
Việc giải quyết không thoả đáng về lợi ích sẽ là một trong những nguyên nhân sâu xa nhất gây xung đột trong nội bộ, gây mất đoàn kết nội bộ doanh nghiệp, cản trở việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp. 
Xét cho cùng, để thực hiện định chế về kết hợp hài hoà các lợi ích trong doanh nghiệp thì phải có nền nếp về tài chính. Tài chính trong doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở minh bạch, công bằng và tin cậy, đạt tới mức chi tiết, chi ly. 
Đó có thể là kỷ luật về chấp hành định mức khoán; cách thức tính tiền lương và tiền thưởng; các quy định về tạm ứng, thanh toán, vay vốn, nguyên tắc trách nhiệm tài chính
Định chế về sử dụng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Định chế này coi yếu tố con người đóng vai trò quyết định, coi trọng giá trị của mỗi con người riêng lẻ trong sự nghiệp phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp làm cho yếu tố con người có chất lượng, liên kết và nhân lên nhiều lần các giá trị riêng lẻ của mỗi con người và làm cho nó trở thành nguồn lực ( tài sản ) vô tận của doanh nghiệp.
Định chế về sử dụng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có thể bao gồm các quy tắc giải quyết vến đề nhân sự trong nội bộ:
Tiêu chuẩn hoá công việc, trình độ đào tạo tay nghề và kinh nghiệm phù hợp.
Các quy định để đảm bảo “nhân hoà “ trong doanh nghiệp để mọi người có được niềm tin, được tôn trọng, đoàn kết, hợp tác, tự giác, làm chủ thực sự nhằm tạo môi trường khuyến khích đổi mới, sáng tạo
Các quy định về cơ hội học tập, nâng cao trình độ thường xuyên và từ đó mọi người trong doanh nghiệp có cơ hội thăng tiến.
Các quy định về nguyên tắc và hình thức tuyên dương, khen thưởng.
Định chế về cung cách tổ chức trong doanh nghiệp: Văn hoá doanh nghiệp phải được thể hiện ở cung cách tổ chức trong doanh nghiệp trên cơ sở 2 yếu tố: 
Hệ thống tập quán, nền nếp, thói quen;
Thái độ và chuẩn mực hành vi ứng xử hàng ngày trong làm việc và sinh hoạt của mỗi thành viên.
Các quy tắc đó thường bao gồm những nội dung cụ thể sau:
+ Quy định về bảo mật, về giờ giấc làm việc, nghỉ ngơi.
+ Quy định về trang phục, đồng phục, phù hiệu, thẻ nhận dạng.
+ Quy định về tư thế, tác phong khi làm việc.
+ Các nguyên tắc về giao dịch, tiếp khách.
+ Các nguyên tắc về ghi chép chứng từ, báo cáo, ghi nhật ký sản xuất.
+ Nội quy sử dụng, bảo quản máy móc, thiết bị, về bảo vệ môi trường, phòng cháy, chữa cháy, sử dụng điện, nước
+ Hệ thống tổ chức nơi làm việc ( văn phòng, chỗ làm việc, nơi tiếp khách)
Xây dựng phong cách làm việc của tất cả mọi người lao động trong doanh nghiệp – thông thường đó phải là:
Sự cẩn thận, cần mẫn, tận tuỵ, chi ly và tự giác trong làm việc.
Sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, quy định, quy phạm kỹ thuật và công nghệ.
Sự thay đổi về văn hoá của doanh nghiệp luôn song hành cùng với quá trình hoạt động phát triển của doanh nghiệp. 
3.5.3. Hoàn thiện phương thức giao tiếp của doanh nghiệp với xã hội:
Một nét đặc sắc của văn hoá doanh nghiệp là phương thức giao tiếp của doanh nghiệp với xã hội (công chúng, khách hàng)
Nét văn hoá doanh nghiệp này giúp cho doanh nghiệp lôi cuốn và thu hút khách hàng về với sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp và nhận được sự chấp nhận của xã hội.
Phương thức giao tiếp với xã hội gồm hai bộ phận:
a. Giao tiếp thông qua lời nói: Đó là sự giao tiếp trực tiếp (mặt đối mặt) hoặc gián tiếp ( qua điện thoại) của những con người trong doanh nghiệp với xã hội như: nhân viên làm thủ tục, hướng dẫn khách, người tiếp khách, người trực điện thoại, lễ tân, người gác cổng.
Những người này phải được đào tạo để có được văn hoá giao tiếp.
b. Giao tiếp không qua lời nói của doanh nghiệp với xã hội:
Quang cảnh chung của doanh nghiệp: từ biển ghi trên các khu vực doanh nghiệp quản lý đến khung cảnh chung bên ngoài của doanh nghiệp.
Hệ thống các ký hiệu biểu trưng của doanh nghiệp, biểu tượng (nếu có), những hoạt động mang tính truyền thống của doanh nghiệp.
Hệ thống các kiểu mẫu, quy cách thống nhất, mang nét đặc trưng của doanh nghiệp, từ đồng phục, dây đeo thẻ nhận dạng, cho đến phong bì, giấy viết công văn, thư từ, phong bao hoặc các thiết bị đặc biệt khác.
3.5.4. Đầu tư cơ sở vật chất và tổ chức hoạt động văn hoá ở Doanh nghiệp:
Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và tổ chức các hoạt động văn hoá trong Doanh nghiệp là hết sức cần thiết, nó là nhân tố quan trọng để nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động, đồng thời gắn kết người lao động với nhau, gắn kết người lao động với Doanh nghiệp thông qua các hoạt động tập thể.
Các hoạt động văn hoá không chỉ tạo ra niềm vui, sảng khoái, sự thoải mái ở người lao động sau thời gian làm việc căng thẳng, mệt nhọc mà đòi hỏi phải có tính giáo dục về nhận thức, thẩm mỹ, nâng cao nhân cách con người. Khi tổ chức các hoạt động cần có sự chuẩn bị nghiêm túc, chu đáo về nội dung, hình thức, điều kiện cơ sở vật chất, quy mô, thành phần tham gia nhằm mục đích tạo ra tiếng nói chung của cả tập thể, không phải là sự trình diễn của những cá nhân đơn lẻ.
Đầu tư cơ sở vật chất tạo điều kiện cho người lao động tham gia các loại hình phù hợp với khă năng của mình, phát huy được hết sở trường của cá nhân vào hoạt động chung của tập thể. 
Đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá, thể thao tạo điều kiện nâng cao sức khỏe, dân trí người lao động nhằm hướng tới sự hoàn thiện về: Chân - Thiện - Mỹ.
Ban lãnh đạo Doanh nghiệp phải quan tâm đầu tư cho hoạt động văn hoá - thể thao, tạo điều kiện tối đa về tính pháp lý, cơ sở vật chất, nhân lực, thời gian để người lao động tham gia phù hợp với khả năng, sức khoẻ, điều kiện của mình. Doanh nghiệp xây dựng quy chế hoạt động đội thể thao, văn nghệ, điều chỉnh qua từng giai đoạn để phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh. 
Công đoàn Doanh nghiệp uỷ quyền cho các tổ công đoàn tổ chức sinh nhật cho đoàn viên công đoàn ở từng đơn vị với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, gọn nhẹ nhưng mang dấu ấn tình cảm chung của một gia đình. Các hoạt động sinh hoạt tập thể đều có kế hoạch, chuẩn bị và thực hiện theo chương trình định sẵn, đan xen văn nghệ và vui chơi giải trí đã tạo ra không khí sôi nổi, thoải mái, lành mạnh. Đây là phần không thể thiếu và là phần dễ hiểu nhất của văn hoá một cộng đồng người. Con người có những nhu cầu xã hội, họ đến làm việc trong doanh nghiệp ngoài động cơ chính là tiền lương hay thu nhập, họ còn mong muốn được thoả mãn những nhu cầu về mặt tinh thần, được trao đổi và chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, sở thích nguyện vọng với những người khác.
Những sinh hoạt tập thể về văn hoá văn nghệ, thể thao, những nghi lễ trong những dịp lễ tết là những khía cạnh cực kỳ quan trọng để tạo nên một tập thể hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết, gắn bó; hơn nữa qua đó mang lại cho các thành viên một đời sống tinh thần phong phú. Các nhân viên phải cảm thấy rằng, doanh nghiệp của họ không phải chỉ là nơi làm việc mà còn là mái nhà thứ hai của họ.
Các sinh hoạt tập thể này có thể được tạo ra một cách phong phú vào các dịp lễ, tết như ngày thành lập doanh nghiệp, các ngày lễ tết theo truyền thống văn hoá dân tộc. Khi nó được tạo dựng ra và thực hiện lâu bền trong doanh nghiệp thì sẽ trở thành những truyền thống, tập tục của văn hoá cộng đồng người trong doanh nghiệp .
3.5.5. Tổ chức phối hợp hoạt động đồng bộ giữa Doanh nghiệp với các đơn vị hữu quan trên địa bàn:
Doanh nghiệp cần quan tâm đến những đặc điểm, điều kiện, năng lực tổ chức các hoạt động của các đơn vị hữu quan trên địa bàn hoạt động để phối hợp đồng bộ hướng tới mục đích chung. Điều này đòi hỏi Doanh nghiệp phải tác động đến các đơn vị bạn bằng chính văn hoá của Doanh nghiệp thông qua toàn bộ chủ trương, chính sách và hoạt động của doanh nghiệp.
Sự phối hợp đồng bộ sẽ tạo ra được hình ảnh, diện mạo về một doanh nghiệp có văn hoá - điều đó không thể là kết quả của riêng những cố gắng của doanh nghiệp, không phải chỉ vì riêng doanh nghiệp mà nó phải là kết quả tổng hợp của sự tham gia của tất cả các đơn vị trên địa bàn hoạt động vì những mục tiêu chung – "Buôn có bạn, bán có phường", phải hướng tới xây dựng hoạt động ngang hàng, tưng xứng với các doanh nghiệp quốc tế trong khu vực và trên thế giới.

File đính kèm:

  • docxay_dung_va_phat_trien_van_hoa_doanh_nghiep.doc