Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đến quá trình nhân giống Spirulina platensis nước lợ phục vụ sản xuất sinh khối tại tỉnh Thanh Hóa

Tóm tắt: Kết quả khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nhân giống ở hệ thống nuôi kín có sục khí phục vụ sản xuất của hai chủng Spirulina platensis thu thập tại Thanh Hóa (TH) và Bình Thuận (BT2) đã cho thấy, cả hai chủng đều sinh trưởng tốt trong môi trường nước lợ với pH cao (10 với chủng TH và 9,5 với chủng BT2). Nhiệt độ thích hợp trong điều kiện phòng nhân giống khoảng 30°C cho cả 2 chủng thí nghiệm. Với chu kỳ chiếu sáng:tối là 12:12 giờ thì cường độ ánh sáng thích hợp cho chủng TH và BT2 là 4.000 và 3.000 lux, sinh khối cực đại ở ngày nuôi thứ 8 với mật độ quần thể (OD560) tương ứng đạt 1,42 và 1,33

pdf 5 trang yennguyen 4380
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đến quá trình nhân giống Spirulina platensis nước lợ phục vụ sản xuất sinh khối tại tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đến quá trình nhân giống Spirulina platensis nước lợ phục vụ sản xuất sinh khối tại tỉnh Thanh Hóa

Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đến quá trình nhân giống Spirulina platensis nước lợ phục vụ sản xuất sinh khối tại tỉnh Thanh Hóa
4560(12) 12.2018
Khoa học Nông nghiệp
Đặt vấn đề
 Spirulina (Arthrospira) là vi khuẩn lam dạng sợi đa bào, 
có thể sống ở những môi trường khắc nghiệt mà không thích 
hợp cho các loài vi tảo khác, tạo thành quần thể trong các 
hồ nước ngọt, nước lợ và một số môi trường nước mặn, 
chủ yếu là ở các hồ nước muối kiềm [1]. Mặc dù đã được 
sử dụng từ rất lâu nhưng chỉ đến những năm 70 của thế kỷ 
trước người ta mới tập trung đầu tư nuôi trồng Spirulina trên 
quy mô lớn cũng như nghiên cứu về thành phần dinh dưỡng 
và ứng dụng của nó. Nghiên cứu thành phần hóa học cho 
thấy, tảo Spirulina có chứa tới 55-70% protein, giàu axit béo 
(trong đó chủ yếu là axit γ-linolenic), vitamin và khoáng vi 
lượng [2, 3] . Chính vì vậy, từ lâu Spirulina đã được sử dụng 
để bổ sung cho cơ thể nhiều chất dinh dưỡng cần thiết, giúp 
cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng và điều trị bệnh béo phì, 
tăng cường sức khoẻ, tăng sức đề kháng cho cơ thể, chống 
stress và chống lão hóa. Hiện nay, các sản phẩm từ Spirulina 
đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới, và được các tổ 
chức quốc tế như FAO, WHO công nhận là thực phẩm bổ 
dưỡng và khuyên dùng.
Trong sản xuất sinh khối Spirulina, giống là yếu tố đầu 
tiên được các nhà sản xuất lựa chọn khi tiến hành nuôi trồng. 
Bên cạnh đó, việc xác định các điều kiện thích hợp để nuôi 
Spirulina luôn được các nhà sản xuất ưu tiên quan tâm, trong 
đó quan trọng nhất là các yếu tố về dinh dưỡng, nhiệt độ và 
ánh sáng [4]. Ở Việt Nam, việc nuôi Spirulina bằng nước 
lợ hay nước biển đã được triển khai tại Công ty CP Long 
Phú, bước đầu mang lại nguồn thu cho doanh nghiệp và tạo 
sinh kế cho người dân trên địa bàn xã Quảng Thái, huyện 
Quảng Xương (Thanh Hóa). Chính vì vậy, việc nghiên cứu 
lựa chọn giống cũng như các điều kiện nhân nuôi giống sơ 
cấp ban đầu phục vụ cho sản xuất sinh khối Spirulina nước 
lợ sẽ mở ra một hướng phát triển nông nghiệp bền vững cho 
các vùng ven biển Việt Nam.
Đối tượng và phương pháp 
Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường 
đến quá trình nhân giống Spirulina platensis nước lợ 
phục vụ sản xuất sinh khối tại tỉnh Thanh Hóa
Trần Bảo Trâm1*, Nguyễn Thị Hiền1, Phan Xuân Bình Minh1, Nguyễn Thị Thanh Mai1, Trương Thị Chiên1, 
Phạm Hương Sơn2
1Trung tâm Sinh học Thực nghiệm, Viện Ứng dụng Công nghệ
2Phòng thí nghiệm y sinh công nghệ cao, Viện Ứng dụng Công nghệ
Ngày nhận bài 16/10/2018; ngày chuyển phản biện 19/10/2018; ngày nhận phản biện 18/11/2018; ngày chấp nhận đăng 22/11/2018
Tóm tắt:
Kết quả khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nhân giống ở hệ thống nuôi kín có sục khí phục vụ sản xuất 
của hai chủng Spirulina platensis thu thập tại Thanh Hóa (TH) và Bình Thuận (BT2) đã cho thấy, cả hai chủng đều 
sinh trưởng tốt trong môi trường nước lợ với pH cao (10 với chủng TH và 9,5 với chủng BT2). Nhiệt độ thích hợp 
trong điều kiện phòng nhân giống khoảng 30°C cho cả 2 chủng thí nghiệm. Với chu kỳ chiếu sáng:tối là 12:12 giờ 
thì cường độ ánh sáng thích hợp cho chủng TH và BT2 là 4.000 và 3.000 lux, sinh khối cực đại ở ngày nuôi thứ 8 với 
mật độ quần thể (OD
560
) tương ứng đạt 1,42 và 1,33. 
Từ khóa: nhân giống, nước lợ, sinh khối, Spirulina, Thanh Hóa.
Chỉ số phân loại: 4.5
*Tác giả liên hệ: Email: trantram_74@yahoo.com
Hình 1. Khu thực nghiệm nhân giống Spirulina tại Công ty CP 
Long Phú.
4660(12) 12.2018
Khoa học Nông nghiệp
Đối tượng nghiên cứu
Giống Spirulina platensis được thu thập tại Thanh Hóa 
và Bình Thuận (ký hiệu lần lượt là TH và BT2). Nghiên cứu 
được thực hiện tại Công ty CP Long Phú - xã Quảng Thái, 
huyện Quảng Xương (Thanh Hóa).
Hiện tại, Công ty CP Long Phú đang tiến hành nuôi 
thương mại Spirulina với nguồn nước biển pha loãng 5‰, 
để thuận lợi cho việc triển khai ứng dụng các nguồn giống 
mới thu thập trong sản xuất tại Công ty, nhóm nghiên cứu 
cũng đã sử dụng nước biển pha loãng tới độ mặn 5‰ , môi 
trường dinh dưỡng bổ sung là Zarrouk cải tiến.
Bố trí thí nghiệm
Tảo S. platensis được nhân nuôi trong hệ thống chai 
nhựa 1,5 l (dạng kín) có sục khí với mật độ giống ban đầu 
có mật độ quang (Optical Density - OD) được đo ở bước 
sóng 560 nm (OD
560
) là 0,2. Với mỗi yếu tố ảnh hưởng tới 
quá trình sinh trưởng và phát triển của tảo, chúng tôi bố trí 
các công thức thí nghiệm khác nhau, bao gồm:
+ Ảnh hưởng của nhiệt độ: được bố trí 5 công thức với 
dải nhiệt độ là 15, 20, 25, 30, 35oC (+1oC). 
+ Ảnh hưởng của pH: được bố trí 5 công thức với dải pH 
là 8, 8,5, 9, 9,5, 10. 
+ Ảnh hưởng của cường độ chiếu sáng: sử dụng đèn 
huỳnh quang ánh sáng trắng chiếu sáng 4 công thức với 
cường độ ánh sáng là 2.000, 3.000, 4.000 và 5.000 lux. 
+ Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng: được bố trí với 3 
công thức có chu kỳ chiếu sáng trong ngày: 8, 10, 12h. 
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
+ Đánh giá sinh trưởng của tảo S. platensis được xác 
định dựa vào mật độ quang hấp thụ ở bước sóng 560 nm. 
Theo dõi tốc độ sinh trưởng của dịch nuôi cấy 1 ngày/lần 
liên tục trong 10 ngày. Mỗi nghiệm thức được thực hiện với 
3 lần lặp lại.
+ Xử lý số liệu: mẫu thí nghiệm được phân tích lặp lại 3 
lần và lấy kết quả trung bình (trung bình ± SD). Quá trình 
xử lý số liệu được thực hiện trên phần mềm Excel 2007.
Kết quả và thảo luận
Ảnh hưởng của nhiệt độ 
Nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của tảo 
thông qua tác động đến quá trình trao đổi chất diễn ra 
trong tế bào và nó là một trong những yếu tố chính điều 
khiển sự phát triển của Spirulina. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy, nhiệt độ có ảnh hưởng rõ nét đến sinh trưởng của cả 
2 chủng TH và BT2: ở khoảng nhiệt độ 15-20°C, tảo sinh 
trưởng và phát triển chậm hoặc chết (ở ngưỡng 15°C). 
Effect of some factors on the 
cultivation of Spirulina platensis 
in brackish water for biomass 
production in Thanh Hoa province
Bao Tram Tran1*, Thi Hien Nguyen1, 
Xuan Binh Minh Phan1, Thi Thanh Mai Nguyen1, 
Thi Chien Truong1, Huong Son Pham2
1Center for Experimental Biology, NACENTECH
2 High-Tech Biomedical Application Development Lab, 
NACENTECH
Received 16 October 2018; accepted 22 November 2018
Abstract:
The result of investigating some factors affecting the 
cultivation of two Spirulina platensis strains collected in 
Thanh Hoa (TH) and Binh Thuan (BT2) provinces in 
the close system form with aeration showed that both 
the strains could grow well in brackish water with high 
pH values (10 for TH and 9.5 for BT2). The suitable 
temperature in the laboratory condition was about 30°C 
for both the strains. With the light:dark cycle of 12:12 
h, the appropriate light intensity was 4,000 lux for those 
in TH and 3,000 lux for those in BT2, and the maximum 
biomass expressed by the optical density at wavelength 
of 560 nm reached 1.42 and 1.33 for the two strains in 
the 8th day, respectively.
Keywords: biomass, brackish water, cultivation, 
Spirulina, Thanh Hoa.
Classification number: 4.5
4760(12) 12.2018
Khoa học Nông nghiệp
Trong khoảng 25-35°C tảo sinh trưởng tốt và sinh khối cực 
đại đều đạt ở ngày nuôi thứ 7-8 (hình 2).
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)TH
15°C 20°C 25°C 30°C 35°C
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)BT2
15°C 20°C 25°C 30°C 35°C
Hình 2. Ảnh hưởng nhiệt độ nuôi cấy đến sinh trưởng S. platensis.
Tuy nhiên, ở ngưỡng 30°C đường cong sinh trưởng của 
cả 2 chủng TH và BT2 đều vượt trội hơn so với ở mức 25 và 
35°C, đạt cực đại ở ngày nuôi thứ 8 (OD
560
 lần lượt đạt 1,29 
và 1,20). Kết quả thu được trong nghiên cứu cũng tương 
đồng với kết quả công bố của Hu (2004) cho thấy tảo có thể 
sống ở dải nhiệt độ từ 20-40°C [5], hay Danesi và cộng sự 
(2001) cũng xác định được nhiệt độ tối ưu cho tăng trưởng 
của Spirulina là 30°C [6]. 
Kết quả thu được cho thấy, ở nhiệt độ thấp, hoạt tính 
quang hợp của tảo thấp, dẫn đến sinh trưởng và phát triển 
chậm, khi nhiệt độ tăng, cường độ quang hợp tăng dẫn đến 
sinh trưởng của tảo tăng. Tuy nhiên, khi nhiệt độ tăng lên 
quá nhiệt độ tối thích của tảo sẽ làm giảm hoạt tính quang 
hợp và dẫn đến ngừng hẳn quang hợp [7]. Một nghiên cứu 
khác của Vonshak và cộng sự (1982) cho thấy, khi nhiệt độ 
cao tảo sử dụng nhiều năng lượng dự trữ như cacbohydrate 
để tăng hoạt động hô hấp trong chu kỳ tối dẫn đến làm giảm 
trọng lượng của tế bào [8].
Ảnh hưởng của pH
Với chi Spirulina khi pH quá cao hay quá thấp sẽ làm ức 
chế quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu, quang hợp và trao 
đổi chất của tảo [9]. Tuy nhiên, giá trị pH tối ưu cho tăng 
trưởng của tảo phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, điều 
kiện nhân nuôi. Chính vì vậy, trong nghiên cứu chúng tôi 
tiến hành xác định pH thích hợp cho từng chủng tảo trong 
điều kiện nhân nuôi tại Công ty CP Long Phú, tỉnh Thanh 
Hóa (hình 3). 
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)TH
pH-8 pH - 8.5 pH - 9 pH - 9.5 pH - 10
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)BT2
pH-8 pH - 8.5 pH - 9 pH - 9.5 pH - 10
Hình 3. Ảnh hưởng của pH môi trường đến sinh trưởng S. platensis.
Kết quả trên hình 3 cho thấy, cũng giống với các loài 
thuộc chi Spirulina nói chung, cả 2 chủng tảo thực nghiệm 
đều có thể sinh trưởng và phát triển ở pH 8-10. Tuy nhiên, 
với chủng TH, ở ngưỡng pH 10 tảo phát triển tốt hơn 
so với khoảng pH 8-9,5, và mật độ quần thể đạt cực đại 
(OD
560
=1,33 ở ngày nuôi thứ 8). Với chủng BT2, tảo phát 
triển tốt nhất ở pH 9,5, tiếp đó là pH 9 và thời gian đạt sinh 
khối cực đại ở pH 9,5 (OD
560
=1,27 ở ngày nuôi thứ 8).
 Kết quả này cũng phù hợp với các công bố trước đây, 
như nghiên cứu của Belkin và cộng sự (1971) đã xác định 
pH tối ưu cho sinh trưởng của S. platensis nuôi trong môi 
trường Zarrouk (với nguồn N bổ sung là NaNO
3
 29,4 mM) 
từ 9-9,5 [10], hay với chủng S. platensis (Ấn Độ) nuôi trong 
môi trường Zarrouk có hàm lượng NaHCO
3
 18 g/l, độ mặn 
1‰ cho sinh trưởng tốt nhất ở pH 9 [10]. Trong khi ở độ 
mặn cao 15-25‰, chủng S. platensis của Trường Đại học 
Nha Trang cho kết quả sinh trưởng tốt hơn ở pH 9-9,5, hay 
như chủng Spirulina sp. (Trường Đại học Cần Thơ) thì pH 
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
1 2 3 4 5 6 7 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)TH
15°C 20°C 25°C 30°C 35°C
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gia (
15°C 20°C 25°C 30°C 35°C
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)H
15°C 20°C 25°C 30°C 35°C
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)
15°C 20°C 25°C 30°C 35°C
0.
0.
0.
0.
1.2
1.4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian ( gày)
15°C 20°C 25°C 30°C 35°C
4860(12) 12.2018
Khoa học Nông nghiệp
9 là điều kiện tốt nhất cho sự phát triển sinh khối cũng như 
tích lũy chlorophyll và carotenoid của loài tảo này [11, 
12].
Ảnh hưởng của cường độ chiếu sáng
Cũng như các cơ thể có khả năng quang hợp nói chung, 
ánh sáng là nguồn năng lượng chính cho quá trình sản xuất 
sinh khối vi tảo. Trong đó, cường độ ánh sáng là yếu tố có 
ảnh hưởng trực tiếp đến cường độ quang hợp, nhất là trong 
điều kiện mật độ tảo đạt cao [13].
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)TH
2.000 lux 3.000 lux 4.000 lux 5.000 lux
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)BT2
2.000 lux 3.000 lux 4.000 lux 5.000 lux
Hình 4. Ảnh hưởng của cường độ chiếu sáng đến sinh trưởng S. 
platensis.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, với chủng TH, ở cường 
độ ánh sáng 4.000 lux, tảo sinh trưởng và phát triển tốt 
nhất, mật độ quần thể đạt cao nhất ở ngày nuôi thứ 8 
(OD
560
=1,40), còn ở ngưỡng cường độ ánh sáng 2.000 lux 
tảo sinh trưởng và phát triển kém hơn. Với chủng BT2, tảo 
sinh trưởng tốt nhất ở cường độ sáng 3.000 lux (đạt cao 
nhất ở ngày nuôi thứ 8 với OD
560
=1,29), tiếp đó là ở cường 
độ chiếu sáng 4.000 lux, 5.000 lux, còn ở cường độ 2.000 
lux sinh trưởng của tảo phát triển chậm nhất (hình 4). Điều 
này có thể giải thích là do, với cường độ ánh sáng thấp 
(2.000 lux) ức chế sinh trưởng của tảo và trở thành yếu 
tố giới hạn, trong khi cường độ ánh sáng cao (5.000 lux) 
và ở giai đoạn ban đầu mật độ tảo còn thấp, thì ánh sáng 
quá mạnh sẽ gây tổn thương tảo, ảnh hưởng đến các sắc tố 
quang hợp như chlorophyll, phycocyanin, và bắt đầu xuất 
hiện hiện tượng ức chế quang hợp có thể làm tảo chết hoặc 
làm giảm năng suất [14].
Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng
Bên cạnh cường độ chiếu sáng, thời gian chiếu sáng 
cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quang hợp. Chính vì 
vậy, việc nghiên cứu chu kỳ chiếu sáng thích hợp cho nuôi 
Spirulina cũng là dữ liệu quan trọng khi ứng dụng trong sản 
xuất ở điều kiện ngoài trời phải phụ thuộc hoàn toàn vào 
thời gian chiếu sáng tự nhiên.
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)TH
8 giờ 10 giờ 12 giờ
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
O
D
 5
6
0
Thời gian (ngày)BT2
8 giờ 10 giờ 12 giờ
Hình 5. Ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng đến sinh trưởng S. 
platensis.
Hình 5 biểu diễn tốc độ sinh trưởng của 2 chủng TH 
và BT2 ở các chu kỳ chiếu sáng khác nhau. Đối với cả 2 
chủng TH và BT2, thời gian chiếu sáng 8h/ngày tảo phát 
triển chậm hơn hẳn so với chu kỳ chiếu sáng:tối là 10:14 
đến 12:12 giờ, mật độ quần thể đạt cực đại ở ngày nuôi thứ 8 
với chu kỳ chiếu sáng:tối là 10:14 và 12:12 giờ, OD
560
 tương 
ứng đạt 1,40 và 1,42 (chủng TH) và 1,33 (chủng BT2). Như 
vậy, có thể thấy, khi rút ngắn thời gian chiếu sáng đã ảnh 
hưởng đến quá trình quang hợp của tảo, dẫn đến sinh trưởng 
của tảo bị giảm sút. Thời gian chiếu sáng càng dài thì năng 
suất tảo Spirulina càng cao, năng suất tảo đạt cao nhất khi 
chiếu sáng liên tục [15]. 
4960(12) 12.2018
Khoa học Nông nghiệp
Kết luận
Trong điều kiện phòng nuôi tại Công ty CP Long Phú 
(Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa), kết quả thử nghiệm cho 
thấy cả 2 chủng S. platensis TH và BT2 đều có thể sử dụng 
cho nhân giống tảo nước lợ phục vụ sản xuất sinh khối. Điều 
kiện nhân giống thích hợp với chủng TH là: nhiệt độ nuôi 
cấy 30°C, pH môi trường 10, cường độ ánh sáng 4.000 lux, 
chu kỳ chiếu sáng:tối là12:12 giờ cho sinh khối đạt cực đại 
ở ngày nuôi thứ 8 (OD
560
=1,42). Với chủng BT2 nhiệt độ 
nuôi cấy thích hợp 30°C, pH môi trường 9,5, cường độ ánh 
sáng 3.000 lux và thời gian chiếu sáng:tối là 12:12 giờ cho 
sinh khối cao nhất ở ngày nuôi thứ 8 (OD
560
=1,33). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Vonshak (1997), Spirulina platensis (Arthrospira): Physiology, 
Cell Biology and Biotechnology, Taylor and Francis, London, 233pp.
[2] R. Henrikson (1994), Microalga Spirulina, superalimento 
del futuro, Ronore Enterprises, Ediciones Urano, Barcelona, España, 
222pp.
[3] A. Belay (1997), “Mass culture of Spirulina outdoors: the 
earthrise farms experience”, Spirulina platensis (Arthrospira) 
Physiology, Cell Biology and Biotechnology, London: Taylor & 
Francis, pp.131-158.
[4] J.F. Cornet, C.G. Dussap, G. Dubertret (1992), “A structured 
model for simulation of cultures of the cyanobacterium Spirulina 
platensis in photobioreactors. I. Coupling between light transfer and 
growth kinetics”, Biotechnol. Bioeng., 40, pp.817-825.
[5] Q. Hu (2004), “Industrial production of microalgal cell mass and 
secondary products-major industrial species: Arthrospira (Spirulina) 
platensis”, Handbook of Microalgal Culture: Biotechnology and 
Applied phycology, Oxford: Blackwell Science Ltd, pp.264-272.
[6] E.D.G. Danesi, C.O. Rangel, L.H. Pelizer, J.C.M. Carvalho, 
S. Sato, I.O. Moraes (2001), “Production of Spirulina platensis under 
different temperatures and urea feeding regimes for chlorophyll 
attainment”, Proceed. 8th Intl. Congress Engin. Food, 2, pp.1978-
1982.
[7] Muhammad Qasim, Imran Najeeb, Majeeda Rasheed, 
Khawar Ali Shahzad, Abdul Ahad, Zahida Fatima and
Zubair Anwar 
(2012), “Physico-chemical growth requirements and molecular 
characterization of indigenous Spirulina”, Afr. J. Microbiol. Res., 
6(11), pp.2788-2792.
[8] A. Vonshak, A. Abeliovich, S. Boussiba, S. Arad, A. Richmond 
(1982), “Production of Spirulina biomass: affects of environmental 
factors and population density”, Biomass, 2(3), pp.175-185.
[9] J.P. Pandey, N. Pathak, and A. Tiwan (2010), “Standardization 
of pH and light intensity for the biomass production of Spirulina 
platensis”, J. Algal Biomass Utln., 1(2), pp.93-102.
[10] S. Belkin and S. Boussiba (1971), “Resistance of Spirulina 
platensis (Cyanophyta) to high pH values”, Plant Cell Physiol., 32, 
pp.953-958.
[11] Gaurav Sharma, Manoj Kumar, Mohammad Irfan Ali1, and 
Nakuleshwar Dut Jasuja (2014), “Effect of Carbon Content, Salinity 
and pH on Spirulina platensis for Phycocyanin, Allophycocyanin and 
Phycoerythrin Accumulation”, J. Microb. Biochem. Technol., 6(4), 
pp.202-206.
[12] Trần Thị Lê Trang, Hoàng Thị Bích Mai, Nguyễn Tấn Sỹ, 
Nguyễn Thị Thúy, Trần Văn Dũng, Trần Thị Tuyết, Nguyễn Thị Hà 
Giang, Lê Thị Hoài Nhơn (2012), “Nghiên cứu ảnh hưởng của pH và 
độ mặn đến sinh trưởng của quần thể tảo Spirulina platensis”, Tạp chí 
Hoạt động Khoa học, 10, tr.73-76.
[13] J. Falquet, and J. Hurni (1997), The nutritional aspects of 
Spirulina, Antenna Foundation, https://www. antenna. ch/wp-content/
uploads/2017/03/AspectNut_UK. pdf (Accessed July 25, 2017).
[14] Đặng Đình Kim, Đặng Hoàng Phước Hiền (1999), Công 
nghệ sinh học vi tảo, Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr.5-125.
[15] M.G.J. Janssen (2002), Cultivation of microalgae: effect of 
light/dark cycles on biomass yield, doctoral dissertation. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_mot_so_yeu_to_moi_truong_den_qua_trinh_nhan_gi.pdf