Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (CEFR) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường Đại học Giao thông Vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp
TÓM TẮT
Bài báo nêu lên những bất cập trong việc xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh dựa trên
khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (Common European Framework of Reference, viết
tắt là CEFR) tại trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Theo chỉ đạo về việc thực hiện đề
án ngoại ngữ 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) đã
tiến hành xây dựng đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng chuẩn đầu ra
B1 và quyết định lấy khung quy chiếu châu Âu CEFR làm nền tảng cho việc xây dựng chương
trình. Tuy nhiên, quá trình xây dựng đề án đổi mới đã gặp nhiều thách thức liên quan đến cơ chế
và chính sách đào tạo, giáo trình bài giảng, đề thi, phương pháp giảng dạy của giáo viên khiến
cho việc thiết kế chương trình gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong bài báo này, tác giả dự
định phân tích những bất cập đó và đề xuất những hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của
chương trình đào tạo.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (CEFR) trong xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh tại trường Đại học Giao thông Vận tải: Khó khăn và đề xuất giải pháp
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, các trường đại học ở Việt nam đã và đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo tiếng Anh, từ việc biên soạn lại chương trình, lựa chọn giáo trình mới, tăng thời lượng, nâng cao trình độ giáo viên đến việc thay đổi cách kiểm tra đánh giá theo hướng áp dụng một số chứng chỉ quốc tế để xác định trình độ người học. Tất cả những nỗ lực nói trên đã góp phần cải thiện một phần nào chất lượng đào tạo tiếng Anh. Tuy nhiên, theo nhận định chung, hiệu quả về giảng dạy vẫn còn NGUYỄN THỊ THU HÀ* *Đại học Giao thông Vận tải, ✉ nttha@utc.edu.vn ÁP DỤNG KHUNG QUY CHIẾU TRÌNH ĐỘ CHUNG CHÂU ÂU (CEFR) TRONG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG ANH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI: KHÓ KHĂN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP tương đối thấp mà nguyên nhân là do các biện pháp cải thiện được thực hiện một cách tự phát hoặc thiếu một cơ sở lý luận làm nền tảng, đặc biệt thể hiện ở mối liên kết lỏng lẻo giữa chương trình đào tạo và cách đánh giá chuẩn đầu ra. Nhận thức được tầm quan trọng trong việc xác định chuẩn đầu ra cho sinh viên đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành thông tư số 05/2012/TT- BGDĐT quy định sinh viên tốt nghiệp ĐH khối ngành không chuyên ngữ phải đạt trình độ tiếng Anh B1 – tương đương 450 điểm TOEIC, 450 điểm TOEFL TÓM TẮT Bài báo nêu lên những bất cập trong việc xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh dựa trên khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (Common European Framework of Reference, viết tắt là CEFR) tại trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Theo chỉ đạo về việc thực hiện đề án ngoại ngữ 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) đã tiến hành xây dựng đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng chuẩn đầu ra B1 và quyết định lấy khung quy chiếu châu Âu CEFR làm nền tảng cho việc xây dựng chương trình. Tuy nhiên, quá trình xây dựng đề án đổi mới đã gặp nhiều thách thức liên quan đến cơ chế và chính sách đào tạo, giáo trình bài giảng, đề thi, phương pháp giảng dạy của giáo viên khiến cho việc thiết kế chương trình gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, trong bài báo này, tác giả dự định phân tích những bất cập đó và đề xuất những hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình đào tạo. Từ khóa: đề án ngoại ngữ 2020, khung quy chiếu châu Âu, xây dựng chương trình. 63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v PBT hoặc 4.5 điểm IELTS theo khung quy chiếu châu Âu có hiệu lực thi hành từ tháng 4/2012 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012). Thông tư nhằm hiện thức hóa một phần trong nội dung của đề án ngoại ngữ 2020 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2008. Nhằm thực hiện thông tư của Bộ, bắt đầu từ năm học 2015-2016, trường Đại học Giao thông Vận tải đã thực hiện đề án đổi mới chương trình đào tạo tiếng Anh theo định hướng sử dụng khung quy chiếu châu Âu bắt đầu bằng việc phân loại sinh viên để xếp lớp theo đúng trình độ và xác định chuẩn đầu ra là B1 với bài thi tập trung vào cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết, nhằm phát triển toàn diện khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của sinh viên. Tuy vậy, trong quá trình xây dựng đề án, các giảng viên Anh văn phụ trách phần thiết kế chương trình đã gặp rất nhiều khó khăn liên quan đến việc ứng dụng khung quy chiếu trình độ chung châu Âu (CEFR) đối với một trường khối kỹ thuật không chuyên về tiếng Anh, bên cạnh đó còn có nhiều bất cập về cơ chế chính sách đào tạo, biên soạn giáo trình, phương pháp giảng dạy để thực hiện đề án. Để làm rõ vần đề này, bài báo sẽ giới thiệu tổng quan về khung quy chiếu CEFR, nêu lên các thách thức trong áp dụng khung quy chiếu và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình và hiệu quả giảng dạy tiếng Anh tại trường Đại học Giao thông Vận tải nói riêng và các trường đại học không chuyên ngữ nói chung. 2. GIỚI THIỆU KHUNG QUY CHIẾU TRÌNH ĐỘ CHUNG CHÂU ÂU Khung trình độ chung châu Âu, tên đầy đủ là Khung quy chiếu về trình độ ngôn ngữ chung châu Âu (Common European Framework of Reference for Languages), là một sáng kiến của Hội đồng châu Âu nhằm đưa ra một hệ thống mô tả các mức trình độ ngoại ngữ có thể đạt được của người học từ lúc bắt đầu đến khi đạt được trình độ gần tương đương với người bản ngữ (Council of Europe, 2001). CEFR được bắt đầu xây dựng vào đầu thập niên 1990 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nổi tiếng của châu Âu, trong đó tác giả chính là John Trim, Brian North, Daniel Coste và Joseph Sheils. Sau khi thử nghiệm với 2 phiên bản nội bộ, phiên bản chính thức đầu tiên ra mắt vào năm 2001, được xuất bản bằng hai ngôn ngữ, tiếng Anh do nhà xuất bản Cambridge, tiếng Pháp do nhà xuất bản Didier để chào mừng năm Ngôn ngữ châu Âu và đã được dịch ra gần 40 ngôn ngữ trên thế giới. Mục tiêu tổng quát của khung quy chiếu CEFR được thể hiện trong trích đoạn sau đây: “Khung quy chiếu CEFR nhằm mục đích vượt qua các rào cản về giao tiếp giữa các chuyên gia làm việc về lĩnh vực ngôn ngữ hiện đại đến từ các hệ thống giáo dục khác nhau cung cấp các phương tiện để các nhà quản lý đào tạo, các nhà thiết kế chương trình, giáo viên, người đào tạo giáo viên, các cơ quan khảo thí có thể định vị và phối hợp các nỗ lực để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của người học. Bằng cách tạo ra một cơ sở chung để mô tả tường minh các mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy. Khung quy chiếu CEFR sẽ làm tăng tính minh bạch của các khóa học, nội dung chương trình và văn bằng được cấp” (Common European Framework of Reference for Languages: Council of Europe, phiên bản điện tử, tr.1) (Council of Europe, 2001). Phiên bản chính thức của khung quy chiếu CEFR có độ dài 260 trang với 9 chương chính và 4 phụ lục; trong đó, 2 chương đầu của công trình giới thiệu bối cảnh, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu, các chương còn lại mô tả và phân tích các yếu tố có liên quan đến hiệu quả của việc học tập, giảng dạy và sử dụng ngôn ngữ như các mức trình độ ngôn ngữ, bối cảnh sử dụng ngôn ngữ, năng lực của người học, quá trình giảng dạy và học tập, vai trò của các hoạt động trong giảng dạy, chương trình đào tạo và cuối cùng là kiểm tra đánh giá. Phần phụ lục của công trình nêu một số ứng dụng cụ thể của CEFR trên thế giới nhằm mục đích minh họa và gợi ý cho người đọc những cách khai thác CEFR để phục vụ cho mục đích riêng biệt của mình. Có thể nói CEFR là một công trình toàn diện và bao quát vì nó hướng đến tất cả các đối tượng có liên quan trong quá trình đào tạo, từ người sử dụng lao động, các cơ quan khảo thí và cấp chứng chỉ đến các nhà quản lý, thiết kế chương trình và cuối cùng là các 64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Bảng 1. Khung quy chiếu trình độ chung - Thang đo tổng quát (Council of Europe, 2001) Năng lực Cấp độ Mô tả năng lực Sử dụng thành thạo C2 Có khả năng hiểu một cách dễ dàng những thông tin đọc và nghe được. Tóm tắt thông tin từ các nguồn nói và viết khác nhau, tái cấu trúc các lập luận và miêu tả thành một trình tự gắn kết. Biểu hiện khả năng ngôn ngữ một cách tự nhiên, trôi chảy và chính xác, phân lập các tầng nghĩa khác nhau kể cả trong những tình huống phức tạp. C1 Có khả năng hiểu các loại văn bản dài và phức tạp, nhận biết được các hàm ý. Biểu hiện khả năng ngôn ngữ một cách tự nhiên, thuần thục mà không gặp phải nhiều khó khăn. Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt và hiệu quả phục vụ trong các mục đích xã hội, học tập hay công việc. Có khả năng dùng các câu có cấu trúc chặt chẽ, rõ ý về những đề tài phức tạp, sử dụng linh hoạt các thành phần câu, từ nối câu và các cụm từ chức năng. Sử dụng độc lập B2 Có khả năng hiểu các ý chính trong văn bản phức tạp về các chủ đề cụ thể cũng như trừu tượng, bao gồm những thảo luận về các vấn đề kỹ thuật về chuyên ngành của người học. Giao tiếp một cách tự nhiên và lưu loát với người bản địa, không gây sự hiểu lầm giữa đôi bên. Có khả năng sử dụng các câu chi tiết, rõ ràng trong nhiều chủ đề khác nhau, bày tỏ quan điểm về một vấn đề cũng như so sánh những ưu, nhược điểm của từng đề tài trong các bối cảnh khác nhau. B1 Có khả năng hiểu những ý chính trong ngôn ngữ thông qua các chủ đề quen thuộc thường gặp trong công việc, ở trường học hay khu vui chơi. Có thể xử lý hầu hết các tình huống có thể xảy ra trong giao tiếp. Có khả năng sử dụng các câu liên kết đơn giản trong các chủ đề quen thuộc trong cuộc sống hoặc liên quan đến sở thích cá nhân. Có thể miêu tả các sự kiện, các trải nghiệm, giấc mơ, ước ao hay tham vọng của mình và đưa ra những nguyên nhân, giải thích cho các ý kiến và dự định đó. Sử dụng căn bản A2 Có thể hiểu câu và các cụm từ thông thường trong những hầu hết các chủ đề quen thuộc (ví dụ: thông tin cơ bản về bản thân và gia đình, mua sắm, địa lý địa phương, vấn đề việc làm). Có thể giao tiếp đơn giản, thực hiện các yêu cầu cơ bản và nắm bắt được thông tin khi giao tiếp trong các bối cảnh quen thuộc. Có thể dùng từ vựng đơn giản để miêu tả lý lịch cá nhân, bối cảnh trực tiếp hay những chủ đề về các nhu cầu cấp bách. A1 Có khả năng hiểu và sử dụng các cấu trúc câu đơn giản và cơ bản nhằm đáp ứng những yêu cầu cụ thể. Có khả năng giới thiệu bản thân và những người khác, có thể hỏi và trả lời các câu hỏi về bản thân như nơi sinh sống, những người quen biết hay những vật dụng sở hữu. 65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v nhân vật trung tâm của quá trình đào tạo là giáo viên và người học. 2.1. Nội dung chính của khung quy chiếu chung CEFR Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều cách phân chia trình độ ngoại ngữ sử dụng các thang đo khác nhau, tuy nhiên, các thang đo này còn khá mơ hồ gây trở ngại cho việc chuyển đổi và công nhận lẫn nhau giữa các hệ thống. Ví dụ, người học có chứng chỉ TOEIC, TOEFL hoặc IELTS sẽ được quy chiếu như thế nào với chứng chỉ FCE. Chính vì vậy, một khung tham chiếu chung như CEFR là thực sự cần thiết và hữu dụng để giải quyết vấn đề này. Theo CEFR, năng lực ngoại ngữ của người học được chia ra làm 6 mức như Bảng 1 (Council of Europe, 2001): Trình độ A (sử dụng căn bản): Gồm 2 mức A1 (giao tiếp theo công thức) và A2 (giao tiếp cơ bản). Trình độ B (sử dụng độc lập): Gồm 2 mức: B1(giao tiếp độc lập trong một số tình huống hạn chế) và B2 (giao tiếp độc lập trong các tình huống quen thuộc). Trình độ C (sử dụng thành thạo): gồm 2 mức: C1 (giao tiếp chủ động và thành thạo trong nhiều tình huống đa dạng) và C2 (giao tiếp chủ động và thành thạo trong hầu hết mọi tình huống). Các trình độ nói trên được sắp xếp trên một thang đo tổng quát (global scale) theo thứ tự từ cao đến thấp (từ trình độ C2 đến trình độ A1), mỗi trình độ có kèm theo diễn giải về khả năng sử dụng ngôn ngữ của người học, để người đọc có thể hiểu dễ dàng. Thang đo này cung cấp một bản mô tả chung về trình độ của người học, đồng thời đưa ra những định hướng tổng quát cho việc xây dựng mục tiêu học tập và thiết kế chương trình đào tạo. 2.2. Khái niệm về chương trình và các nội dung của việc thiết kế chương trình trong CEFR Các tác giả trong CEFR cũng đã khẳng định rằng, chương trình là một khái niệm rộng và khó đưa ra được một định nghĩa rõ ràng và được sự nhất trí cao. Theo các tác giả, chương trình học được coi là một kế hoạch học tập hay là “môt lộ trình mà người học thực hiện thông qua các trải nghiệm học tập, có hoặc không có sự kiểm soát của một cơ sở giáo dục” (CEFR, chương 8.4). Chương trình học chính là một phần của chương trình “trải nghiệm” (experiential) và “tồn tại” (existential), mà phạm vi của nó còn vượt ra khỏi cả ranh giới của trường học. Xây dựng và thực hiện chương trình bao gồm nhiều hoạt động được thực hiện ở nhiều cấp khác nhau trong hệ thống giáo dục, cụ thể như sau: – Cấp quốc tế, để so sánh (supra): Ví dụ như: các công cụ để tham chiếu có tính quốc tế như khung năng lực CEFR, các nghiên cứu đánh giá quốc tế như khảo sát PISA hay các chỉ số châu Âu về năng lực ngôn ngữ, hoặc các phân tích được chuyên gia quốc tế thực hiện. – Cấp quốc gia (hệ thống giáo dục), cấp bang hoặc vùng (macro): Ví dụ như: các kế hoạch học tập, đề cương bài giảng, các mục đích chiến lược cụ thể, nội dung cốt lõi, các chuẩn về đào tạo. – Cấp trường (meso): Ví dụ như: điều chỉnh chương trình học hoặc kế hoạch học tập để phù hợp với điều kiện của từng trường. – Cấp lớp, nhóm, trình tự giảng dạy, giáo viên (micro): Ví dụ như: khóa học, sách giáo khoa được sử dụng, các nguồn tài liệu. – Cấp cá nhân (nano): Ví dụ như: kinh nghiệm học tập cá nhân, phát triển cá nhân về học tập suốt đời. Các tác giả cũng khẳng định rằng, sự tham gia của các cấp trong việc xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo, đặc biệt ở cấp quốc gia hoặc cấp khu vực trong việc đưa quyết sách có thể gây ra những sức ép nhất định.Tuy nhiên, dù chính sách giáo dục được quyết định như thế nào ở hai cấp này, thì vai trò của trường học (meso) và giáo viên đứng lớp (micro) luôn đóng vai trò quyết định trong việc thực thi chương trình đào tạo. 66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 3. ỨNG DỤNG CỦA CEFR TRONG THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CEFR ra đời đánh dấu một bước thay đổi lớn trong việc thiết kế chương trình đào tạo ở khắp nơi trên thế giới, không chỉ bó hẹp ở phạm vi châu Âu. Từ cách tiếp cận theo tính truyền thống là xây dựng chương trình chú trọng vào phương pháp giảng dạy để truyền tải nội dung chương trình thì nay việc thiết kế chương trình hướng đến kết quả đầu ra của người học và tất cả phương pháp giảng dạy và các hoạt động học tập đều nhằm đạt đến kết quả đầu ra đó. Hội đồng châu Âu đã thực hiện một cuộc nghiên cứu khảo sát từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2006 để thu thập thông tin về việc sử dụng CEFR ở cấp quốc gia tại 30 nước thành viên của liên minh châu Âu. Kết quả của khảo sát này đã được trình bày tại Diễn đàn chính sách “The Common European Framework for Reference for Languages and the Development of Language Policies: Challenges and Responsibilities” (Khung quy chiếu Trình độ Ngôn ngữ chung châu Âu và xây dựng các chính sách ngôn ngữ: Thách thức và trách nhiệm) (Council of Europe, 2001) được tổ chức vào tháng 2 năm 2007. Kết quả khảo sát đã cho thấy, CEFR được thường xuyên sử dụng ở các nước thành viên trong việc xây dựng chương trình đào tạo ngoại ngữ ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học, chương trình đào tạo tiếng dân tộc, các quy định về kiểm tra, đánh giá và cấp chứng chỉ, các chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, biên soạn sách giáo khoa, các văn bản về chính sách và kế hoạch hành động trong đào tạo ngôn ngữ. Cụ thể, về nội dung câu hỏi liên quan đến lập kế hoạch và xây dựng chương trình đào tạo, 26 trên tổng số 29 nước tham gia trả lời khảo sát (chiếm 90%) đã đánh giá rằng, CEFR là công cụ rất hữu ích trong việc lên kế hoạch và xây dựng chương t ... g lực sử dụng tiếng Anh. Và chuẩn phải có tính thống nhất, chặt chẽ và xuyên suốt, đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu của cơ quan tuyển dụng lao động. 4. THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG ANH DỰA TRÊN KHUNG QUY CHIẾU CEFR TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI Từ năm học 2015-2016, nhằm thực hiện chỉ đạo của đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020, Trường Đại học Giao thông Vận tải đã tiến hành đổi mới chương trình đào tạo lấy khung quy chiếu trình độ chung châu Âu là nền tảng cho việc thiết kế chương trình. Trước thời điểm đổi mới chương trình, sinh viên toàn trường thường phải học 3 học phần tiếng Anh gồm tiếng Anh 1 (60 tiết/3 tín chỉ), tiếng Anh 2 (60 tiết/3 tín chỉ) và tiếng Anh chuyên ngành (45 tiết hoặc 60 tiết tùy từng chuyên ngành). Giáo trình tiếng Anh 1 là cuốn giáo trình được nhà trường biên soạn ở trình độ Elementary (sơ cấp), giáo trình tiếng Anh 2 ở trình độ Pre-intermediate (trung cấp) và giáo trình chuyên ngành thường từ trình độ Pre-intermediate (trung cấp) trở lên. Sinh viên buộc phải học cả 3 học phần, không tính đến trình độ đầu vào của các em, dẫn đến tình trạng lớp có nhiều trình độ khác nhau, có những sinh viên học kém nhưng cũng có nhiều em khá tiếng Anh phải học lại từ trình độ cơ bản Elementary, dẫn đến tình trạng chán học. Giáo viên cũng gặp nhiều khó khăn khi giảng dạy những lớp sinh viên có trình độ chênh lệch nhau vì khó áp dụng những phương pháp giảng dạy phù hợp với những đối tượng như vậy. Đề án đổi mới chương trình được sự tham gia xây dựng của tất cả các giảng viên tiếng Anh. Với cách tiếp cận xác định chuẩn năng lực cho từng học phần, từ đó xác định phương pháp giảng dạy, nội dung bài giảng và cách đánh giá, chương trình đào tạo được thiết kế theo các trình độ từ A1 đến B1 (bảng 2). Theo yêu cầu của chương trình mới, sinh viên khi vào trường phải tham gia thi sát hạch năng lực đầu vào. Bài thi sát hạch là dạng thi TOEIC Listening & Reading dạng trắc nghiệm khách quan thực hiện trong 2 giờ, gồm 200 câu hỏi. Từ kết quả sát hạch này, Nhà trường thực hiện quy đổi điểm TOEIC sang khung trình độ chung châu Âu như trình độ A1, A2, B1. Sinh viên sau khi quy đổi đạt trình độ như thế nào sẽ được xếp lớp theo đúng trình độ của mình. Những sinh viên đạt điểm TOEIC tương đương B1 sẽ được miễn học tất cả các học phần A1, A2 và B1 và chỉ phải học học phần tiếng Anh chuyên ngành. Cũng theo yêu cầu của đề án, sinh viên phải đạt điểm 5 ở các học phần trước thì mới được chuyển tiếp lên học ở các học phần tiếp theo. Những sinh viên không đạt sẽ phải học lại và thi lại để đạt. Chuẩn tiếng Anh đầu ra là 5 điểm học phần B1 và đạt điểm theo quy định của hệ thống tín chỉ với học phần tiếng Anh chuyên nghành. 68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Về giáo trình sử dụng, nhà trường sử dụng bộ giáo trình được thiết kế dựa theo khung quy chiếu trình độ chung châu Âu, giáo trình Straightforward A1, Straightforward A2 và Straightforward B1 (Philip Ker, 2013). Đối với học phần tiếng Anh chuyên ngành, nhà trường giao việc biên soạn giáo trình tùy theo từng chuyên ngành cho các nhóm giảng viên dạy chuyên nghành cụ thể như chuyên ngành công trình, cơ khí, kinh tế, kỹ thuật viễn thông.... Tất cả các giáo trình chuyên ngành đều biên soạn từ trình độ B1. Về đề thi cho các học phần, các giảng viên dựa vào các tiêu chí đánh giá trình độ A1, A2 và B1 để thiết kế ra bộ đề thi để đánh giá theo trình độ. Đối với trình độ A2, việc thiết kế đề thi dựa trên bài thi KET (Cambridge ESOL) và trình độ B1 dựa trên đề thi PET (Cambridge ESOL).Nhà trường quyết định lấy đề thi B1 (PET) nhằm xác định chuẩn đầu ra vì nó đánh giá đầy đủ 4 kỹ năng, không giống đề thi TOEIC chỉ đánh giá 2 kỹ năng nghe và đọc. Cho đến nay, việc thực hiện chương trình đã thực hiện cho 2 khóa 55 và 56 và có những ưu thế so với chương trình cũ như sau: – Sinh viên được xếp lớp theo đúng trình độ, tránh tình trạng lớp nhiều trình độ chênh lệch. – Sinh viên phải đạt học phần mới được chuyển tiếp lên học phần cao hơn, thúc đẩy động cơ học tập của sinh viên. – Giáo trình phát triển 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết theo đúng khung quy chiếu châu Âu CEFR. – Đề thi có đủ 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết, bám sát khung quy chiếu CEFR, khác với chương trình cũ không kiểm tra kỹ năng nói. Tuy vậy, đã có khá nhiều bất cập từ khâu xây dựng và thực hiện chương trình, cụ thể: Áp dụng đề thi TOEIC sát hạch đầu vào Việc sử dụng đề thi TOEIC Listening và Reading để sát hạch đầu vào và xếp lớp là do đề thi có dạng trắc nghiệm, dễ áp dụng cho hơn 1000 sinh viên năm thứ nhất, dễ chấm điểm và quy đổi sang khung tham chiếu CEFR. Tuy nhiên, vì đề thi chỉ đánh giá 2 kỹ năng nghe và đọc nên kết quả có phần nào phiến diện, chưa phản ảnh thực chất khả năng giao tiếp của sinh viên. Rất nhiều sinh viên được điểm cao ở kỳ thi sát hạch này, được chuyển điểm, miễn học và miễn thi các học phần A1, A2, B1 và chỉ phải học phần tiếng Anh chuyên ngành. Tuy vậy, khi ra trường khả năng giao tiếp của sinh viên khó đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Trình độ của sinh viên Kể từ khi thực hiện sát hạch trình độ đầu vào của sinh viên trong năm học 2015-2016, trình độ ngoại ngữ của sinh viên của các trường khối kỹ thuật như Đại học Giao thông Vận tải rất kém. Khóa 55(80% sinh viên) và khóa 56 (76% sinh viên) phải học từ trình độ A1, trong khi đa phần các em đã học tiếng Anh từ tiểu học (lớp 3), tức là khoảng 10 năm học tiếng Anh. Điều này chứng tỏ chất lượng đào tạo ngoại ngữ ở bậc phổ thông thật sự là hồi chuông báo động cả xã hội. Sinh viên vào đại học đáng lý đã phải Bảng 2. Khung chương trình đào tạo tiếng Anh tại Đại học Giao thông Vận tải (từ năm học 2015-2016) STT Trình độ Học phần Số tín chỉ Số tiết Thời điểm học 1 A1 Tiếng Anh A1 4 90 Năm thứ 1 2 A2 Tiếng Anh A2 4 90 Năm thứ 2 3 B1 Tiếng Anh B1 4 90 Năm thứ 3 4 B1+ Tiếng Anh chuyên ngành 3 60 Năm thứ 3 69KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v đạt trình độ A2, và chỉ phải học B1 thì nay phải học lại từ đầu, gây khó khăn cho tất cả các trường đại học nói chung, không riêng gì Đại học Giao thông Vận tải. Thời lượng chương trình Theo khung quy chiếu châu Âu CEFR, với mức điểm 220-245/990 TOEIC, trình độ đầu vào của sinh viên là từ cận A2 (~ 225) đến A2 (> = 225). Đối với mức này, để đạt chuẩn đầu ra (B1) thì sinh viên cần khoảng 300 giờ học trên lớp (class hours), tương đương 400 tiết. Tuy nhiên, với thời lượng tổng là 270 tiết (3 học phần từ A1 đến B1) thì sinh viên đại học Giao thông Vận tải rất khó để đạt trình độ B1 cần thiết. Những giảng viên tham gia xây dựng chương trình cũng đã nhận thức vấn đề này ngay từ khâu thiết kế. Tuy nhiên, do còn có rất nhiều môn học khác trong khung chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định cho tất cả các trường đại học, cho nên không thể bố trí đủ thời lượng theo yêu cầu cho môn tiếng Anh. Đây là một vấn đề rất nan giải, đòi hỏi việc tái cấu trúc lại cơ cấu khung chương trình đào tạo đại học. Giáo trình cho các học phần tiếng Anh Giáo trình Straightforward sử dụng cho các học phần tiếng Anh từ A1 đến B1 dựa trên khung quy chiếu châu Âu tập trung vào cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết. Tuy nhiên, với thời lượng 90 tiết cho 1 học phần, các giảng viên không thể giảng dạy hết nội dung chương trình theo quy định. Hơn nữa, vì đề thi A2 và B1 lại dựa trên định dạng đề thi KET và PET nên việc đáp ứng cả nội dung chương trình và chuẩn bị cho kỳ thi hết học phần là những thách thức rất lớn đối với cả giảng viên và sinh viên. Đề thi và chuẩn đầu ra cho các học phần Như đã trình bày ở trên, đề thi A1 được biên soạn dựa trên yêu cầu trong Khung quy chiếu CEFR, đề thi A2 dựa trên cấu trúc bài thi KET và B1 dựa trên PET của Cambridge ESOL. Tuy nhiên, qua thực hiện chương trình và kết quả thi của sinh viên, để có được điểm đạt của KET và PET là một khó khăn rất lớn vì nội dung đề thi KET và PET khá phức tạp đòi hỏi một bộ giáo trình phù hợp hơn, thời lượng nhiều hơn và cả nỗ lực giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên. Phương pháp giảng dạy của giảng viên Trước đây, khi chưa thực hiện đề án đổi mới, việc đánh giá chỉ dựa trên bài thi đọc, viết và nghe. Tuy nhiên, với cách đánh giá thêm kỹ năng nói vào nội dung bài thi đã làm cho giảng viên gặp khá nhiều lúng túng vì giảng viên đã quen với phương pháp giảng dạy truyền thống, chú trọng vào dạy từ vựng, ngữ pháp. Giảng viên chưa chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, cũng như chưa cập nhật các phương pháp giảng dạy theo đường hướng giao tiếp. Kết quả thi nói ở các học phần vẫn bị đánh giá là kém nhất trong các kỹ năng. Điều này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng đào tạo tiếng Anh nói chung. 5. ĐỀ XUẤT GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TRONG ÁP DỤNG CEFR ĐỂ XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG ANH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC GTVT CŨNG NHƯ CÁC TRƯỜNG KHỐI KHÔNG CHUYÊN NGỮ Việc áp dụng CEFR vào xây dựng chương trình đào tạo tiếng Anh là một chủ trương đúng đắn, tuy nhiên, để có thể thực hiện chương trình một cách hiệu quả, cần phải có những giải pháp đồng bộ từ tất cả các bên có liên quan, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất, tạo sự đồng bộ và gắn kết giữa các mảng khác nhau của quá trình giảng dạy và học tập ngoại ngữ, cụ thể: 1) Bộ giáo dục và Đào tạo nên cử các chuyên gia đầu ngành về chính sách giảng dạy ngoại ngữ, phối hợp với những nhà quản lý và các giảng viên dạy ngoại ngữ tại các trường đại học nhằm xây dựng một bộ khung chương trình đào tạo ngoại ngữ chung cho tất cả các trường đại học khối không chuyên ngữ, là những trường gặp khó khăn nhiều nhất trong việc đáp ứng chuẩn đầu ra ngoại ngữ của Bộ. Tái cơ cấu lại khung chương trình đào tạo đại học, dành thời lượng đủ để đào tạo tiếng Anh nhằm đạt chuẩn đầu ra. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, đòi hỏi sự nghiên cứu xem xét rất kỹ của hội đồng khoa học của Bộ cũng như của các trường đại học. Tuy nhiên, nếu không giải quyết về vấn đề thời lượng chương trình, rất khó để đạt chuẩn đầu ra theo đúng 70 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI quy định mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra cho các trường đại học. Khung chương trình đào tạo ngoại ngữ nên xác định rõ mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, chuẩn đầu ra, giáo trình, thời lượng, phương pháp giảng dạy và cách đánh giá chuẩn đầu ra. Việc xây dựng một bộ khung chương trình chi tiết sẽ giúp vạch ra phương hướng cụ thể để các nhà quản lý giáo dục các trường thực hiện, tạo sự đồng bộ và nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục đại học nói chung. 2) Đối với từng trường, việc sát hạch trình độ đầu vào và xếp lớp là một công việc rất quan trọng, đòi hỏi sự chính xác cao. Do vậy, cân nhắc sử dụng đề thi có 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết để đánh giá đúng năng lực của sinh viên, chẳng hạn có thể bổ sung thêm kỹ năng nói và viết cho đề thi TOEIC hiện nay đang áp dụng ở nhiều trường. 3) Các trường có thể cân nhắc xây dựng các khóa học trực tuyến theo từng trình độ A1, A2, B1 hoặc tiếng Anh chuyên nghành để bổ sung vào thời lượng chương trình trên lớp. Coi việc đánh giá trực tuyến là một phần trong đánh giá học phần của sinh viên, dưới dạng bài tập lớn và có tính điểm thành phần. 4) Việc xây dựng một bộ đề thi chuẩn và phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Việc nghiên cứu và áp dụng bộ đề thi như thế nào, PET hay TOEIC hoặc một chứng chỉ nào khác để đánh giá chuẩn đầu ra cho các trường đại học cần phải có ý kiến chuyên môn của tất cả các bên có liên quan, từ các chuyên gia của Bộ cũng như của các trường để thống nhất một chuẩn đầu ra, tránh tình trạng loạn chuẩn như hiện nay. 5) Việc bồi dưỡng nâng cao phương pháp giảng dạy theo đường hướng giao tiếp là một yêu cầu cấp thiết đối với tất cả các giảng viên. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả tốt nhất cho việc bồi dưỡng, cần phải có một chương trình bồi dưỡng phương pháp dựa trên khung chương trình đào tạo ngoại ngữ áp dụng cho các trường đại học với nội dung cụ thể chi tiết để giảng viên có thể áp dụng trong công việc giảng dạy của mình. Trên đây là một số đề xuất mà chúng tôi đưa ra để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo tiếng Anh dựa trên khung tham chiếu CEFR. Chúng tôi tin rằng, với sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cấp sẽ đem lại hiệu quả tích cực trong việc xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo tiếng Anh của tất cả các trường đại học khối không chuyên ngữ ở Việt Nam./. Tài liệu tham khảo: 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư 05/2012/TT-BGDDT. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư 01/2014/TT- BGDĐT. 3. Council of Europe (2001), Common European Framework of Reference for Languages: Learning, Teaching, Assessment, Cambridge: Cambridge University Press, available online: < int/lang>. 4. Council of Europe (2007), The Common European Framework of Reference for Languages (CEFR) and the development of policies: Challenges and Responsibilites, Strasbourg: Language Policy Division, avalaible online: . 5. Huong Lan (2008), Đạt chuẩn nhà trường, dưới chuẩn doanh nghiệp. < giaoduc/2008/12/817118/>. 6. Philip Ker (2013). Straightforward Pre- Intermediate, Oxford: MacMillian Publisher. 7. Thu Tâm (2013), Cần xác định chuẩn thống nhất việc dạy tiếng Anh ở trường đại học. <http:// www.sggp.org.vn/giaoduc/2013/3/313322/>. 8. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định 1400- QĐ TTg: “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”. 71KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v APPLYING THE COMMON EUROPEAN FRAMEWORK OF REFERENCE TO ENGLISH CURRICULUM DEVELOPMENT AT THE UNIVERSITY OF TRANSPORT AND COMMUNICATIONS: PROBLEMS AND SOLUTIONS NGUYEN THI THU HA Abstract: This paper presents challenges in English curriculum development based on the Common European Framework of Reference (CEFR) at the University of Transport and Communications in Hanoi. According to the guidelines on the 2020 National Foreign Language Project by the Ministry of Education and Training, the University of Transport and Communications (hereafter UTC) has implemented the renovation of English curriculum oriented towards the expected outcome of B1 English level. The University has decided to take the CEFR as the foundation for the curriculum development. However, the designing of the new curriculum has encountered a lot of obstacles relating to educational policies and mechanism, textbooks, syllabuses, testing and assessment, teaching methodologies. Therefore, the paper aims to analyse those difficulties and proposed possible solutions to improve the effectiveness of the renovated curriculum. Keywords: common European Framework of Reference, curriculum development, 2020 National Foreign Language Project. Received: 07/5/2017; Revised: 06/6/2017; Accepted for publication: 30/8/2017
File đính kèm:
- ap_dung_khung_quy_chieu_trinh_do_chung_chau_au_cefr_trong_xa.pdf