Applying framingham risk score 2008 to predict the 10-year risk of cardiovascular disease in a group of office workers in Hanoi, Vietnam

Abstract: Cardiovascular disease is the leading cause of death in the world. Cardiovascular risk

assessment is an important step in preventing and treating the disease. The current study assesses

the 10-year risk of cardiovascular disease in 306 VNU’s office workers in 2016-2017 based on the

2008 Framingham Risk Score. The study results show that the average risk score was 4.05 ± 4.76%;

low risk was 90.52%; moderate risk: 7.85 %; and high to very high risk was 1.63%. Men have a

higher risk score than women (p <0.001). the="" ten-year="" cardiovascular="" risk="" score="" shows="" that="" age="">

systolic blood pressure correlated with the risk at a medium level, and cholesterol and HDL

correlated with it at a low level.

pdf 9 trang yennguyen 4580
Bạn đang xem tài liệu "Applying framingham risk score 2008 to predict the 10-year risk of cardiovascular disease in a group of office workers in Hanoi, Vietnam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Applying framingham risk score 2008 to predict the 10-year risk of cardiovascular disease in a group of office workers in Hanoi, Vietnam

Applying framingham risk score 2008 to predict the 10-year risk of cardiovascular disease in a group of office workers in Hanoi, Vietnam
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
128 
Original Article 
Applying Framingham Risk Score 2008 to Predict the 10-Year 
Risk of Cardiovascular Disease in a Group of Office Workers 
in Hanoi, Vietnam 
Do Thi Quynh, Vu Van Nga, Le Thi Hoa, Le Thi Diem Hong, Vu Thi Thom* 
VNU School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
 Received 02 May 2019 
Revised 07 May 2019; Accepted 21 June 2019 
Abstract: Cardiovascular disease is the leading cause of death in the world. Cardiovascular risk 
assessment is an important step in preventing and treating the disease. The current study assesses 
the 10-year risk of cardiovascular disease in 306 VNU’s office workers in 2016-2017 based on the 
2008 Framingham Risk Score. The study results show that the average risk score was 4.05 ± 4.76%; 
low risk was 90.52%; moderate risk: 7.85 %; and high to very high risk was 1.63%. Men have a 
higher risk score than women (p <0.001). The ten-year cardiovascular risk score shows that age and 
systolic blood pressure correlated with the risk at a medium level, and cholesterol and HDL 
correlated with it at a low level. 
Keywords: Framingham Risk Score 2008, 10-year cardiovascular risk score, hypertension, blood 
cholesterol, blood HDL. 
________ 
 Corresponding author. 
 Email address: thomtbk5@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4164 
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
129 
Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham 
dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm 
nhân viên văn phòng tại Hà Nội 
Đỗ Thị Quỳnh, Vũ Vân Nga, Lê Thị Hòa, Lê Thị Diễm Hồng, Vũ Thị Thơm* 
Khoa Y Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 02 tháng 5 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 07 tháng 5 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 21 tháng 6 năm 2019 
Tóm tắt: Bệnh tim mạch đang là nguyên nhân tử vong hàng đầu trên thế giới. Đánh giá nguy cơ tim 
mạch là một bước quan trọng trong dự phòng và điều trị bệnh. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đánh giá nguy cơ tim mạch 10 năm theo thang điểm Framingham 2008 trên 306 đối 
tượng cán bộ văn phòng người Việt Nam tại Hà Nội thu mẫu từ 2016-2017. Kết quả thu được: Điểm 
nguy cơ trung bình của các đối tượng là: 4,05 ± 4,76 % (thuộc mức nguy cơ thấp) trong đó tỷ lệ đối 
tượng mắc nguy cơ thấp là 90,52%, nguy cơ trung bình là 7,85%, nguy cơ cao và rất cao là 1,63 %. 
Nam giới có điểm nguy cơ cao hơn nữ giới (p<0,001). Trong các yếu tố nguy cơ tim mạch, nghiên 
cứu cho thấy yếu tố tuổi và huyết áp có tương quan trung bình, cholesterol và HDL có tương quan 
yếu với điểm nguy cơ tim mạch 10 năm. 
Từ khóa: Thang điểm Framingham 2008, điểm nguy cơ tim mạch 10 năm, tăng huyết áp, cholesterol 
máu, HDL máu. 
1. Đặt vấn đề 
Hiện nay, bệnh tim mạch (BTM) đang là 
nguyên nhân tử vong hàng đầu trên thế giới. 
Năm 2015, theo thống kê của Tổ chức y tế thế 
giới ước tính có khoảng 17,7 triệu người trên 
toàn cầu chết vì BTM, ¾ trong số đó thuộc các 
nước có mức thu nhập thấp và trung bình, tăng 
khoảng 5,1 triệu người chỉ trong vòng 25 năm [1, 
2]. Bệnh tim mạch không chỉ là nguyên nhân số 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: thomtbk5@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4164 
một gây tử vong mà còn để lại di chứng nặng nề 
ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của người 
bệnh, là gánh nặng cho gia đình và xã hội. 
Nghiên cứu của Gresham thấy rằng có tới 71% 
bệnh nhân giảm chức năng lao động, 62% giảm 
năng lực giao tiếp xã hội sau đột quỵ [3]. Các 
hướng dẫn dự phòng BTM của Mỹ và Châu Âu 
đưa ra khuyến cáo rằng đánh giá nguy cơ mắc 
bệnh là một bước quan trọng trong quản lý và 
giảm nguy cơ hình thành bệnh [4, 5]. Dựa vào 
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
130 
các yếu tố nguy cơ (YTNC) bệnh tim mạch đã 
được xác nhận trong nghiên cứu Framingham, 
các thang điểm dự đoán nguy cơ bệnh đã được 
xây dựng nhằm dự phòng và kiểm soát bệnh lý 
này [6]. Trong số các thang điểm này, thang 
điểm dự báo nguy cơ tim mạch 10 năm 
Framingham là thang điểm phổ biến trên thế giới 
và được ngoại kiểm bởi rất nhiều các nhà nghiên 
cứu độc lập, áp dụng trên các quần thể khác nhau 
như Châu Á, Âu, Úc [7-10]. Tại Việt Nam, nhiều 
nghiên cứu đã áp dụng thang điểm Framingham 
dự báo nguy cơ 10 năm cho bệnh mạch vành và 
chủ yếu trên nhóm đối tượng bệnh nhân đang 
điều trị hoặc đến khám vì tình trạng bệnh lý tại 
các cơ sở y tế. Hạn chế của các nghiên cứu này 
là chưa thể đánh giá được nguy cơ tim mạch 
chung của bệnh nhân hay xác định được nguy cơ 
tim mạch cho các đối tượng ở giai đoạn sớm [11-
14]. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Ứng dụng mô hình theo thang điểm 
Framingham dự đoán nguy cơ tim mạch 10 
năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà 
Nội” để cung cấp thông tin nguy cơ tim mạch 
chung trên nhóm đối tượng chưa mắc các bệnh 
lý tim mạch và có những đặc điểm đặc thù như 
lối sống tĩnh tại, chủ yếu lao động trí óc. Mục 
tiêu của nghiên cứu là đánh giá nguy cơ tim 
mạch 10 năm theo thang điểm Framingham, 
đồng thời tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố: 
tuổi, huyết áp tối đa, cholesterol, HDL với điểm 
nguy cơ tim mạch theo thang điểm trên. 
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu: Hồ sơ khám sức 
khỏe định kỳ (SKĐK) của nhân văn phòng thuộc 
một trường đại học tại Hà Nội trong năm 2016 - 
2017 tại phòng khám 182 Lương Thế Vinh – 
Bệnh viện Đại học Quốc gia Hà Nội 
Tiêu chuẩn lựa chọn: Các hồ sơ khám 
SKĐK có đầy đủ các thông tin cá nhân (cơ quan 
công tác, tuổi, giới, nghề nghiệp, tiền sử bản 
thân, gia đình liên quan đến BTM), kết quả khám 
lâm sàng (Chiều cao, cân nặng, chỉ số BMI, 
huyết áp), kết quả cận lâm sàng (Cholesterol 
toàn phần, HDL, LDL, Triglycerid). 
Tiêu chuẩn loại trừ: Các hồ sơ khám 
SKĐK thiếu một trong các dữ liệu về thông tin 
cá nhân, các kết quả khám lâm sàng và cận lâm 
sàng nêu trên. 
Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Thời gian 
thu thập hồ sơ được thực hiện từ tháng 10/2017 
đến tháng 12/2017 tại phòng khám 182 Lương 
Thế Vinh – Bệnh viện Đại học Quốc gia Hà Nội 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang. Chọn mẫu thuận tiện. Chúng tôi đã lựa 
chọn toàn bộ hồ sơ khám SKĐK có đầy đủ tiêu 
chuẩn vào nghiên cứu, tổng số là 306 hồ sơ được 
thu thập từ năm 2016 đến năm 2017. 
Phương pháp tính điểm nguy cơ tim mạch 10 
năm theo thang điểm Framingham: Sau khi thu 
thập các chỉ số: tuổi, giới, huyết áp tâm thu, 
cholestetol, HDL, tiền sử tiểu đường, hút thuốc 
lá. Nhập các chỉ số này vào bảng tính điện tử 
Framingham thu được điểm nguy cơ tim mạch 
10 năm của đối tượng. 
Điểm nguy cơ tim mạch 10 năm của đối 
tượng là a % có nghĩa là xác suất xảy ra biến cố 
tim mạch trong 10 năm của đối tượng này là a % 
. Bảng tính điện tử sử dụng được lấy từ trang web 
chính thức của nghiên cứu Framingham: 
https://www.framinghamheartstudy.org/. 
Một số tiêu chuẩn được sử dụng trong 
nghiên cứu: Tăng huyết áp theo JNC VII [15]. 
Rối loạn mỡ máu (RLMM) theo NCEP 2002 khi 
có 1 trong 4 chỉ số sau bất thường: Cholesterol ≥ 
6,2 mmol/L, triglycerid ≥ 2,26 mmol/L, HDL ≤ 
1,03 mmol/L, LDL ≥ 4,13 mmol/L [16]. Thừa 
cân theo WPRO khi BMI ≥ 23 kg/m2 [17]. 
Đạo đức nghiên cứu: Thông tin cá nhân của 
cán bộ tham gia KSK được bảo mật trong nghiên 
cứu này nhằm đảm bảo vấn đề y đức. Số liệu đã 
được Bệnh viện Đại học Quốc gia Hà Nội cho 
phép công bố dưới dạng bài báo. 
3. Kết quả và bàn luận 
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu được 
trình bày trong Bảng 1. Kết quả cho thấy độ tuổi 
trung bình của các đối tượng trong nghiên cứu 
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
131 
là: 41,57 ± 7,70 tuổi, trong đó 55,56% số đối 
tượng thuộc độ tuổi từ 30-39 và chỉ 1,63% đối 
tượng thuộc độ tuổi ≥ 60. Độ tuổi này thấp hơn 
so với các nghiên cứu tiến hành trên cộng đồng 
dân cư như nghiên cứu của Nguyễn Quang Ngọc 
ở 2 tỉnh Thái Bình và Hà Nội (nữ: 52,0 ± 14,30 
tuổi; nam: 53,70 ± 14,70 tuổi) và Trịnh Xuân 
Thắng ở 2 quận huyện Ba Vì và Đống Đa (51,9 
± 14,9 tuổi). Tuy nhiên khi so sánh với nghiên 
cứu của Nakhaie tại Iran tiến hành trên cùng đối 
tượng là nhân viên văn phòng, chúng tôi thấy có 
sự tương đồng (40,2 ± 8,4 tuổi) [18-20]. 
Các giá trị trung bình về chỉ số huyết áp, 
cholesterol máu, HDL đều trong giới hạn bình 
thường theo JNC VII, NCEP 2002, riêng BMI 
nằm trong giới hạn tiền thừa cân theo tiêu chuẩn 
WPRO. Đáng chú ý, ở tất cả các chỉ số ngoại trừ 
HDL, kết quả nghiên cứu của chúng tôi đều cho 
thấy ở nam giới đều cao hơn nữ giới, sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. 
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Các biến số 
Tổng 
𝐗 + SD 
Giới tính Xác suất 
P (nam-nữ) 
Nam 
𝐗 + SD 
Nữ 
𝐗 + SD 
Tuổi (năm) 41,57 ± 7,70 42,61 ± 8,72 40,38 ± 6,16 0,010 
BMI (kg/m2) 23,10 ± 2,43 24,33 ± 2,22 21,69 ± 1,83 0,000 
HATT (mmHg) 116,81 ± 15,69 123,59 ±15,09 109,09 ± 12,50 0,000 
HATTr (mmHg) 74,98 ± 10,57 79,97 ± 9,77 69,3 ± 8,36 0,000 
Cholesterol (mmol/L) 4,79 ± 0,84 5,06 ± 0,89 4,49 ± 0,67 0,000 
HDL (mmol/L) 1,46 ± 0,55 1,30 ± 0,47 1,65 ± 0,57 0,000 
Điểm Framingham (%) 4,05 ± 4,76 6,20 ± 5,60 1,60 ± 1,29 0,000 
3.2. Đánh giá nguy cơ tim mạch 10 năm theo 
thang điểm Framingham của các đối tượng 
Sau khi đã thu thập được các dữ liệu đầu vào, 
chúng tôi tính điểm nguy cơ tim mạch (ĐNCTM) 
10 năm theo thang điểm Framingham cho các 
đối tượng và phân chia theo 4 mức độ: thấp, 
trung bình, cao, rất cao. Kết quả được biểu diễn 
như biểu đồ 1: 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ nguy cơ tim mạch 10 năm theo 
thang điểm Framingham 2008. 
Bảng 1 cho thấy điểm Framingham trung 
bình của các đối tượng là: 4,05 ± 4,76%, thuộc 
mức nguy cơ thấp. Thêm vào đó, kết quả từ Biểu 
đồ 1 cho thấy điểm nguy cơ tim mạch 10 năm 
thuộc mức thấp, chiếm tới 90,52% và chỉ 7,85% 
thuộc mức trung bình, 1,63% thuộc mức cao và 
rất cao. Điểm nguy cơ thấp trong nghiên cứu của 
chúng tôi thể hiện nguy cơ mắc bệnh tim mạch 
của đối tượng nhân viên văn phòng trong nghiên 
cứu này có xu hướng tích cực hơn so với nghiên 
cứu tại cộng đồng của Nguyễn Quang Ngọc 2008 
khi số đối tượng có điểm nguy cơ thuộc mức thấp 
chỉ chiếm 69,1% [18]. Điều này có thể lý giải do 
đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là cán 
bộ nhân viên, có độ tuổi trẻ hơn: 41,57 ± 7,70 
tuổi, cỡ mẫu nhỏ hơn (n=306 đối tượng) trong 
khi đó nghiên cứu của Nguyễn Quang Ngọc tiến 
hành trên đối tượng cộng đồng, độ tuổi trung 
bình là: nữ: 52,0 ± 14,30 tuổi; nam: 53,70 ± 
14,70 tuổi và cỡ mẫu lớn (n=2130). Nghiên cứu 
tại 2 quận huyện Đống Đa và Ba Vì của tác giả 
Trịnh Xuân Thắng năm 2012 cũng cho kết quả 
với phần lớn đối tượng có mức nguy cơ thấp 
90,52%
7,85% 1,10%
0,53% Thấp
Trung bình
Cao
Rất cao
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
132 
(Đống Đa: 74,2%, Ba Vì: 85,7%), tuy nhiên kết 
quả này vẫn thấp hơn so với kết quả trong nghiên 
cứu của chúng tôi [20]. Nghiên cứu của Nakhaie 
tại Iran (2018), trên cùng đối tượng là nhân viên 
văn phòng cho kết quả tương đồng với nghiên 
cứu của chúng tôi với tỷ lệ 90,5% có nguy cơ 
thấp [19]. Sự tích cực trong kết quả thu được thể 
hiện rõ hơn khi so sánh với các nghiên cứu áp 
dụng trên đối tượng đang có tình trạng bệnh lý. 
Nghiên cứu của Trần Kim Trang (2012) áp dụng 
cùng thang điểm nguy cơ trên đối tượng nữ giới 
mắc THA chỉ 38,4% đối tượng có nguy cơ thấp 
và có tới 61,6% có mức nguy cơ trung bình và 
cao [11]. Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Liên và 
cs (2014) trên đối tượng bệnh nhân vẩy nến cũng 
cho thấy nguy cơ tim mạch cao hơn nghiên cứu 
của chúng tôi với chỉ 60% đối tượng có mức 
nguy cơ thấp [21]. Không những thế, theo nghiên 
cứu tại Ấn Độ năm 2010, chỉ ra rằng, những đối 
tượng có trình độ văn hóa cao hơn thì nguy cơ 
tim mạch thấp hơn [22]. Có thể do những đối 
tượng có trình độ văn hóa cao hơn thì sự hiểu biết 
các kiến thức về sức khỏe và điều kiện tiếp cận 
các dịch vụ y tế sớm và tốt hơn. Điều này có thể 
lý giải một phần nào lý do vì sao các đối tượng 
trong nghiên cứu của chúng tôi phần lớn có nguy 
cơ tim mạch thấp. 
3.3. Đánh giá mối liên quan giữa điểm 
Framingham với các yếu tố nguy cơ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ĐNCTM của 
các đối tượng tăng dần theo tuổi (Biểu đồ 2). 
Biều đồ 2. Điểm Framingham phân bố theo tuổi và giới. 
Ở độ tuổi 30-40, điểm nguy cơ chung của 2 
giới là 1,97%, giá trị này tăng lên xấp xỉ gấp 9 
lần ở độ tuổi 60-70. Đặc biệt chúng tôi cũng quan 
sát thấy sự khác biệt có ý nghĩa khi so sánh 
ĐNCTM ở 2 giới nam và nữ trong cùng độ tuổi. 
Điểm nguy cơ tim mạch trung bình ở nam giới 
cao hơn nữ giới với p<0,001 (nam: 6,20%, nữ: 
1,60%). Kết quả tương đồng với nghiên cứu 
cộng đồng của Nguyễn Quang Ngọc 2008 (nam: 
14,6%, nữ: 5,8%), hay Trịnh Xuân Thắng (Đống 
Đa nam: 16,42%, nữ: 11,86%; Ba Vì nam: 14,15, 
nữ: 9,02%) [18, 20]. Xu hướng trên cũng thể hiện 
trong nghiên cứu áp dụng trên quần thể người 
Nam Á (nam: 11,7; nữ: 5,2) [23]. Đặc biệt chúng 
tôi quan sát thấy rằng điểm nguy cơ tim mạch ở 
nữ giới trong độ tuổi từ 60-70 tăng nhanh so với 
độ tuổi từ 50-60 (từ 2,91% lên 12,40%). Điều 
này có thể lý giải do đây là độ tuổi mãn kinh của 
phụ nữ, vai trò bảo vệ của estrogen giảm sút dẫn 
đến sự tác động mạnh mẽ hơn của các YTNC tim 
mạch [24]. Để làm rõ mối liên quan giữa điểm 
nguy cơ tim mạch và tuổi, chúng tôi tiến hành 
xây dựng hàm tương quan tuyến tính giữa 2 biến 
này và thu được kết quả hiển thị trong biểu đồ 3 
dưới đây: 
Biều đồ 3. Hàm tương quan tuyến tính giữa tuổi và 
điểm Framingham. 
Điểm NCTM 10 năm và tuổi có hàm tương 
quan tuyến tính thuận y = 0,42.x - 13,61 với hệ 
số tương quan r = 0,687. Kết quả này có ý nghĩa 
thống kê và đạt mức độ tương quan trung bình (p 
<0,001). Xu hướng trên có điểm tương đồng với 
thống kê tại Hoa Kỳ với 70% số ca đột quỵ xảy 
ra ở độ tuổi ≥ 65 và nguy cơ đột quỵ tăng gấp đôi 
sau mỗi 10 năm kể từ sau độ tuổi 45 [25]. 
0
10
20
30
30-40 40-50 50-60 60-70
Đ
iể
m
 n
g
u
y
 c
ơ
ti
m
 m
ạ
ch
 1
0
 n
ă
m
Tuổi
Nữ Nam Chung
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
133 
Có thể thấy rằng, thang điểm Framingham 
khi áp dụng trên đối tượng trong nghiên cứu của 
chúng tôi đã đánh giá hoàn toàn phù hợp với xu 
hướng chung của thế giới. 
Biều đồ 4. Điểm Framingham phân bố theo tình 
trạng cholesterol, HDL máu. 
Trong các chỉ số mỡ máu, cholesterol và 
HDL được đưa vào hầu hết các mô hình dự báo 
nguy cơ tim mạch trên thế giới, trong đó có mô 
hình Framingham 2008. Khi so sánh ĐNCTM 
của các đối tượng ở các phân mức cholesterol, 
HDL, chúng tôi thấy rằng, điểm NCTM tăng lên 
rõ rệt khi cholesterol máu tăng (Biểu đồ 4). Cụ 
thể, ĐNCTM của nhóm cholesterol máu bình 
thường là 3,35%, con số này tăng lên gấp xấp xỉ 
1,6 lần ở nhóm tiền tăng và gấp 2 lần ở nhóm 
tăng cao. Đối với HDL thì khi HDL tăng thì 
ĐNCTM giảm. Sự khác biệt giữa các nhóm có ý 
nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả nghiên cứu 
này tương đồng với nhiều nghiên cứu trên thế 
giới. Nghiên cứu tiến cứu kéo dài 24 năm của 
Sugimana D báo cáo rằng nguy cơ tim mạch ở 
nhóm có nồng độ cholesterol > 5,69 mmol/L cao 
gấp 1,55 lần so với nhóm còn lại, khi nồng độ 
cholesterol tăng trên 6,2 mmol/L, nguy cơ tim 
mạch tăng lên 1,79 lần [26]. Đặc biệt trong một 
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng của Law M.R 
và cs. thấy rằng, trên đối tượng 40 tuổi, giảm 0,6 
mmol/L cholesterol máu giúp giảm 50% nguy cơ 
mắc bệnh thiếu máu cơ tim [27]. Mối liên hệ giữa 
cholesterol, HDL với ĐNCTM 10 năm theo 
Framingham 2008 còn được thể hiện rõ hơn khi 
chúng tôi xây dựng hàm tương quan tuyến tính 
giữa cholesterol, HDL với điểm NCTM. Kết quả 
thu được cho thấy cholesterol và điểm NCTM 
tương quan tuyến tính thuận theo hàm số y = 
1,51x - 2,9, hệ số tương quan r = 0,257. Trong 
khi đó, HDL có mối tương quan nghịch với 
ĐNCTM theo hàm số y = -2,59 x + 7,84 với hệ 
số tương quan r = - 0,297 (p<0,001). Mặc dù mức 
độ tương quan đạt ý nghĩa thông kê, tuy nhiên hệ 
số tương quan thấp. Hiện nay, tỷ lệ người mắc 
RLMM là khá cao. Năm 2014, tại Ấn Độ tỷ lệ 
người mắc rối loạn mỡ máu lên tới 79%, trong 
khi tỷ lệ này ở Iran là 51,8%, Thái Lan là 66,5% 
[28-30]. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của 
Nguyễn Quang Ngọc và cs. năm 2008, có tới 
62,8 % nam giới, 52,4 % nữ giới mắc RLMM 
[18]. Nghiên cứu của Trịnh Xuân Thắng năm 
2013 tại 2 quận huyện của Hà Nội cho kết quả tỷ 
lệ mắc RLMM là 49,5% [20]. Trong khi đó, hậu 
quả của RLMM là rõ ràng như trong nghiên cứu 
tiến cứu tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương 
đã cho thấy tăng 1mmol/L cholesterol toàn phần 
làm tăng 42% nguy cơ mắc bệnh mạch vành và 
31% nguy cơ nhồi máu não [31]. Tuy nhiên tác 
động của RLMM lại diễn ra âm thầm, triệu 
chứng không cấp tính và ít đặc hiệu, nên việc 
phát hiện và điều trị sớm là khó khăn, nhất là 
những cơ sở không có xét nghiệm máu. Chính vì 
thế việc phòng bệnh phải được chú trọng và tiến 
hành càng sớm càng tốt. 
Biểu đồ 5. Điểm Framingham phân bố theo tình 
trạng huyết áp. 
Tăng huyết áp là bệnh tim mạch, đồng thời 
là yếu tố quan trọng thúc đẩy hình thành các 
BTM khác như đột quỵ, suy tim, bệnh mạch 
vành. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm 
THA độ 2, điểm NCTM cao gấp 6 lần so với 
nhóm có huyết áp bình thường, gấp gần 1,5 lần 
0
5
10
15
20
Bình thườngTiền THA THA Độ 1 THA Độ 2
Đ
iể
m
 n
g
u
y
 c
ơ
ti
m
 m
ạ
ch
 1
0
 n
ă
m
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
134 
so với nhóm THA độ 1, gấp xấp xỉ 3 lần so với 
nhóm tiền THA (Biểu đồ 5). Xu hướng trên được 
xác nhận trong khá nhiều nghiên cứu trên thế 
giới. Theo phân tích tổng hợp của Lewington từ 
61 nghiên cứu khác nhau thấy rằng, ở độ tuổi 40-
69, mỗi khi tăng huyết áp tâm thu lên 20mmHg 
hoặc huyết áp tâm trương lên 10mmHg thì nguy 
cơ tử vong vì đột quỵ, thiếu máu cơ tim tăng lên 
gấp đôi [32]. 
Biều đồ 6. Hàm tương quan tuyến tính giữa HA tối 
đa và điểm Framingham. 
Hiện nay ở Việt Nam, tỷ lệ mắc THA đã gia 
tăng đáng kể. Năm 1960, tỷ lệ THA ở người 
trưởng thành tại miền bắc Việt nam là 1%. 30 
năm sau (1992) tỷ lệ này tăng lên hơn 11 lần 
(11,2%). Đến năm 2008, tỷ lệ THA ở người độ 
tuổi 25-64 là 25,1%. Trong báo cáo gần đây tại 
Hội nghị THA toàn quốc lần 2, gần 48% dân số 
trưởng thành ở nước ta mắc THA [33, 34]. 
Kết quả trên được củng cố vững chắc hơn khi 
chúng tôi phân tính hàm tương quan tuyến tính 
giữa điểm nguy cơ tim mạch 10 năm và huyết áp 
tối đa của các đối tượng. Như biểu đồ 6 thể hiện, 
HA tối đa và điểm Framingham có hàm tương 
quan thuận theo hàm số: y = 0,17x - 16,04 với hệ 
số tương quan trung bình r = 0,567 (p<0,001). 
Tác động phối hợp các yếu tố nguy cơ tim 
mạch lên ĐNCTM theo thang điểm Framingham 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi số 
YTNC mà đối tượng mắc phải tăng lên thì điểm 
NCTM cũng tăng lên. Đối tượng mắc cả 3 
YTNC: RLMM, THA, Béo phì có điểm nguy cơ 
là 10,34 %, cao gấp 5 lần so với nhóm không mắc 
YTNC nào (ĐNCTM: 2,14%) (Biểu đồ 7). 
Biểu đồ 7. Điểm Framingham phân bố theo số 
YTNC mà đối tượng mắc phải. 
Xu hướng trên gặp trong nghiên cứu mô hình 
YTNC của Nguyễn Quang Ngọc tại 2 tỉnh của 
Việt Nam, theo đó, ở nữ giới, đối tượng mắc từ 
6 YTNC trở lên có điểm nguy cơ cao gấp xấp xỉ 
7 lần đối tượng chỉ mắc 1 YTNC, tương tự với 
nam giới là xấp xỉ 3 lần [18]. Theo nghiên cứu 
EPOCH-JAPAN, đối tượng có HA tâm thu ≥ 160 
mmHg và cholesterol ≥ 5,69 mmol/L nguy cơ tử 
vong do BTM tăng lên 4,4 lần so với nhóm có 
HA< 120 mmHg và cholesterol < 14,71 mmol/L, 
trong khi nếu chỉ có cholesterol > 5,69 mmol/L, 
nguy cơ tử vong chỉ tăng 1,55 lần [35]. Chính vì 
sự kết nối của các YTNC mà vai trò của việc 
đánh giá tổng quát đối tượng, xác định được 
nguy cơ tim mạch chung là hết sức quan trọng. 
Áp dụng thang điểm đánh giá nguy cơ tim 
mạch cho từng đối tượng với các chỉ số quan 
trọng như tuổi, giới, HA, cholesterol, HDL là 
thực sự cần thiết. 
Kết luận 
Điểm nguy cơ tim mạch trung bình của các đối 
tượng nghiên cứu là 4,05 ± 4,76, thuộc mức thấp. 
Trong đó, tỷ lệ đối tượng có điểm nguy cơ tim 
mạch thuộc mức thấp, mức trung bình, mức cao và 
rất cao lần lượt là 90,52 %, 7,85% và 1,63 %. 
Các yếu tố nguy cơ như tuổi và huyết áp có 
mối tương quan trung bình; cholesterol và HDL 
có mối tương quan yếu với điểm nguy cơ tim 
mạch 10 năm tính theo thang điểm Framingham 
0
5
10
15
20
0 YTNC 1 YTNC 2 YTNC 3 YTNC
Đ
iể
m
 n
g
u
y
 c
ơ
 t
im
m
ạ
ch
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
135 
2008. Trong đó, huyết áp tâm thu và tuổi là 2 yếu 
tố có hệ số tương quan cao nhất. 
Lời cảm ơn 
Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự tài trợ của 
Đại học Quốc gia Hà Nội cho đề tài “Nghiên cứu 
một số yếu tố liên quan đến bệnh tim mạch của 
cán bộ Đại học Quốc gia Hà Nội” - mã số 
CS.17.04, cùng với các cán bộ môn YDHCS, 
Khoa Y Dược, ĐHQGHN đã tạo điều kiện cho 
nghiên cứu này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Cardiovasculardiseases, 
/cardiovascular diseases-(cvds), (truy cập ngày 
22/03/2019). 
[2] A.R. Gregory et al, Global, regional, and national 
burden of cardiovascular diseases for 10 Causes, 
1990 to 2015, Journal of the American college of 
cardiology. 70(1) (2017) 1–25. 
[3] E. Gresham, T.E. Fitzpatrick, P.A. Wolf et al, 
Residual disability in survivors of stroke--the 
Framingham study, N Engl J Med. 293(19) (1975) 
954–956. 
[4] T.A. Pearson, S.N. Blair, S.R. Danielset et al, AHA 
guidelines for primary prevention of 
cardiovascular disease and stroke: 2002 update: 
consensus panel guide to comprehensive risk 
reduction for adult patients without coronary or 
other atherosclerotic vascular diseases, American 
heart association science advisory and coordinating 
committee, Circulation. 106(3) (2002) 388–391. 
[5] I. Graham, D. Atar, K. B. Johnsen et al, European 
guidelines on cardiovascular disease prevention in 
clinical practice: full text - Fourth joint task force 
of the European society of cardiology and other 
societies on cardiovascular disease prevention in 
clinical practice constituted by representatives of 
nine societies and by invited experts, Euro heart J. 
28(19) (2007) 2375-2414. 
[6] S.S. Mahmood, D. Levy, R.S. Vasanet et al, The 
Framingham heart study and the epidemiology of 
cardiovascular diseases: a historical perspective, 
Lancet. 383(9921) (2014) 999–1008. 
[7] J.A.A.G. Damen, L. Hooft, E. Schuit et al, 
Prediction models for cardiovascular disease risk in 
the general population: systematic review, BMJ. 
353(2016) 1-10. 
[8] L.Q.H. Goh, T.A. Welborn, S.S. Dhaliwal, 
Independent external validation of cardiovascular 
disease mortality in women utilising Framingham 
and SCORE risk models: a mortality follow-up 
study, BMC women health. 14 (2014) 118-129. 
[9] L.M. A. Rodenas, J.A. C. Herencia, J.A. D. Garrote et 
al, Framingham risk score for prediction of 
cardiovascular diseases: a population-based study 
from southern Europe, PLoS One. 8(9) (2013) 1-10. 
[10] G.M. Park, Y.H. Kim, Model for predicting 
cardiovascular disease: insights from a Korean 
cardiovascular risk model, Pulse (Basel). 3(2) 
(2015) 153–157. 
[11] Trần Kim Trang, Nguy cơ 10 năm của bệnh tim 
mạch ở nữ giới tăng huyết áp, Y học thành phố Hồ 
Chí Minh. 16(1) (2012) 181-185. 
[12] Trương Thanh Sơn, Nguyễn Văn Trí, Trương 
Quang Bình, Nghiên cứu áp dụng thang điểm 
Framingham nhằm định nguy cơ bệnh động mạch 
vành trong 10 năm tới tại bệnh viện đa khóa Bình 
Dương, Y học thành phố Hồ Chí Minh. 15(1) 
(2011) 207-212. 
[13] Nguyễn Thị Kim Thủy, Dự báo nguy cơ mắc bệnh 
động mạch vành trong 10 năm theo thang điểm 
Frammingham ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên 
phát, Y học thực hành. 802(1) (2012) 27-29. 
[14] Nguyễn Hồng Huệ, Nguyễn Đức Công, Nghiên 
cứu ước tính nguy cơ bệnh động mạch vành trong 
10 năm tới theo thang điểm Framingham qua 500 
trường hợp, Y học thành phố Hồ Chí Minh. 15(2) 
(2011) 38-44. 
[15] C.V. Aram et al, The seventh report of the joint 
national committee on prevention, detection, 
evaluation, and treatment of high blood 
pressure, National heart, lung and blood institute - 
National institutes of health, NIH publication no. 
04-5230, US, (2014), pp 13. 
[16] National Heart, Lung and Blood Institute, Third 
Report of the national cholesterol education program 
(NCEP) expert panel on detection, evaluation, and 
treatment of high blood cholesterol in adults (Adult 
treatment panel III) Final report, National institutes of 
health, part II, US, (2002), pp 5-10. 
[17] World Health Organization, The Asia-Pacific 
perspective: redefining obesity and its 
treatment, Geneva: World health organization 
western pacific regional office, (2000), 18-19. 
[18] N.Q. Nguyen, S.T. Pham, L.D. Do et al, 
Cardiovascular disease risk factor patterns and their 
implications for intervention strategies in Vietnam, Int 
J Hypertens, ID. 560397, (2012), 1-11. 
[19] M. Nakhaie, B. Koor, S. Salehiet al, Prediction of 
cardiovascular disease risk using framingham risk 
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
136 
score among office workers, Iran, 2017, Saudi 
journal of kidney diseases and transplantation. 
29(3) (2018) 608-614. 
[20] Trịnh Xuân Thắng, Nghiên cứu các yếu tố nguy 
cơ bệnh tim mạch ở người >25 tuổi tại 2 quận 
huyện Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Đại học Y Hà 
Nội, (2013). 
[21] Nguyễn Hoàng Liên, Văn Thế Trung, Xác định 
nguy cơ tim mạch theo thang điểm Framingham 
trên bệnh nhân vẩy nến tại bệnh viện da liễu TP. 
Hồ Chí Minh, Y Học TP. Hồ Chí Minh, 18(1), 
(2014), 79-85. 
[22] R. Gupta, V. Kaul, A. Agrawalet et al, Cardiovascular 
risk according to educational status in India, 
Preventive medicine. 51(5) (2010) 408–411. 
[23] C.A. Jones, L. Ross, N. Suraniet al, Framingham 
ten-year general cardiovascular disease risk: 
agreement between BMI-based and cholesterol-
based estimates in a South Asian convenience 
sample, PLOS ONE. 10(3) (2015) e0119183. 
[24] K.S. Tyrrell, H.C. Lassila, E. Meilahn et al, Carotid 
atherosclerosis in premenopausal and 
postmenopausal women and its association with 
risk factors measured after menopause, Stroke. 
29(6) (1998) 1116–1121. 
[25] Margaret Kelly Hayes et al, Influence of age and 
health behaviors on stroke risk: lessons from 
longitudinal studies, J Am Geriatr Soc. 58(2) 
(2010) 325–328. 
[26] D. Sugiyama, T. Okamura, M. Watanabe et al, Risk 
of hypercholesterolemia for cardiovascular disease 
and the population attributable fraction in a 24-year 
Japanese cohort study, J Atheroscler Thromb. 
22(1) (2015) 95–107. 
[27] M.R. Law, N.J. Wald, S.G. Thompson, By how 
much and how quickly does reduction in serum 
cholesterol concentration lower risk of ischaemic 
heart disease, BMJ. 308(6925) (1994) 367–372. 
[28] Abolfazl Mohammadbeigi et al, Dyslipidemia 
prevalence in Iranian adult men: the impact of 
population-based screening on the detection of 
undiagnosed patients, World J men health. 33(3) 
(2015) 167-173. 
[29] R.S. Joshi et al, Prevalence of dyslipidemia in 
urban and rural India: The ICMR–INDIAB Study, 
PloS ONE. 9(5) (2014) 1-9. 
[30] Wichai Aekplakorn et al, Prevalence of 
dyslipidemia and management in the Thai 
population: national health examination survey IV, 
2009, Journal of lipids. (2014) 1-13. 
[31] Asia Pacific, Cohort Studies Collaboration, 
cholesterol, diabetes and major cardiovascular 
diseases in the Asia-pacific region, Diabetologia. 
50(11) (2003) 2289-2297. 
[32] S. Lewington, R. Clarke, N. Qizilbash, R. Peto, R. 
Collins et al, Age-specific relevance of usual blood 
pressure to vascular mortality: a meta-analysis of 
individual data for one million adults in 61 
prospective studies, Lancet. 360(9349) (2002) 
1903–1913. 
[33] Viet Nam national STEPS Survey 2015, 
https://www.who.int/ncds/un-task-force/steps-
survey-vietnam2015.pdf, (2015), (truy cập ngày 
09/03/2019). 
[34] Nguyễn Lân Việt, Kết quả mới nhất điều tra tăng 
huyết áp toàn quốc năm 2015 – 2016, Hội tim mạch 
Việt Nam, 
nthuii_d3378.aspx, (2016) (truy cập ngày 
11/02/2019). 
[35] M. Satoh, et al, Combined effect of blood pressure and 
total cholesterol levels on long-term risks of subtypes 
of cardiovascular death: evidence for cardiovascular 
prevention from observational cohorts in Japan, 
hypertension. 65(3) (2015) 517–524.

File đính kèm:

  • pdfapplying_framingham_risk_score_2008_to_predict_the_10_year_r.pdf