Bài giảng Kế toán quản trị (Mới)

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ

1.1. Khái niệm và bản chất của kế toán quản trị trong doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm kế toán quản trị

Trước khi nghiên cứu khái niệm kế toán quản trị, cần phải tìm hiểu về

khái niệm kế toán nói chung.Theo quan điểm nêu trong luật kế toán, kế toán là

việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế - tài chính dưới

hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.

Kế toán từ khi ra đời đã trở thành công cụ hữu dụng để cung cấp các

thông tin kinh tế tài chính về doanh nghiệp cho các đối tượng trong và ngoài

doanh nghiệp ra quyết định kinh tế. Dần dần cùng với sự phát triển của khoa

học quản lý nói chung, khoa học kế toán cũng có những bước phát triển mạnh

mẽ, đặc biệt từ năm 1957 trở lại đây, nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển

trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu, áp dụng và sử dụng những thông tin kế toán

phục vụ cho yêu cầu quản lý. Sự phát triển mạnh cả về quy mô lẫn phạm vi

hoạt động của các doanh nghiệp đặt ra yêu cầu ngày càng cao với các thông

tin kế toán cung cấp. Các thông tin kinh tế tài chính mà hệ thống kế toán trong

doanh nghiệp cung cấp cần phải được chuyên môn hóa theo các mục tiêu khác

nhau, cho các đối tượng khác nhau. Xét theo chức năng cung cấp thông tin, kế

toán trong một đơn vị kinh doanh được chia thành kế toán tài chính và kế toán

quản trị.

Kế toán quản trị là một bộ phận của kế toán doanh nghiệp, ra đời nhằm

mục đích phục vụ cho các nhà quản trị ra quyết định kinh tế. Các nhà quản trị

mà chúng ta đề cập đến chính là những đối tượng bên trong doanh nghiệp/ tổ

chức, trực tiếp quản lý và điều hành doanh nghiệp/ tổ chức. Các nhà quản trị

có thể là nhà quản trị cấp cao như hội đồng quản trị, giám đốc điều hành, hoặc

có thể ở những cấp quản lý thấp hơn như trưởng phòng kinh doanh, trưởng

phòng marketing, quản lý phân xưởng sản xuất, tổ trưởng các tổ sản xuất

Kế toán tài chính với chức năng công khai các thông tin tài chính của

doanh nghiệp đã được chuẩn hóa theo các quy định của Bộ tài chính cho các

đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như: cơ quan thuế, nhà đầu tư, chủ nợ, cổ

đông Kế toán tài chính cung cấp thông tin tài chính cho các đối tượng bên

ngoài giúp họ đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời gian đã

qua trong khi kế toán quản trị cung cấp thông tin kinh tế tài chính cho những

nhà quản lý bên trong với mục đích điều hành doanh nghiệp.

Khoản 3 Điều 4 Luật Kế toán quy định: “Kế toán quản trị là việc thu

thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu

quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”.

1.1.2. Bản chất của kế toán quản trị trong doanh nghiệp

Sự phát triển kinh tế xã hội dẫn đến hình thành những nhận thức khác

nhau về kế toán quản trị. Tuy nhiên về cơ bản, kế toán quản trị là một quy

trình định dạng, thu thập, kiểm tra, định lượng để trình bày, giải thích và cung

cấp thông tin kinh tế tài chính về hoạt động của doanh nghiệp cho những nhà

quản trị thực hiện toàn diện các chức năng quản trị. Nói một cách ngắn gọn,

kế toán quản trị quan tâm đến việc cung cấp thông tin cho các nhà quản trị. Đó

là những người bên trong tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động của tổ chức2

đó. Kế toán quản trị cung cấp những số liệu cần thiết cho hoạt động của tổ

chức.

Cụ thể, kế toán quản trị có bản chất như sau:

- Kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành của kế toán nói chung trong

các tổ chức kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh.

- Thông tin kế toán quản trị chủ yếu cung cấp cho các nhà quản trị

doanh nghiệp đưa ra các quyết định điều hành các hoạt động kinh doanh. Các

cấp quản trị từ tổ trưởng sản xuất, quản đốc phân xưởng, trưởng các phòng

ban đến Ban giám đốc và hội đồng quản trị doanh nghiệp;

- Thông tin kế toán quản trị thường cụ thể và mang tính chất định lượng

nhiều vì gắn với các hoạt động kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp;

- Thông tin kế toán quản trị đuược cụ thể hóa thành các chức năng cơ

bản của các nhà quản trị như xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, phân tích

đánh giá và ra quyết định.

pdf 96 trang yennguyen 8060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kế toán quản trị (Mới)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Kế toán quản trị (Mới)

Bài giảng Kế toán quản trị (Mới)
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN 
KHOA KINH TẾ 
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG 
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ 
 (Tài liệu lưu hành nội bộ) 
Hưng Yên 
 1 
Chƣơng 1 
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ 
1.1. Khái niệm và bản chất của kế toán quản trị trong doanh nghiệp 
1.1.1. Khái niệm kế toán quản trị 
Trước khi nghiên cứu khái niệm kế toán quản trị, cần phải tìm hiểu về 
khái niệm kế toán nói chung.Theo quan điểm nêu trong luật kế toán, kế toán là 
việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế - tài chính dưới 
hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động. 
Kế toán từ khi ra đời đã trở thành công cụ hữu dụng để cung cấp các 
thông tin kinh tế tài chính về doanh nghiệp cho các đối tượng trong và ngoài 
doanh nghiệp ra quyết định kinh tế. Dần dần cùng với sự phát triển của khoa 
học quản lý nói chung, khoa học kế toán cũng có những bước phát triển mạnh 
mẽ, đặc biệt từ năm 1957 trở lại đây, nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển 
trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu, áp dụng và sử dụng những thông tin kế toán 
phục vụ cho yêu cầu quản lý. Sự phát triển mạnh cả về quy mô lẫn phạm vi 
hoạt động của các doanh nghiệp đặt ra yêu cầu ngày càng cao với các thông 
tin kế toán cung cấp. Các thông tin kinh tế tài chính mà hệ thống kế toán trong 
doanh nghiệp cung cấp cần phải được chuyên môn hóa theo các mục tiêu khác 
nhau, cho các đối tượng khác nhau. Xét theo chức năng cung cấp thông tin, kế 
toán trong một đơn vị kinh doanh được chia thành kế toán tài chính và kế toán 
quản trị. 
Kế toán quản trị là một bộ phận của kế toán doanh nghiệp, ra đời nhằm 
mục đích phục vụ cho các nhà quản trị ra quyết định kinh tế. Các nhà quản trị 
mà chúng ta đề cập đến chính là những đối tượng bên trong doanh nghiệp/ tổ 
chức, trực tiếp quản lý và điều hành doanh nghiệp/ tổ chức. Các nhà quản trị 
có thể là nhà quản trị cấp cao như hội đồng quản trị, giám đốc điều hành, hoặc 
có thể ở những cấp quản lý thấp hơn như trưởng phòng kinh doanh, trưởng 
phòng marketing, quản lý phân xưởng sản xuất, tổ trưởng các tổ sản xuất 
Kế toán tài chính với chức năng công khai các thông tin tài chính của 
doanh nghiệp đã được chuẩn hóa theo các quy định của Bộ tài chính cho các 
đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như: cơ quan thuế, nhà đầu tư, chủ nợ, cổ 
đông Kế toán tài chính cung cấp thông tin tài chính cho các đối tượng bên 
ngoài giúp họ đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời gian đã 
qua trong khi kế toán quản trị cung cấp thông tin kinh tế tài chính cho những 
nhà quản lý bên trong với mục đích điều hành doanh nghiệp. 
Khoản 3 Điều 4 Luật Kế toán quy định: “Kế toán quản trị là việc thu 
thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu 
quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”. 
1.1.2. Bản chất của kế toán quản trị trong doanh nghiệp 
Sự phát triển kinh tế xã hội dẫn đến hình thành những nhận thức khác 
nhau về kế toán quản trị. Tuy nhiên về cơ bản, kế toán quản trị là một quy 
trình định dạng, thu thập, kiểm tra, định lượng để trình bày, giải thích và cung 
cấp thông tin kinh tế tài chính về hoạt động của doanh nghiệp cho những nhà 
quản trị thực hiện toàn diện các chức năng quản trị. Nói một cách ngắn gọn, 
kế toán quản trị quan tâm đến việc cung cấp thông tin cho các nhà quản trị. Đó 
là những người bên trong tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động của tổ chức 
 2 
đó. Kế toán quản trị cung cấp những số liệu cần thiết cho hoạt động của tổ 
chức. 
Cụ thể, kế toán quản trị có bản chất như sau: 
- Kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành của kế toán nói chung trong 
các tổ chức kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh. 
- Thông tin kế toán quản trị chủ yếu cung cấp cho các nhà quản trị 
doanh nghiệp đưa ra các quyết định điều hành các hoạt động kinh doanh. Các 
cấp quản trị từ tổ trưởng sản xuất, quản đốc phân xưởng, trưởng các phòng 
ban đến Ban giám đốc và hội đồng quản trị doanh nghiệp; 
- Thông tin kế toán quản trị thường cụ thể và mang tính chất định lượng 
nhiều vì gắn với các hoạt động kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp; 
- Thông tin kế toán quản trị đuược cụ thể hóa thành các chức năng cơ 
bản của các nhà quản trị như xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, phân tích 
đánh giá và ra quyết định. 
1.2. Chức năng thông tin kế toán quản trị trong doanh nghiệp 
Thông tin kế toán quản trị có vai trò chủ đạo và chi phối toàn bộ hoạt 
động kinh doanh của các tổ chức hoạt động. Đó là cơ sở quan trọng để đưa ra 
các quyết định ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển 
bền vững của nền kinh tế thị trường. 
Muốn tìm hiểu chức năng của thông tin kế toán quản trị ta phải tìm hiểu 
về chức năng cơ bản mà nhà quản trị đảm nhận: 
- Kế hoạch 
- Tổ chức các hoạt động 
- Kiểm tra và đánh giá các kết quả thực hiện 
- Ra quyết định 
Tương ứng với từng công việc mà kế toán quản trị phải cung cấp thông 
tin phù hợp cho các nhà quản trị. 
- Trước hết kế toán quản trị phải thiết lập một hệ thống các chỉ tiêu, 
mở tài khoản, sổ sách để ghi chép một cách có hệ thống các hoạt 
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xây dựng hệ 
thống chỉ tiêu, mở tài khoản phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng 
thông tin và đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh thì các 
thông tin đó mới có hiệu quả về mọi mặt. Ví dụ phân loại nguyên 
vật liệu theo sản p hẩm sản xuất để ghi chép chi tiết hóa công nợ 
theo thời gian, theo đối tượng, khi đó ta phản ánh chính xác chi phí 
theo sản phẩm, biện pháp thu hồi công nợ phù hợp 
- Phản ánh các thông tin kế toán thực hiện vào các tài khoản, các sổ 
sách đã thiết kế theo nhu cầu các cấp quản trị; 
- Từ các thông tin trên, kế toán quản trị tiến hành tính toán các chi 
phí theo yêu cầu quản trị nội bộ và tổng hợp thành các báo cáo của 
các cấp quản trị khác nhau; 
- Kế toán quản trị tiến hành kiểm tra các thông tin trên các báo cáo, 
phân tích, đánh giá hiệu quả của các hoạt động và trợ giúp các nhà 
quản lý đưa ra quyết định kinh doanh phù hợp. 
Ta có thể khái quát chức năng quản trị và vai trò thông tin kế toán quản 
trị qua sơ đồ sau: 
 3 
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa thông tin kế toán quản trị với chức năng 
quản trị doanh nghiệp 
1.3. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu của kế toán quản trị 
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu của kế toán quản trị 
Kế toán quản trị là một phân hệ của kế toán, vì vậy cũng có đối tượng 
nghiên cứu chung là tài sản, nguồn vốn và sự vận động của vốn kinh doanh. 
Bên cạnh đó, kế toán quản trị còn nghiên cứu những đối tượng đặc thù 
và cụ thể hóa nhằm cung cấp các thông tin nhanh, chính xác cho các cấp quản 
trị đạt được mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận: 
- Chi phí: Kế toán quản trị nghiên cứu chi phí theo các góc độ khác 
nhau như phân loại chi phí, dự toán chi phí, xây dựng định mức chi 
phí, phân tích mối quan hệ giữa chi phí, sản lượng và lợi nhuận 
nhằm mục đích kiểm soát và quản lý chi phí chặt chẽ và dự toán chi 
phí chính xác nhằm tối thiểu hóa chi phí. 
- Xem xét các yếu tố sản xuất như lao động, hàng tồn kho, tài sản cố 
định nhằm khai thác tối đa các yếu tố sẵn có, đảm bảo chi phí thấp 
nhất và lợi nhuận cao nhất, đồng thời thỏa mãn nhu cầu của thị 
trường. 
- Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, doanh thu, lợi nhuận thông qua 
hệ thống báo cáo kết quả kinh doanh trong việc hình thành các quy 
định điều hành, hoạt động của doanh nghiệp; 
- Xây dựng các trung tâm trách nhiệm, phân tích doanh thu, lợi nhuận 
theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp để đưa ra các quyết định đầu tư 
them hay thu hẹp hoặc chấm dứt hoạt động của từng bộ phận nhằm 
phát triển và đảm bảo an toàn của vốn kinh doanh. Đồng thời xác 
định trách nhiệm của cá nhân, bộ phận trong tổng thể doanh nghiệp; 
- Kiểm soát việc thực hiện từng khâu công việc, làm rõ các nguyên 
nhân gây ra sự biến động giữa chi phí theo dự toán và thực tế. Từ đó 
Xác định mục tiêu 
Lập kế hoạch 
Tổ chức thực hiện 
Kiểm tra đánh giá 
Chính thức hóa các chỉ tiêu 
kinh tế 
Triển khai bản dự toán chung 
và các bản dự toán chi tiết 
Thu thập kết quả thực hiện 
Soạn thảo các báo cáo thực 
hiện 
Các chức năng quản trị Thông tin kế toán quản trị 
 4 
phát hiện những thế mạnh trong hoạt động kinh doanh và có biện 
pháp ngăn chặn những điểm yếu nhằm nâng cao hiệu quả của từng 
hoạt động kinh doanh. 
- Cung cấp các thông tin cần thiết để làm sáng tỏ việc đưa ra quyết 
định kinh doanh hiện tại và tương lai. Xây dựng các dự toán chi phí, 
doanh thu và kết quả tài chính nhằm dự báo cáo các kết quả kinh 
doanh diễn ra theo kế hoạch. 
- Phân tích và lựa chọn các phương án đầu tư ngắn hạn và dài hạn 
đảm bảo an toàn và phát triển vốn trong hoạt động kinh doanh có 
hiệu quả nhất. 
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu của kế toán quản trị 
Là một bộ phận của kế toán doanh nghiệp, kế toán quản trị tất nhiên 
cũng áp dụng phương pháp của kế toán nói chung là phương pháp chứng từ kế 
toán, phương pháp đối ứng tài khoản, phương pháp tính giá và phương pháp 
tổng hợp cân đối. Tuy nhiên, việc vận dụng các phương pháp này có đặc điểm 
khác so với kế toán tài chính. 
- Phương pháp chứng từ: Kế toán quản trị thường yêu cầu tính trung 
thành của nghiệp vụ kinh tế phát sinh, trong khi đó chứng từ của kế 
toán tài chính thường ưu tiên tính pháp lý của nghiệp vụ phát sinh. 
Vì vậy, ngoài việc sử dụng những thông tin về các nghiệp vụ kinh tế 
tài chính phát sinh và hực sự đã hoàn thành trên các chứng từ bắt 
buộc, mang tính pháp lý cao, kế toán còn sử dụng rộng rãi hệ thống 
chứng từ hướng dẫn phản ánh các nghiệp vụ kinh tế “nội sinh” 
trong nội bộ doanh nghiệp. Các chứng từ này do doanh nghiệp quy 
định trên cơ sở hướng dẫn của Nhà nước hoặc doanh nghiệp tự lập 
ra theo các yêu cầu quản lý cụ thể ở doanh nghiệp. Việc thu thập, 
kiểm tra, xử lý và luân chuyển chứng từ cũng được xác lập theo 
cách riêng nhằm đảm bảo cung cấp các thông tin cụ thể, nhanh 
chóng và thích hợp cho việc ra quyết định quản lý. 
- Phương pháp đối ứng tài khoản: Trong kế toán tài chính, tài khoản 
được mở nhằm phục vụ cho mục tiêu lập báo cáo tài chính, cung 
cấp thông tin cho bên ngoài doanh nghiệp, theo hệ thống tài khoản 
thống nhất do Bộ tài chính quy định (Quyết định 15). Trong khi đó, 
kế toán quản trị sử dụng các tài khoản không bắt buộc, xuất phát từ 
nhu cầu của các nhà quản trị để theo dõi và điều hành hoạt động 
kinh doanh. Ví dụ, tài khoản có thể được chi tiết thành tài khoản cấp 
2, 3, 4 theo các tiêu chí như sản phẩm, địa điểm, thời gian, nhóm 
hàng, mặt hàng, thị trường mà Nhà nước không quy định để đáp 
ứng yêu cầu quản trị từng cấp. 
- Phương pháp tính giá: Tính giá dưới góc độ kế toán tài chính 
thường hướng tới xác định giá thực tế, giá gốc của hàng tồn kho, chi 
phí cho mục tiêu quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Song tính 
giá dưới góc độ kế toán quản trị thường hướng tới xác định chính 
xác đối tượng chịu chi phí phục vụ cho việc ra quyết định tối ưu cho 
những phương án tương lai. 
- Phương pháp tổng hợp, cân đối kế toán: Báo cáo trong kế toán tài 
chính thường đòi hỏi thống nhất về hình thức và các chỉ tiêu báo 
 5 
cáo trong khi hệ thống báo cáo của kế toán quản trị rất đa dạng, 
phong phú, cụ thể xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của các doanh 
nghiệp và nhu cầu quản trị của từng cấp. 
Ngoài các phương pháp chung của kế toán đã nêu trên, kế toán quản trị 
còn sử dụng các phương pháp đặc thù để làm sáng tỏ thông tin kế toán, phục 
vụ cho nhu cầu quản lý: 
- Thiết kế thông tin thành dạng so sánh được: Thông tin chỉ có ý 
nghĩa khi có các tiêu chuẩn so sánh. Hệ thống kế toán quản trị 
không có một quy chuẩn pháp lý nào về hình thức lẫn nội dung báo 
cáo. Do vậy, doanh nghiệp phải tự xây dựng một hệ thống chỉ tiêu 
kế toán quản trị cụ thể theo mục tiêu quản trị đặt ra. Các chỉ tiêu này 
phải đảm bảo so sánh được giữa các thời kỳ để đưa ra được các 
đánh giá chính xác về thực tế tình hình hoạt động của doanh nghiệp. 
Trong quá trình hội nhập, doanh nghiệp có thể tham khảo các mô 
hình báo cáo, hệ thống chỉ tiêu của các tập đoàn kinh tế trên thế giới 
để áp dụng phù hợp với thực tế của mình. Ví dụ, kế toán quản trị 
cung cấp các thông tin thực hiện, so sánh với các kế hoạch, định 
mức hoặc dự toán chi phí để từ đó đưa ra các phương án lựa 
chọn. 
- Phương pháp phân loại chi phí: Kế toán quản trị sử dụng nhiều tiêu 
thức khác nhau để phân loại chi phí nhằm tạo ra các thông tin phù 
hợp cho việc ra quyết định. Ngoài các tiêu thức phân loại chi phí 
như: phân loại chi phí theo tính chất, nội dung kinh tế, công dụng 
của chi phí, kế toán quản trị còn sử dụng nhiều các tiêu chí khác 
như: Phân loại chi phí theo mối quan hệ của chi phí với khối lượng 
hoạt động. 
- Trình bày mối quan hệ giữa các thông tin kế toán dưới dạng phương 
trình: Dạng phương trình rất thuận tiện cho việc tính và dự toán một 
số quy trình sản xuất chưa xảy ra nhằm để phân tích dự toán chi phí 
sản xuất. 
- Trình bày thông tin dưới dạng đồ thị, mô hình: Phương pháp này 
cũng được kế toán quản trị sử dụng khá thông dụng. Đồ thị là cách 
thể hiện dễ thấy và rõ ràng nhất mối quan hệ và xu hướng biến thiên 
mang tính quy luật của các thông tin do kế toán quản trị cung cấp và 
xử lý. 
1.4. So sánh kế toán quản trị và kế toán tài chính 
Vậy kế toán quản trị khác kế toán tài chính như thế nào? Cả hai đều 
cung cấp thông tin cho người sử dụng ra các quyết định kinh tế. Một điểm 
khác biệt giữa hai loại kế toán này là những người sử dụng thông tin là ai. Kế 
toán tài chính cung cấp thông tin cho các cổ đông, chủ nợ, ngân hàng, và 
những đối tượng khác ở ngoài công ty. Kế toán quản trị tập trung vào những 
đối tượng bên trong công ty. Những đối tượng đó bao gồm các nhà quản lý ở 
tất cả các cấp, và đôi khi bao gồm cả các nhóm nhân viên. 
1.4.1. Những điểm giống nhau 
- Có cùng đối tượng nghiên cứu là các sự kiện kinh tế-tài chính và pháp 
lý diễn ra trong quá trình tồn tại và hoạt động của tổ chức; 
 6 
- Cùng thể hiện các thông tin kinh tế tài chính trong mối quan hệ với 
trách nhiệm, quyền lợi vật chất và pháp lý của một tổ chức hoặc nhà quản trị; 
- Đều dựa trên hệ thống thông tin ghi chép ban đầu của kế toán. 
1.4.2. Những điểm khác nhau 
STT Tiêu chí so sánh Kế toán tài chính Kế toán quản trị 
1 Đối tượng sử dụng 
thông tin 
Cả bên trong và bên 
ngoài doanh nghiệp 
nhưng chủ yếu là 
bên ngoài doanh 
nghiệp 
Bên trong doanh 
nghiệp 
2 Phạm vi Toàn doanh nghiệp Chú trọng đến từng 
bộ phận 
3 Các nguyên tắc kế 
toán được thừa nhận 
Tuân thủ nghiêm 
ngặt 
Không yêu cầu tuân 
thủ nghiêm ngặt 
4 Tính chính xác Thông tin cần chính 
xác và chặt chẽ 
Thông tin gần đúng 
và thích hợp 
5 Tính kịp thời Thông tin chậm, 
thường là khi kết 
thúc một niên độ kế 
toán 
Thông tin nhanh 
6 Tính bắt buộc và 
tính pháp lý 
Có tính bắt buộc và 
tính pháp lý cao 
Không có tính bắt 
buộc và tính pháp lý 
 Hình thái biểu hiện Giá trị Giá trị, hiện vật, 
thời gian lao động 
8 Tính linh hoạt Không cao Tính linh hoạt cao 
9 Đặc điểm thông tin Phản ánh quá khứ Hướng đến tương 
lai 
1.5. Sự cần thiết, yêu cầu và nhiệm vụ tổ chức kế toán quản trị trong 
doanh nghiệp 
1.5.1. Sự cần thiết tổ chức k ... , giá bán đơn vị sản phẩm 
300.000 đồng. Chi phí biến đổi cho 1 lốp xe tải 100.000 đồng, cho 1 lốp xe 
con 160.000 đồng. Nhu cầu tiêu thụ trên thị trường của 2 SP này là như sau. 
Hãy phân tích xem sản phẩm nào được các nhà quản trị chọn để sản xuất 
nhằm tối đa hóa lợi nhuận? 
b. Trường hợp doanh nghiệp bị chi phối bởi nhiều yếu tố giới hạn 
Đa số các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh 
đều bị chi phối bởi nhiều yếu tố giới hạn, đặc biệt khi nền kinh tế bị suy thoái 
ảnh hưởng bởi các điều kiện tài chính, phi tài chính. Trong các trường hợp 
cùng một thời điểm doanh nghiệp bị chi phối bởi các yếu tố giới hạn cần phải 
phân tích thận trọng để đưa ra các quyết định tối ưu. 
Quá trình phân tích để đưa ra quyết định tối ưu thường vận dụng mô 
hình tính toán và tiến hành theo các bước sau: 
Bước 1: Xác định hàm mục tiêu và biểu diễn dưới dạng phương trình 
đại số. Thông thường hàm mục tiêu kinh tế thường là chi phí tối thiểu, doanh 
thu và lợi nhuận tối đa. 
Bước 2: Xác định các điều kiện giới hạn của bài toán kinh tế và thể 
hiện nó dưới dạng phương trình đại số. 
Bước 3: Biểu diện hệ phương trình đại số trên đồ thị, xác định các vùng 
sản xuất tối ưu. 
Bước 4: Căn cứ vào vùng sản xuất tối ưu đã xác định để đưa ra phương 
án tối ưu. 
Ví dụ: Công ty SX Tú Anh chuyên SX 2 sản p hẩm, A và B. Số dư đảm 
phí ĐVSP A là 8.000 đ, SP B là 10.000đ. Trong anwm sản xuất sử dụng tối đa 
 90 
36 đơn vị giờ máy hoạt động, đồng thời tiêu hao hết 24 đơn vị NVL. Thời gian 
để SX 1 đơn vị SP A hết 6 đơn vị giờ và đơn vị SP B là 9 đơn vị giờ. Khối 
lượng NVL để SX ra đơn vị SP A là 6 đơn vị, đơn vị SP B là 3 đơn vị. Trong 
kỳ công ty có thể bán tối đa 3 SP B. 
Công ty phải SX theo cơ cấu nào để đạt lợi nhuận tối đa? 
 91 
Chƣơng 9 
THÔNG TIN KẾ TOÁN VỚI VIỆC RA CÁC QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƢ 
DÀI HẠN 
9.1. Đặc điểm của các quyết định đầu tƣ dài hạn 
Các quyết định đầu tư dài hạn liên quan tới quá trình lập kế hoạch, thiết 
lập các mục tiêu và thứ tự ưu tiên, thu xếp các nguồn vốn tài chợ và sử dụng 
các tiêu thức nhất định để lựa chọn các tài sản dài hạn, ví dụ như quyết định 
mua sắm các trang thiết bị sản xuất, hay quyết định đầu tư xây dựng nhà 
xưởng... Quá trình ra quyết định đầu tư dài hạn thường được gọi là lập dự toán 
vốn cho các dự án đầu tư. Có hai loại dự án: các dự án độc lập và dự toán loại 
trừ nhau. Các dự án độc lập và các dự án mà việc chấp nhận hay từ chối dự án 
này không ảnh hưởng tới dòng tiền của dự án khác, do đó doanh nghiệp có thể 
chấp nhận đồng thời tất cả các dự án độc lập nếu các dự án đó là khả thi. Các 
dự án loại trừ nhau là các phương án cạnh tranh cung cấp cùng một dịch vụ cơ 
bản cho doanh nghiệp, chấp nhận một phương án này thì sẽ phải từ chối các 
phương án khác. Ví dụ: Doanh nghiệp đang có một thiết bị sản xuất hỏng, 
phương án bán thiết bị đó đi để mua thiết bị mới và phương án sửa chữa thiết 
bị đó để tiếp tục sử dụng là hai phương án loại trừ nhau, tuy nhiên dự án liên 
quan đến thiết bị sản xuất nói trên và dự án xây dựng nhà xưởng mới là hai dự 
án độc lập với nhau. 
Các quyết định đầu tư dài hạn liên quan tới một khối lượng vốn lớn với 
mức độ rủi ro cao trong một thời kỳ dài và ảnh hưởng tới tương lai phát triển 
của doanh nghiệp. Việc quyết định đầu tư sai hay đúng sẽ ảnh hưởng đến sự 
sống còn và khả năng sinh lời dài hạn của doanh nghiệp, chính vì vậy các nhà 
quản lý cần phân tích thông tin một cách thận trọng trước khi ra quyết định 
đầu tư. 
Lượng vốn đầu tư ban đầu vào các tài sản dài hạn sẽ được thu hồi lại 
qua quá trình sử dụng tài sản dài hạn đó. Đồng thời, quá trình sử dụng tài sản 
sẽ tạo ra một phần lợi nhuận hợp lý trên cơ sở vốn đầu tư ban đầu. Do đó 
nhiệm vụ của các nhà quản lý là cần đánh gái liệu một dự án đầu tư vốn có thu 
hồi được vốn đầu tư ban đầu và tạo ra một khoản lợi nhuận hợp lý không? 
Trên cơ sở đánh giá này, các nhà quản lý sẽ quyết định chấp nhận các dự án 
đầu tư độc lập hoặc so sánh các dự án đầu tư cạnh tranh. Phần lợi nhuận hợp 
lý mà mỗi dự án đầu tư cần tạo ra chính là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn 
đầu tư ban đầu cho dự án đó. Ví dụ: nếu một công ty cần huy động vốn trên 
thị trường tiền tệ với lãi suất 10% để đầu tư vào một dự án mới, thì dự án này 
đòi hỏi tỷ lệ sinh lời tối thiểu cũng phải là 10%. 
9.2. Các phƣơng pháp đánh giá dự án đầu tƣ 
9.2.1. Các phương pháp chiết khấu dòng tiền 
* Khái niệm giá trị của tiền theo thời gian 
Một khái niệm cơ bản trong việc đánh giá các dự án đầu tư là giá trị của 
tiền theo thời gian. Giống như bất cứ một nguồn lực nào được sử dụng trong 
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tiền cũng có chi phí. Chi phí của việc 
sử dụng tiền vào một dự án đầu tư này chính là cơ hội bị mất đi để đầu tư tiền 
vào một dự án đầu tư khác. Ví dụ: Thay vì dùng 1 tỷ đồng để đầu tư vào các 
cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, khoản tiền này có thể đem gửi vào ngân 
hàng để hưởng lãi. Do tiền có thể nhận được một khoản lãi nên giá trị của tiền 
 92 
phụ thuộc vào thời điểm khi nó được nhận và rõ ràng có sự khác biệt giá trị 
của tiền giữa khoản đầu tư bỏ ra bây giờ và các dòng tiền thu được trong 
tương lai. Chính vì vậy, khi thực hiện một quyết định đầu tư, chúng ta phải có 
một cơ sở tương đương để so sánh các dòng tiền tại thời điểm khác nhau. Cơ 
sở đó chính là chuyển đổi giá trị của các dòng tiền này vào một ngày chung để 
so sánh. 
- Giá trị tương lai: 
Do tiền có giá trị theo thời gian nên có tiền vào thời điểm hiện tại tốt 
hơn là có tiền trong tương lai, bởi chúng ta có thể dụng khoản tiền hiện tại để 
đầu tư kiếm lời, và thu được khoản tiền nhiều hơn trong tương lai. Ví dụ: nếu 
chúng ta có 1 triệu đồng tại thời điểm hiện tại, chúng ta có thể gửi tiết kiệm và 
hưởng lãi suất 10%. Sau 1 năm, chúng ta sẽ có 1,1 triệu đồng. 1,1 triệu đồng 
này được gọi là giá trị tương lai của 1 triệu đồng sau 1 năm với lãi suất 
10%/năm. Nếu chúng ta tiếp tục gửi khoản tiền 1,1 triệu đồng này thì sau 1 
năm nữa chúng ta sẽ có 1,21 triệu đồng, đây là giá trị tương lai của 1 triệu 
đồng sau 2 năm với lãi suất 10%/năm. Giá trị tương lai là giá trị mà khoản đầu 
tư hiện tại sẽ đạt tới sau một kỳ nhất định với lãi suất nhất định. Giá trị tương 
lai của một khoản đầu tư được xác định theo công thức: 
FV = PV x (1+r)
n 
Trong đó: 
N: Số thời kỳ được xem xét trong phân tích đầu tư 
R: Tỷ lệ hoàn vốn cần thiết, hoặc dự tính từ một cơ hội đầu tư 
FV: Giá trị tương lai của khoản đầu tư hiện tại sau n kỳ 
PV: Giá trị hiện tại của khoản tiền nhận được sau n kỳ 
- Giá trị hiện tại: 
Khi đầu tư một khoản vốn vào một dự án, nhà đầu tư sẽ hy vọng khoản 
đầu tư đó sẽ sinh lợi dưới dạng dòng tiền thu vào qua nhiều giai đoạn trong 
tương lai. Nhà đầu tư sẽ phải so sánh lợi ích của các dòng tiền này vào với chi 
phí đầu tư ban đầu (dòng tiền ra) để đánh giá dự án đầu tư. Do tiền có giá trị 
theo thời gian nên tất cả các dòng tiền gắn với dự án đầu tư đó phải được 
chuyển đổi thành giá trị tương đương tại một ngày chung để chúng ta có thể 
thực hiện so sánh có ý nghĩa giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra. Về lý thuyết, 
chúng ta có thể chọn một ngày chung bất kỳ để so sánh dòng tiền vào và dòng 
tiền ra, tuy nhiên sự lựa chọn thông thường là thời điểm khi khoản đầu tư đã 
cam kết. Thời điểm này gọi là thời điểm 0. Gái trị của dòng tiền tương lai tại 
thời điểm 0 được gọi là giá trị hiện tại của chúng. Từ công thức tính giá trị 
tương lai, chung ta rút ra được công thức tính giá trị hiện tại: 
PV = 
FV 
(1+r)
n 
 - Giá trị hiện tại và giá trị tương lai của dòng tiền đều đặn hàng năm 
Trong nhiều trường hợp, một khoản đầu tư ban đầu có thể mang lại một 
dòng tiền đều đặn hàng kỳ trong n kỳ. Ví dụ anh Nguyễn Văn Linh là người 
thắng cuộc trong trò chơi Tiếp sức của VTV3 và giải thưởng của anh là 5 triệu 
mỗi năm và kéo dài trong 3 năm. Giá trị hiện tại của dòng tiền này vào ngày 
hôm nay là bao nhiêu nếu lãi suất là 10%. 
Giá trị hiện tại của dòng tiền đều đặn hàng kỳ trong tương lai được xác 
định theo công thức sau: 
 93 
PV = A x 
(1+r)
n
 - 1 
r x (1+r)
n 
* Phương pháp giá trị hiện tại thuần 
Giá trị hiện tại thuần NPV là tổng giá trị hiện tại của tất cả các dòng 
tiền vào và ra gắn với một dự án đầu tư. Giá trị hiện tại thuần được xác định 
theo công thức sau: 
NPV = [∑CFt/(1+r)
n
] – I 
Trong đó: 
I: Vốn đầu tư ban đầu 
r: Tỉ lệ hoàn vốn cần thiết 
CFt: Dòng tiền tại kỳ t, với t = 1,2, ..., n 
n: Quãng đời của dự án đầu tư 
Giá trị hiện tại thuần đánh giá khả năng sinh lời của dự án đầu tư. Nếu 
giá trị hiện tại thuần dương NPV, tức là dự án đầu tư có lãi và do đó dự án đầu 
tư sẽ được chấp nhận. Nếu NPV âm, không nên chấp nhận dự án đầu tư do lợi 
nhuận của dự án thấp hơn mức sinh lời yêu cầu tối thiểu. Nếu NPV = 0, các 
nhà ra quyết định có thể chấp nhận hoặc từ chối dự án đầu tư, vì trong trường 
hợp này lợi nhuận của dự án bằng đúng với mức sinh lời yêu cầu tối thiểu của 
doanh nghiệp. Tỷ lệ sinh lời tối thiểu theo yêu cầu của công ty thường được 
lấy là chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp. 
- Ứng dụng của phương pháp giá trị hiện tại thuần để lựa chọn các dự 
án đầu tư 
Trong thực tế các nhà quản lý thường phải so sánh một vài phương án 
để lựa chọn một phương án tối ưu cho doanh nghiệp. Áp dụng phương pháp 
giá trị hiện tại thuần để so sánh các phương án, chúng ta có thể tiếp cận theo 
hai cách: phương pháp tổng và phương pháp chênh lệch. 
Phương pháp tổng: xác định tổng ảnh hưởng của từng phương án đầu 
tư tới dòng tiền, từ đó xác định giá trị hiện tại thuần của dòng tiền từng 
phương án đầu tư. Phương án tốt nhất là phương án có NPV của tổng dòng 
tiền là cao nhất. 
Phương pháp chênh lệch xác định những chênh lệch trong dòng tiền 
giữa các phương án đầu tư, từ đó xác định giá trị hiện tại thuần của dòng tiền 
chênh lệch đó. Phương pháp này chỉ áp dụng cho việc so sánh 2 phương án 
đầu tư và thường là các phương án đầu tư có tính chất loại trừ nhau. 
* Phương pháp tỷ lệ hoàn vốn nội bộ 
Tỉ lệ hoàn vốn nội bộ IRR là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại 
thuần của dòng tiền vào bằng với giá trị hiện tại thuần của dòng tiền ra. Tỷ lệ 
hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ sinh lời mong muốn của dự án đầu tư. Nếu tỷ lệ hoàn 
vốn nội bộ được sử dụng để tính giá trị hiện tại thuần của dự án đầu tư, thì giá 
trị hiện tại thuần này là bằng 0. 
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ được xác định bằng cách tìm giá trị r theo công 
thức: 
I = 
CF 
+ 
CF 
+...+ 
CF 
(1+r)
1 
(1+r)
2 
(1+r)
n 
Trong đó: 
I: Vốn đầu tư ban đầu 
r: Tỉ lệ hoàn vốn cần thiết 
 94 
CFt: Dòng tiền tại kỳ t, với t = 1,2, ..., n 
n: Quãng đời của dự án đầu tư 
Để tìm tỉ lệ hoàn vốn nội bộ một cách dễ dàng hơn, chúng ta có thể 
dùng phương pháp nội suy. Chúng ta dùng phương pháp thử, tìm hai mức lãi 
suất bất kỳ: tại mức lãi suất A%, giá trị hiện tại thuần của dự án là một giá trị 
dương C và tại mức lãi suất B%, giá trị hiện tại thuần của dự án là một giá trị 
âm D. Khi đó, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án đầu tư được xác định một cách 
gần đúng theo công thức: 
IRR = A + 
C 
x (B-A) 
C - D
Nếu tỉ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án đầu tư lớn hơn tỷ lệ sinh lời yêu 
cầu tối thiểu của công ty NPV >0, tức là dự án đầu tư có lãi và do đó dự án 
đầu tư sẽ được chấp nhận. Nếu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án đầu tư nhỏ hơn 
tỷ lệ sinh lời yêu cầu tối thiểu của công ty NPV <0, không nên chấp nhận dự 
án đầu tư. Nếu tỉ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án đầu tư bằng tỉ lệ sinh lời yêu 
cầu tối thiểu của công ty NPV = 0, dự án đầu tư có thể được chấp nhận hoặc 
từ chối tùy thuộc vào quyết định của nhà đầu tư. 
9.2.2. Các phương pháp không chiết khấu dòng tiền 
* Phương pháp kỳ hoàn vốn 
Kỳ hoàn vốn là khoảng thời gian cần thiết để tổng dòng tiền vào bằng 
với tổng dòng tiền ra của một dự án đầu tư, nói cách khác, kỳ hoàn vốn là 
khoảng thời gian cần thiết để thu hồi đủ vốn đầu tư ban đầu của một dự án. 
Kỳ hoàn vốn thường được sử dụng như là một thước đo đánh giá mức 
độ rủi ro của dự án đầu tư. Nếu kỳ hoàn vốn càng dài, mức độ rủi ro của dự án 
đầu tư càng cao. Thông thường các chủ đầu tư sẽ so sánh kỳ hoàn vốn của dự 
án với mức yêu cầu tối thiểu về thời gian hoàn vốn để từ đó đánh giá về mức 
độ rủi ro của dự án. 
Ví dụ: sách giáo trình trang 288. 
* Phương pháp tỷ lệ hoàn vốn kế toán 
Tỷ lệ hoàn vốn kế toán của một dự án đầu tư được xác định bằng cách 
lấy lợi nhuận kế toán bình quân chia cho vốn đầu tư bình quân. Nếu tỉ lệ hoàn 
vốn kế toán của dự án lơn hơn tỷ lệ sinh lời yêu cầu thì dự án sẽ được chấp 
nhận. 
Tỉ lệ hoàn vốn kế toán = 
Lợi nhuận bình quân 
Vốn đầu tư bình quân 
Vốn đầu tư bình quân = 
Giá trị vốn đầu tư + Giá trị thanh lý ước tính 
2 
Lợi nhuận bình quân = 
Lợi nhuận năm 1+... + Lợi nhuận năm n 
n 
9.3. Ảnh hƣởng của thuế và lạm phát tới dự án đầu tƣ 
9.3.1. Ảnh hưởng của thuế tới dự án đầu tư 
Trong thực tế, khi xây dựng các dự án đầu tư chúng ta bắt buộc phải 
phân tích ảnh hưởng của thuế tới các dự án đầu tư. Ảnh hưởng của thuế tới các 
 95 
dự án đầu tư như thế nào là phụ thuộc vào luật thuế của mỗi quốc gia và mỗi 
ngành nghề kinh doanh. Tuy nhiên, nói chung ảnh hưởng của thuế tới các dự 
án đầu tư thường được xem xét dưới các khía cạnh sau đây: 
- Lợi nhuận tạo ra từ dự án đầu tư phải nộp thuế thu nhập doanh 
nghiệp, và do đó sẽ xuất hiện một dòng tiền ra để nộp thuế. 
- Vốn đầu tư ban đầu của dự án sẽ được trích khấu hao và tính vào chi 
phí kinh doanh hàng năm, điều này sẽ làm giảm số thuế thu nhập doanh 
nghiệp phải nộp, tức là làm tăng dòng tiền vào thuần cho dự án. 
- Việc thanh lý các tài sản cũ khi bắt đầu một dự án mới hoặc việc 
thanh lý tài sản khi kết thúc dự án sẽ hình thành nên các khoản lãi (lỗ) thanh lý 
tài sản cố định và do đó cũng sẽ ảnh hưởng tới số tính thuế thu nhập doanh 
nghiệp phải nộp, tức là ảnh hưởng tói dòng tiền của dự án. 
9.3.2. Ảnh hưởng của lạm phát tới dự án đầu tư 
Lạm phát là sự tăng giá cả nói chung, thể hiện sự suy giảm sức mua của 
đồng tiền. Lạm phát tồn tại trong mọi nền kinh tế. Chính vì vậy, các dòng tiền 
dự báo trong tương lai của một dự án đầu tư luôn bị ảnh hưởng bởi yếu tố lạm 
phát. Chúng ta đã tiến hành chiết khấu dòng tiền đó về giá trị hiện tại theo một 
tỷ lệ chiết khấu nhất định để loại trừ ảnh hưởng của yếu tố thời gian tới dòng 
tiền của dự án đầu tư. Tương tự như vậy, để loại trừ ảnh hưởng của yếu tố lạm 
phát tới dòng tiền của dự án đầu tư, chúng ta cũng cần điều chỉnh dòng tiền dự 
báo trong tương lai của dự án đầu tư theo tỷ lệ lạm phát để so sánh các khoản 
tiền có sức mua tương tự nhau tại thời điểm khởi đầu dự án đầu tư. 
Để đánh giá một dự án đầu tư trong điều kiện có ảnh hưởng của lạm 
phát, chung ta cần tiến hành các bước sau: 
Bước 1: Điều chỉnh các dòng tiền trong tương lai khỏi ảnh hưởng của 
yếu tố lạm phát bằng cách chiết khấu dòng tiền đó về sức mua hiện tại theo tỷ 
lệ lạm phát dự báo. Việc điều chỉnh dòng tiền này hoàn toàn áp dụng theo 
công thức 9.2, trong đó r là tỷ lệ lạm phát dự báo. 
Bước 2; Tiếp tục chiết khấu các dòng tiền sau khi điều chỉnh lạm phát 
về giá trị hiện tại theo tỷ lệ chiết khấu yêu cầu của các nhà đầu tư. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_ke_toan_quan_tri_moi.pdf