Bàn thêm về nguồn gốc đình làng
Tóm tắt
Đình làng là một thiết chế văn hóa, tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóacủa
cộng đồng cư dân người Việt trong lịch sử cũng như đương đại. Bởi vậy, đã xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu về đình qua nhiều phương diện, trong đó có việc truy nguyên nguồn gốc đình làng. Lâu nay,
cũng đã có một số tác giả bàn về nguồn gốc đình làng, song ý kiến còn khác nhau, và hầu hết các tác
giả đều chưa đưa ra được những cứ liệu đáng tin cậy về mặt lịch sử cũng như về mặt khoa học. Thông
qua nghiên cứu một số tài liệu từ điển học, công trình nghiên cứu về đình làng và tư liệu văn bia cũng
như một số tư liệu thành văn khác, chúng tôi muốn bàn thêm để làm rõ hơn về vấn đề nguồn gốc đình
làng qua việc tiếp cận, lý giải từ điển học và ngôn ngữ học; tiếp cận đình từ góc nhìn chức năng; tìm
niên đại xuất hiện của đình.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn thêm về nguồn gốc đình làng
T BÀN THÊM VỀ NGUỒN GỐC ĐÌNH LÀNG KIỀU THU HOẠCH Tóm tắt Đình làng là một thiết chế văn hóa, tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân người Việt trong lịch sử cũng như đương đại. Bởi vậy, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về đình qua nhiều phương diện, trong đó có việc truy nguyên nguồn gốc đình làng. Lâu nay, cũng đã có một số tác giả bàn về nguồn gốc đình làng, song ý kiến còn khác nhau, và hầu hết các tác giả đều chưa đưa ra được những cứ liệu đáng tin cậy về mặt lịch sử cũng như về mặt khoa học. Thông qua nghiên cứu một số tài liệu từ điển học, công trình nghiên cứu về đình làng và tư liệu văn bia cũng như một số tư liệu thành văn khác, chúng tôi muốn bàn thêm để làm rõ hơn về vấn đề nguồn gốc đình làng qua việc tiếp cận, lý giải từ điển học và ngôn ngữ học; tiếp cận đình từ góc nhìn chức năng; tìm niên đại xuất hiện của đình. Từ khóa: Đình làng, chức năng, nguồn gốc Abstract The village hall is a cultural and religious institution that plays an important role in the cultural life of the Vietnamese community in history as well as in contemporary life. Therefore, there have been many studies on the village hall on many aspects, including the trace of the origin of the village hall. There have been some authors discussing the origins of the village hall for a long time, but the opinions differ, and most authors have failed to provide reliable historical and scientific aspect. Through the study of a number of dictionaries, village hall studies and epistemological documents as well as some other written texts, we would like to discuss further to clarify the issue of the origin of the village hall through access, interpretation of language and linguistics; approaching village hall from a functional perspective; finding age of the village hall. Keyword: village hall, function, origin 1. Về vấn đề chức năng của đình làng heo tìm hiểu của chúng tôi, người nói đến đình làng sớm nhất và sơ bộ định nghĩa về chức năng cơ bản của ngôi đình có lẽ là Cha/ Linh mục Alexandre De Rhodes trong cuốn Từ điển Annam - Lusitan - La Tinh (Thường gọi Từđiển Việt - Bồ La) tên đầy đủ theo nguyên văn là Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, Roma, 1651. (Hiện có bản phiên dịch của nhóm Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, do Nxb. Khoa học xã hội xuất bản năm 1991). Ở mục từ Đình, được ghi như sau: - Đình: Nhà, nơi cộng đồng hội họp để bàn định công việc. - Đình hát: Nhà, nơi ca hát để tôn kính quỷ thần. Điều thú vị là mục từ đình hát trong Từ điển A. De Rhodes lại trùng hợp hoàn toàn với từ KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT Ảnh 1. Cổng vào Kháp đình ở làng Vạn Vĩ - Nguồn ảnh: Tác giả Ảnh 2. Bên trong Kháp đình làng Vạn Vĩ - Nguồn ảnh: Tác giả đình hát mà tộc người Kinh ở Trung Quốc gọi thờ thần Trấn Hải đại vương và Hưng Đạo đại vương... Hai gian tả hữu khá rộng có thể chứa vài trăm người trong thôn làng tới ngồi ăn uống, ca hát trong các dịp lễ tiết. Theo các nhà nghiên cứu folklore Trung Quốc thì kháp đình có nhiều chức năng, như thờ thần, vui chơi diễn xướng văn nghệ trong ngày lễ hội, ăn uống việc làng, và là nơi hội họp cộng đồng. Giới nghiên cứu ngôn ngữ Trung Quốc cho biết, chữ kháp là ghi theo âm của người Kinh, gồm hai ý nghĩa: Một là hát xướng, nên có thể dịch kháp đình là ca đình (đình hát). Hai là ăn, nên có thể dịch là hương ẩm đình (đình ăn uống) (18, tr.3-10). Về chữ kháp đình (đình hát), theo chúng tôi được biết, thì từ kháp hoàn toàn tương đồng với từ khắp trong tiếng Thái, có nghĩa là hát (19, tr.271). Do vậy, rất có thể từ kháp của tộc người Kinh với từ khắp của người Thái là có cùng một nguồn gốc. Qua hai cứ liệu như vừa dẫn, cho thấy hai chức năng cơ bản của đình làng, đó là ngôi nhà để là kháp đình (哈亭). Tộc người Kinh, tức là tộc người Việt, di cư sang Trung Quốc vào năm Lê Hồng Thuận1 thứ 3, tương đương niên hiệu Minh Vũ Tông, Chính Đức thứ 6, tức năm 1511 (theo bản hương ước do nhóm di dân mang theo). Hiện nay họ là một trong số 55 dân tộc thiểu số Trung Quốc, đang sống ở 3 làng Vu Đầu, Vạn Vĩ, Sơn Tâm trong vùng các bán đảo ven biển thuộc tỉnh Quảng Tây. Về phong tục, khi mới sang Trung Quốc, họ dựng kháp đình bằng tre gỗ mái tranh để làm nơi thờ thần, về sau kháp đình mới được xây bằng gạch ngói, trên bờ nóc có đắp hình“song long hý châu”(đôi rồng giỡn ngọc). Trong đình KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT thờ thần, đồng thời cũng là ngôi nhà chung để hội họp cộng đồng. Đó là hai cứ liệu về mặt từ điển học và ngôn ngữ học lịch sử rất đáng tin cậy và có cơ sở khoa học chắc chắn. Sau đây, chúng ta xem xét tiếp hai tài liệu nghiên cứu đều tiếp cận ngôi đình từ góc nhìn chức năng. Tác giả Nguyễn Văn Khoan có công trình viết bằng tiếng Pháp Essai sur le đình et le culte du génie tutélaire des villages au Tonkin (Khảo luận về ngôi đình và việc thờ thần thành hoàng của các làng xã ở Bắc Kỳ) BEFEO, 1930. Học giả Pháp Louis Bezacier trong L’art Vietnamien, Paris, 1955, đánh giá cao công KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT trình của Nguyễn Văn Khoan, cho rằng đây là một công trình nghiên cứu súc tích, có thể xếp đình vào kiến trúc dân dụng và cả kiến trúc tôn giáo cũng được. Nó ăn vào kiến trúc dân dụng với tính cách là ngôi nhà công cộng, nơi các kỳ hào hội họp khi làng có hội hè hay để bàn công việc của làng xã. Ở Chương III của công trình, nói tới bàn thờ của một hay nhiều vị thần thành hoàng của làng. (13, tr. 18). Còn ông Nguyễn Văn Huyên trong công trình Contribution à l`étude d`un génie tutélaire annamite Lý Phục Man (Góp phần vào việc nghiên cứu một vị thần thành hoàng An Nam, Lý Phục Man), BEFEO, 1938, đã theo lời của một vài chức sắc địa phương cung cấp cho ông, nói rằng: Ngày xưa đình là nơi vua ngự khi đi tuần du trong nước. Ở mỗi tỉnh lỵ có một hành cung, nơi ngự giá của nhà vua khi tuần du qua. Các làng nằm trên đường mà xa giá nhà vua thường đi qua, cũng dựng lên những tòa nhà có công dụng như hành cung... Điều này còn cắt nghĩa được tại sao ngày nay, ở một số ngôi đình ta lại thấy mặt trước trên gian giữa có một bức hoành phi sơn son thiếp vàng ghi bốn chữ “Thánh cung vạn tuế” 2. Sau khi trích dẫn, ông L. Bezacier phản biện rằng: Cách giải thích này khó đứng vững được, vì rằng hầu hết nếu không phải là tất cả các làng đều có đình, kể cả những làng nằm ở xa mọi con đường mà xa giá nhà vua có thể đi qua. Hơn nữa, cách xây dựng của đình khác hẳn cách cấu trúc của hành cung, không thể dùng làm nơi nghỉ ngơi như hành cung được (20, tr.18). Ông L. Bezacier ghi nhận đình là một trong những kiến trúc có ý nghĩa nhất ở Bắc Kỳ, ở đấy người ta thấy nghệ thuật kiến trúc cũng như nghệ thuật trang trí khu nhà thể hiện phong phú nhất. Ông cũng cho rằng nguồn gốc của đình chưa được biết rõ lắm. (20, tr.19) Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với nhận định của ông L. Bezacier, bởi nếu chỉ tìm biết chức năng của ngôi đình thì cũng chưa thể biết được cội nguồn lịch sử của nó. Điều quan trọng ở đây là phải biết được niên đại xuất hiện của đình làng trong lịch sử. Nhân đây chúng tôi cũng xin lưu ý một điều, đó là một số tác giả thường coi đình trạm như là tiền thân của đình làng. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm, thiếu cơ sở khoa học. Đình trạm là nơi cho khách đi đường nghỉ chân và tiễn đưa nhau, vốn là kiến trúc của Trung Quốc. Bề ngoài mười dặm trường đình Vương ông gánh tiệc tiễn hành đưa theo Bản Kiều của Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim hiệu khảo chú thích rằng: Theo Hán thư, đường đi bên Tàu cứ năm dặm có một đoản đình, mười dặm có một trường đình3. Chúng tôi tra từ điển Từ nguyên thì chữ đình ( 亭 ) có hai nghĩa cơ bản: một là nơi dừng chân ăn nghỉ của khách đi đường, hai là ngôi nhà có nóc nhưng không có tường bao quanh. Còn Hán Việt từ điển cửa Đào Duy Anh thì giải nghĩa đình là cái nhà nhỏ, cái nhà trạm cho người đi đường nghỉ. Đình trạm của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam từ bao giờ, chúng tôi chưa tìm được cứ liệu. Chỉ biết về mặt văn bản lịch sử, thì đời Trần đã có ghi chép. Theo Đại Việt sử kỷ toàn thư, “Thượng hoàng (Trần Thừa) xuống chiếu rằng, trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ. Trước đây, tục nước ta vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho người đi đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình trạm. Thượng hoàng khi còn hàn vi từng nghỉ ở một đình trạm, gặp một nhà sư bảo rằng: Người trẻ tuổi này ngày sau sẽ đại quý. Nói xong thì không thấy nhà sư đâu nữa. Đến nay lấy được thiên hạ mới có lệnh này”. Sử thần Ngô Sĩ Liên bình luận:“Đó là mầm đầu tiên của sự sùng Phật”. (4, tr.11) Theo tìm hiểu của chúng tôi, thì từ thời Trần đến thời Lê - Nguyễn, đình trạm vẫn tiếp tục là nơi nghỉ ngơi của người đi đường. Sách Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác, viết năm Lê Cảnh Hưng 43 (1782) từng nhắc đến nhiều tên đình trạm trên đường tới Thượng Kinh4. Sách Hồi kinh nhật ký (Ký hiệu VNv216, kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm) của Lý Văn Phức, soạn Minh Mệnh 10 (1829) bằng chữ Nôm, thể KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT song thất lục bát, kể lại cuộc hành trình từ Hà Nội vào kinh đô Huế thời Nguyễn, qua 36 trạm dịch trên đường thiên lý. Ví dụ: Khởi trình tới trạm Hà Mai/ Có ai vì tặng một lời Giang Nam; Huyện Thanh Trì có làng Thịnh Liệt/ Nghe cá rô đầm Sét rằng tươi.... Như vậy, rõ ràng là trạm dịch (từ đình trạm) vẫn tồn tại suốt chiều dài lịch sử theo chức năng của nó mà không hề biến thành đình làng. Ở Trung Quốc, ngoài danh từ đình trạm, còn có danh từ hương đình (乡亭). Bộ từ điển Từ nguyên, 1993, giải nghĩa:“Trúc ư hương gian đích công xá” - nghĩa là ngôi nhà chung xây dựng ở trong làng, dẫn ví dụ trong sách Liệt tiên truyện, quyển Thượng, có nói đến hương đình trong Truyện An Kỳ Sinh, đời Tần Thủy Hoàng và sách Luận hành của Vương Sung (27 - 97) đời Hán cũng có nói đến hương đình. Đương nhiên, mặc dù cả tên gọi và thực thể hương đình Trung Quốc đã có từ thời Tần - Hán, song vẫn chưa có cơ sở để cho rằng đình làng Việt Nam là bắt nguồn từ hương đình Trung Quốc. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với ghi nhận của ông L. Bezacier, rằng chỗ khác biệt của đình làng Việt Nam là ở cái kiến trúc trên sàn cột của nó: “Thật vậy, đáng chú ý ở chỗ nó là loại nghệ thuật Việt Nam duy nhất xây dựng trên sàn cột. Chúng tôi chưa hề thấy một sự vi phạm nhỏ nào đôi với nguyên tắc ấy. Ở Trung Quốc, lối xây dựng này không có, ít ra theo chỗ chúng tôi được biết” (20, tr.19). 2. Về vấn đề niên đại của đình làng Truy tìm nguồn gốc đình làng, như trên chúng tôi đã đề cập, là ngoài chức năng của đình còn phải biết được niên đại xuất hiện của đình. Truy tìm theo hướng này, qua văn bia Hà Nội, hiện còn thấy tấm bia“Thanh Hà ngọc phả bi ký” nói về vị thần được thờ tại đình Thanh Hà là Trần Lựu, tướng đời Trần chống giặc Nguyên Mông tại Vũ Ninh, sau khi thắng trận về mở tiệc khao quân ở thôn Thanh Hà rồi hóa, được dân lập đình thờ (2, tr.27). Đình Thanh Hà vốn có sáu tấm bia, Tuyển tập văn bia Hà Nội chỉ chọn một văn bia ghi thần tích thần thành hoàng được thờ tại đình để dịch, như vừa nêu. Thần tích trong “Thanh Hà ngọc phả bi ký” ghi rõ niên đại sao chép là ngày 6 tháng 3 niên hiệu Thuận Thiên thứ 3 (1430) thời Lê Lợi. Còn nhóm tác giả Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Duy Hinh căn cứ vào một tấm bia khác trong đình Thanh Hà, đã cho biết “bia ghi rõ đình được khởi dựng năm Thuận Thiên thứ 6 (1433)” (14, tr.73). Một thông tin vô cùng quý báu đó là những điều tra sâu sát, kỹ càng về quá trình kiến trúc ngôi đình Thanh Hà của một nhà “Hà Nội học” tầm cỡ, tác giả Nguyễn Văn Uẩn trong công trình đồ sộ Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX. Theo tác giả, đình Thanh Hà nguyên gần cửa ô Quan Chưởng, năm Đinh Sửu, Gia Long 16 (1817), khi sửa cửa Ô và mở rộng đường phố, đình được di dời đến số 77 phố Hàng Chiếu, song cổng chính của ngôi đình lại quay sang phố Ngõ Gạch, số 10. Năm Mậu Dần, Gia Long 17 (1818), đình mới chỉ dựng sơ sài bằng tre gỗ, đến năm Nhâm Ngọ, Minh Mệnh thứ 3 (1822), đình mới được xây lại bằng gạch kiên cố. Đây là những điều được tác giả kể lại theo văn bia do Bùi Tú Linh soạn năm 1855, Tự Đức 8 (16, tr.183). Chúng tôi đã đến thăm lại đình Thanh Hà tại số 10 Ngõ Gạch, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, được biết đình đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 21 tháng 1 năm 1989. Về kiến trúc, đình vẫn có bộ mái cong và trên bờ nóc có đắp nổi đôi rồng chầu mặt trời. Chỉ có điều bốn chữ Hán trên cổng ra vào không ghi là đình, mà lại ghi “Thanh Hà linh từ” (Đền thiêng Thanh Hà). Dù sao, đây cũng là ngôi đình có niên đại sớm nhất từ thời Lê mà chúng ta được biết. Ngoài tư liệu văn bia, còn một sử liệu rất đáng tin cậy, đó là sự kiện được chép trong Lê triều thông sử thường gọi là Đại Việt thôngsử của nhà bác học Lê Quý Đôn như sau: “Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Quang Thiêu 7 (1522) đời Lê Chiêu Tông, nhà vua chạy lánh ra phía tây Thăng Long, đóng ở đình làng Nhân Mục Cựu” (5, tr.131) 5. Hai cứ liệu vừa dẫn đều cho biết niên đại tuyệt đối, tuy nhiên, để xác định cụ thể và chắc chắn hơn, chúng ta cần phải tiếp cận vấn đề từ KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT nhiều góc nhìn để có một cái nhìn tổng hợp, toàn diện về sự xuất hiện của đình làng. Như trên đã trình bày, các tác giả tiếp cận ngôi đình làng từ góc nhìn chức năng, như Nguyễn Văn Khoan (1930), Nguyễn Văn Huyên (1938) trong chuyên khảo viết bằng tiếng Pháp đều gắn đình làng với tín ngưỡng thờ thần thành hoàng (génie tutélaire). Nhà phong tục học Phan Kế Bính, trong sách Việt Nam phong tục (1915) cho biết: tục thờ thần thành hoàng là từ Trung Quốc truyền sang ta từ thời nội thuộc (chỉ thời Bắc thuộc - K.T.H), và dẫn câu tục ngữ “Đất có thổ công, sông có hà bá, cảnh thổ nào có thần hoàng ấy” (3, tr.62). Tra tìm theo ý kiến của Phan Kế Bính, chúng ta được biết huyền tích/ thần tích chép trong sách Giao Châu ký và Báo cực truyện kể rằng, có viên huyện lệnh tên Tô Lịch, ba đời nổi tiếng hiếu thuận. Năm Trường Khánh thứ 3 (823) đời Đường Mục Tông, viên quan đô hộ Lý Nguyên Gia dựng phủ lỵ trên nền nhà cũ của Tô Lịch, hỏi biết đạo đức của Tô Lịch, ngỏ ý muốn thờ làm thành hoàng, được dân chúng đồng tình, bèn dựng ngôi đền nguy nga, đẹp đẽ. Đến khi Cao Biền sang làm An Nam đô hộ phủ, xây đắp lại thành Đại La, vào năm Hàm Thông 7 (866) đời Đường Ý Tông, nghe tiếng Tô Lịch anh linh, mới sửa lễ đến tế lễ, tôn Tô Lịch làm Đô phủ thành hoàng thần quân. Vua Lý Thái Tổ sau khi dời đô ra thành Đại La, đổi tên là Thăng Long (1010), thường mộng thấy một ông già đầu bạc đến vái chào, hô vạn tuế. Vua tỉnh dậy, sai quan đến tế, phong Tô Lịch làm Quốc đô Thăng Long thành hoàng đại vương (17, tr. 31-32). Theo bài Tựa của Lý Tế Xuyên, viết năm Khai Hựu thứ 1 (1329) đời Trần Hiến Tông, thì có thể coi đây là một tệp thần tích cổ nhất của nước ta. Qua ghi chép của sách Việt điện u linh, chúng ta đã thấy rõ tục thờ thành hoàng là do mấy viên quan đô hộ nhà Đường truyền sang ta. Song lúc bấy giờ, thần thành hoàng Tô Lịch được thờ ở đền chứ chưa phải ở đình. Cả đến khi Lý Thái Tổ sai quan đến tế và phong Tô Lịch làm Quốc đô thành hoàng thì cũng vẫn ở ngôi đền cũ. Cho mãi đến thời Lê, theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục, nói về thể chế quy định kiểu thức kiến trúc các ngôi đền thờ ở kinh sư vào niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) đời Lê Thánh Tông, thì trong số 8 ngôi đền thượng đẳng thần được liệt kê, có bao gồm ngôi đền Đô đại thành hoàng (6, tr. 59). Như vậy, từ thời Lý đến thời Lê, nơi thờ thần thành hoàng đều ở đền. Còn sang thời Nguyễn, chúng tôi tìm đọc Đại Nam nhất thống chí, một công trình được coi như tồng tập đầy đủ về địa chí các tỉnh thời Nguyễn (tính từ nửa đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 của nước Đại Nam) thì nơi thờ thành hoàng đều ở miếu mà không ở đền. Qua 32 tỉnh được ghi trong Đại Nam nhất thống chí, tỉnh thành nào cũng có miếu thành hoàng, thường đặt ở phía tây tỉnh thành và hầu hết đều được xây dựng từ thời Thiệu Trị, phần lớn là năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), năm Thiệu Trị thứ hai (1842). Có một vài trường hợp ghi là thờ Bản cảnh thành hoàng/ Bản tỉnh thành hoàng, còn hầu hét không ghi cụ thể (7). Qua các cứ liệu lịch sử như vừa trình bày, cho phép chúng ta có thể nghĩ rằng, tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam là có hai dòng, một dòng được thờ ở đền miếu của tỉnh thành/ đô thị, và một dòng được thờ ở đình làng. Nói đến dòng tín ngưỡng thành hoàng ở đình làng là căn cứ vào tư liệu nghiên cứu của chúng tôi về thần tích, thần sắc trong mối quan hệ với các nghi thức thờ cúng thành hoàng làng. Trong chuyên khảo của mình, chúng tôi đã trình bày rõ, việc biên soạn thần tích thành văn bản với một quy mô lớn là từ thời Lê. Chẳng hạn, vào niên hiệu Hồng Phúc nguyên niên (1572) thời Lê Anh Tông, triều đình đã hạ lệnh cho các làng xã phải kê khai thần tích/ thần phả để xét duyệt, chỉnh lý và bao phong. Việc này được giao cho một viên quan bộ Lễ là Nguyễn Bính phụ trách (10, tr.181). Tác giả Nguyễn Duy Hinh từ góc nhìn tôn giáo học đã viết cuốn Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, chủ yếu từ việc KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT nghiên cứu khá kỹ các văn bản thần tích, thần sắc, cho rằng: “Việc lập đình, ban sắc phong thành hoàng có thể diễn ra đầu thời Lê, nhưng tư liệu chắc chắn đã biết thì thuộc thời Lê Thánh Tông (1460-1497) (9, tr.380). Bản thân chúng tôi, khi biên soạn bộ Tổng tập truyền thuyết dân gian người Việt6 lại có dịp tiếp xúc với hàng ngàn văn bản thần tích7, qua đó càng thấy rõ mối quan hệ giữa thần thành hoàng với ngôi đình làng. 3. So sánh với tín ngưỡng thành hoàng ở Trung Quốc Như trên đã trình bày, tín ngưỡng thành hoàng là từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam, song nguồn gốc lịch sử của tín ngưỡng này ra sao, vai trò và chức năng cùng diễn biến lịch sử của thần thành hoàng ở Trung Quốc như thế nào, v.v... đó là những điều chúng ta cần phải nắm bắt, dù chỉ ở mức tôi thiểu, để có thể trên cơ sở đó mà xem xét quá trình tiếp biến văn hóa (acculturation) và bản địa hóa tín ngưỡng thành hoàng của người Việt. Sau đây là một số nội dung cơ bản về thành hoàng Trung Quốc, do chúng tôi lược thuật như một Phụ lục khoa học để chúng ta cùng tham khảo. Thành hoàng nghĩa chữ Hán chỉ là hào nước quanh thành, thường nói “thành cao hào sâu”, hoặc “thành trì”. Thời cổ sơ, người ta tế thủy dung (hào nước) coi như vị thần bảo hộ tòa thành, dần dần thành tên thần gọi thần thành hoàng. Thần thành hoàng có chức năng bảo hộ thành trì, phù trợ cho dân khang vật thịnh, giúp dân trong cầu mưa chống hạn, chống thiên tai địch họa. Từ Đường, Tống trở đi tín ngưỡng thành hoàng mới phổ biến, có đền rồi có miếu thờ. Lúc đầu dường như là một vị thần siêu nhiên, vô nhân xưng. Theo giới nghiên cứu Trung Quốc, tín ngưỡng thành hoàng có trước, muộn hơn về sau mới có miếu thờ. Kiến trúc miếu thành hoàng theo kiểu thức quan thự, xây dựng giống như một quan nha. Từ đời Minh, kiến trúc miếu thờ thành hoàng mới bắt đầu to đẹp, đàng hoàng. Điều này là do hoàng đế Chu Nguyên Chương lệnh cho các phủ, châu, huyện đều phải xây miếu thờ thành hoàng, kiểu thức là phỏng theo kiến trúc các lỵ sở quan nha đương thời. Đến thời Thanh, kiến trúc miếu thành hoàng càng lộng lẫy như cung điện, hai cửa miếu có sư tử đá hoặc đồng canh giữ. Thần thành hoàng được đắp nặn bằng đất thếp vàng, hoặc tạc bằng gỗ phủ sơn để rước trong lễ hội “thành hoàng xuất tuần” (Thành hoàng đi dạo chơi phố phường). Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đều nói: “Thần thành hoàng là thần bảo hộ thành thị (thành thị bảo hộ thần) trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc”, hoặc: “Tín ngưỡng thành hoàng là tín ngưỡng của thành thị do đó, chủ thể tín ngưỡng là cư dân thành thị mà không phải là nông thôn” (10), (11). Thành hoàng là thần bảo hộ thành thị, đó là đặc điểm/ đặc tính của tín ngưỡng thành hoàng Trung Quốc. Các miếu thành hoàng ở các tỉnh thành được ghi trong Đại Nam nhất thống chí, cho thấy rõ đó là ảnh hưởng tín ngưỡng thành hoàng Trung Quốc. Còn dòng thành hoàng được ghi trong các thần tích, gắn với việc thờ tự ở đình làng, chính là dòng tín ngưỡng thành hoàng đã bản địa hóa, do dung hợp với các thần linh bản địa vốn đã có từ xa xưa của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Do đó, chức năng của các thần thành hoàng làng là bảo hộ xóm làng và mùa màng của cư dân nông nghiệp. Về mối quan hệ giữa tín ngưỡng thành hoàng với kiến trúc đình làng, theo quy luật tín ngưỡng có trước nơi thờ tự có sau8, chúng tôi cũng cho rằng đình làng đã xuất hiện từ thời Lê sơ, thế kỷ XV, tuy nhiên đình với đầy đủ các chức năng tín ngưỡng - văn hóa - xã hội, cùng với những yếu tố tạo hình mỹ thuật hoàn chỉnh thì phải từ thế kỷ XVI, thời Mạc. Tuy nhiên, theo giới nghiên cứu lịch sử mỹ thuật, thì thế kỷ XVII mới là giai đoạn phát triển phong phú của kiến trúc và điêu khắc đình làng, đặc biệt là giai đoạn nửa sau của thế kỷ XVIII. K.T.H (GS.TS, Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian) KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT Chú thích: 1 Niên hiệu thời vua Lê Tương Dực từ 1509 đến 1516. 2 Câu chúc tụng nhà vua thân thể khỏe mạnh, sống lâu muôn tuổi. 3 Theo Từ nguyên, từ Tần Hán đã có trường đình, đoản đình, là nơi người đi đường nghỉ ngơi và tiễn biệt nhau. 4 Bản dịch của Nxb. Văn hóa, 1959, ghi “Kể chuyện lên Kinh” là sai. Thượng ở đây không phải động từ, Thượng Kinh là danh từ chỉ thủ đô/ kinh đô (Theo Từ nguyên, Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi cũng ghi Thượng Kinh để chi Thăng Long). 5 Bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 263, cho biết vua chạy lánh cuộc nổi dậy cảa Mạc Đăng Dung. 6 Sách do Nxb Khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội, 2004. 7 Theo TS. Nguyễn Hữu Mùi chuyên trách nhiều năm về kho thư tịch thần tích, thì số lượng văn bản thần tích ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có khoảng 5.500 bản. 8. Theo Trung Quốc thành hoàng tín ngưỡng, 1994, tr. 135. Tài liệu dẫn 1. Alexandre De Rhodes, Từ điển Annam - Lusitan - La Tinh (Thường gọi Từ điển Việt - Bồ La) tên đầy đủ theo nguyên văn là Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, Roma, 1651. (Hiện có bản phiên dịch của nhóm Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, do Nxb. Khoa học xã hội xuất bản năm 1991) 2. Ban Hán Nôm (1978), Tuyển tập văn bia Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Phan Kế Bình (1995), Việt Nam phong tục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đại Việt sử kỷ toàn thư (1985), Bản dịch Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lê Quý Đôn (1973) , Đại Việt thông sử, Bản dịch của Bộ Văn hóa - Giáo dục và thanh niên xuất bản, Sài Gòn. 6. Lê Quý Đôn (1997), Kiến văn tiểu lục, Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 7. Đại Nam nhất thống chí, bản dịch mới của Hoàng Văn Lâu (2012), Nxb. Lao động - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây. 8. Nguyễn Văn Huyên (1938) Contribution à l`étude d`un génie tutélaire annamite Lý Phục Man (Góp phần vào việc nghiên cứu một vị thần thành hoàng An Nam, Lý Phục Man), Viện Viễn Đông Bác Cổ (BEFEO) 9. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 10. Kiều Thu Hoạch (1971): Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến, trong Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 11. Trương Trạch Hồng, “Thành hoàng thần cập kỳ tín ngưỡng”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo thế giới, số 1 - 1995. 12. Trịnh Thổ Hữu, Vương Hiền Diểu, Trung Quốc thành hoàng tín ngưỡng, Thượng Hải Tam liên thư điếm. 13. Nguyễn Văn Khoan (1930) Essai sur le đình et le culte du génie tutélaire des villages au Tonkin (Khảo luận về ngôi đình và việc thờ thần thành hoàng của các làng xã ở Bắc Kỳ), Viện Viễn Đông Bác Cổ (BEFEO) 14. Nguyễn Vĩnh Phúc, Nguyễn Duy Hinh (2004), Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị dân, Nxb. Hà Nội. 15. Lý Văn Phức(1829), Hồi kinh nhật ký (Ký hiệu VNv216, kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm) soạn Minh Mệnh năm thứ 10. 16. Nguyễn Văn Uẩn (1995), Hà Nội nửa đầu thế ky XX, tập 2, Nxb. Hà Nội. Ngày nhận bài: 26 - 2 - 2017 Ngày phản biện, đánh giá: 16 - 3 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017 KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT
File đính kèm:
- ban_them_ve_nguon_goc_dinh_lang.pdf