Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2017

Digoxin là glycosid tim được chiết tách từ

cây dương địa hoàng tía. Năm 1785, nhà hóa

học, thực vật học và vật lý học người Anh,

William Withering đã công bố kết quả nghiên

cứu của mình về khả năng sử dụng cây

Digitalis purpurea để điều trị phù do tim (suy

tim sung huyết). Tuy đã được sử dụng trên

lâm sàng trong thời gian dài, nhưng Cơ quan

quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ

(FDA) chỉ phê duyệt chỉ định điều trị suy

tim cho digoxin vào những năm cuối của thập

niên 90. Một chỉ định khác được FDA công

nhận là điều trị rung nhĩ. Trên lâm sàng,

digoxin còn được sử dụng ngoài chỉ định được

phê duyệt (off-label) trong điều trị loạn nhịp

nhanh của thai nhi, nhịp nhanh trên thất, tâm

phế mạn và tăng áp phổi.

Cơ chế tác dụng của thuốc dựa trên khả

năng ức chế bơm Na+-K+-ATPase, tăng trao

đổi natri­calci; làm tăng nồng độ calci nội

bào, dẫn đến tăng co bóp cơ tim. Digoxin cũng

có các đặc tính cường phó giao cảm. Do làm

tăng trương lực phế vị ở nút xoang nhĩ và nút

nhĩ thất, digoxin làm chậm nhịp và dẫn truyền

nhĩ thất. Bảng 1 tóm tắt một số đặc tính

dược lý quan trọng của digoxin.

pdf 20 trang yennguyen 2560
Bạn đang xem tài liệu "Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2017

Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2017
Môc lôc 
Chịu trách nhiệm xuất bản: PGS. TS. Nguyễn Đăng Hòa 
Ban biên tập: PGS. TS. Nguyễn Trường Sơn 
PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh 
TS. Nguyễn Quốc Bình 
ThS. Võ Thị Thu Thủy 
Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại 
của thuốc 
Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội 
Điện thoại: (024) 3933 5618 - Fax: (024) 3933 5642 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
Sö DôNG hîp lý, an toµn DIGOXIN TRONG 
thùc hµnh l©m sµng 
1 
ThËn träng khi sö dông teicoplanin ë 
bÖnh nh©n qu¸ mÉn víi vancomycin 
7 
Tæng kÕt ho¹t ®éng b¸o c¸o adr quý I 
n¨m 2017 
9 
C¶nh b¸o an toµn thuèc 12 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C D¦îC 15 
Bản tin được đăng tải trên trang tin trực tuyến  
Giấy phép xuất bản số 18/GP-XBBT do Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 
18/3/2016. 
Thiết kế: KS. Đặng Bích Việt 
DS. Lương Anh Tùng 
No.2 - 2017 | Bulletin of Pharmacovigilance| 1 
Sö DôNG hîp lý, an toµn DIGOXIN TRONG thùc hµnh 
l©m sµng 
Nguồn: US Pharm. 2015;40(2):44-48 
Người dịch: Dương Thị Thanh Mai, Lương Anh Tùng 
Digoxin là glycosid tim có tác dụng tăng sức co bóp cơ tim và thay đổi cung lượng tim, 
được dùng để điều trị suy tim, rung nhĩ và một số trường hợp ngoài chỉ định được phê duyệt. 
Thuốc được chứng minh làm giảm tỷ lệ nhập viện nhưng không làm giảm tử vong ở bệnh 
nhân suy tim. Digoxin kiểm soát hiệu quả nhịp tim ở bệnh nhân rung nhĩ, tuy nhiên còn nhiều 
tranh cãi về ảnh hưởng của thuốc trên nguy cơ tử vong ở nhóm bệnh nhân này. Hiện tại, sử 
dụng digoxin tương đối hạn chế do phạm vi điều trị hẹp của thuốc và cần giám sát chặt chẽ 
trong quá trình điều trị. Digoxin có nhiều tác dụng không mong muốn, tương tác thuốc và có 
khả năng gây ngộ độc. Tuy có những hạn chế trên, digoxin vẫn có vị trí nhất định trong phác 
đồ điều trị. 
Digoxin là glycosid tim được chiết tách từ 
cây dương địa hoàng tía. Năm 1785, nhà hóa 
học, thực vật học và vật lý học người Anh, 
William Withering đã công bố kết quả nghiên 
cứu của mình về khả năng sử dụng cây 
Digitalis purpurea để điều trị phù do tim (suy 
tim sung huyết). Tuy đã được sử dụng trên 
lâm sàng trong thời gian dài, nhưng Cơ quan 
quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ 
(FDA) chỉ phê duyệt chỉ định điều trị suy 
tim cho digoxin vào những năm cuối của thập 
niên 90. Một chỉ định khác được FDA công 
nhận là điều trị rung nhĩ. Trên lâm sàng, 
digoxin còn được sử dụng ngoài chỉ định được 
phê duyệt (off-label) trong điều trị loạn nhịp 
nhanh của thai nhi, nhịp nhanh trên thất, tâm 
phế mạn và tăng áp phổi. 
Cơ chế tác dụng của thuốc dựa trên khả 
năng ức chế bơm Na+-K+-ATPase, tăng trao 
đổi natri­calci; làm tăng nồng độ calci nội 
bào, dẫn đến tăng co bóp cơ tim. Digoxin cũng 
có các đặc tính cường phó giao cảm. Do làm 
tăng trương lực phế vị ở nút xoang nhĩ và nút 
nhĩ thất, digoxin làm chậm nhịp và dẫn truyền 
nhĩ thất. Bảng 1 tóm tắt một số đặc tính 
dược lý quan trọng của digoxin. 
Mặc dù đã được tìm thấy từ tương đối lâu, 
nhưng việc sử dụng digoxin trong thực hành 
bị hạn chế bởi một số yếu tố bao gồm phạm vi 
điều trị hẹp, yêu cầu giám sát chặt chẽ, có 
nhiều tác dụng không mong muốn và khả 
năng tương tác với nhiều thuốc. Tuy 
vậy, digoxin vẫn có vai trò nhất định trong 
điều trị suy tim, rung nhĩ và còn được sử dụng 
trong một số trường hợp khác ngoài chỉ định 
được phê duyệt. Với những chỉ định này, 
digoxin được coi như một liệu pháp thay thế 
hơn là lựa chọn đầu tay. 
Theo các hướng dẫn điều trị hiện nay, 
digoxin có thể được sử dụng để bổ sung cùng 
chẹn beta hoặc thuốc ức chế men chuyển/ 
chẹn thụ thể AT1 trong kiểm soát suy tim 
sung huyết. Digoxin làm chậm nhịp tim và 
giảm bệnh suất ở bệnh nhân rung nhĩ. Thuốc 
chủ yếu được sử dụng như một liệu pháp điều 
trị bổ sung cho bệnh nhân rung nhĩ có nhịp 
tim không được kiểm soát hoàn toàn bằng 
chẹn beta. Nhờ tác dụng co cơ dương 
tính, digoxin có thể có tác dụng trong trường 
hợp tăng áp động mạch phổi, tuy nhiên cần 
có thêm nghiên cứu để đánh giá những tác 
động lâu dài của digoxin với nhóm bệnh nhân 
này. 
Digoxin và suy tim 
Suy tim sung huyết là một dạng suy giảm 
chức năng tim liên quan đến giảm co bóp cơ 
tim, giãn tâm thất/áp lực đổ đầy tim hoặc cả 
hai yếu tố trên. Trong suy tim sung huyết, co 
bóp của tim giảm, làm giảm cung lượng 
tim. Digoxin có hiệu quả trên bệnh nhân suy 
tim sung huyết nhờ đặc tính co cơ dương 
tính. Mặc dù các nghiên cứu đã chỉ ra 
rằng digoxin làm giảm tỷ lệ nhập viện và cải 
thiện triệu chứng của suy tim, khả năng làm 
giảm tỷ lệ tử vong của thuốc vẫn chưa được 
chứng minh. 
Vai trò của digoxin trong điều trị suy tim đã 
được đánh giá trong nhiều nghiên cứu lâm 
sàng. Trong một nghiên cứu mù đôi có kiểm 
soát về việc sử dụng digoxin trong điều trị suy 
tim sung huyết, bệnh nhân có suy giảm chức 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2017 
năng cơ tim được lựa chọn ngẫu nhiên để 
dùng digoxin hoặc placebo trong vòng 7 tuần. 
Nhóm bệnh nhân dùng placebo có tình trạng 
bệnh xấu đi nhanh hơn nhiều so với nhóm 
dùng digoxin. Chức năng của tim, lượng giá 
thông qua phân suất tống máu, được cải thiện 
rõ rệt ở nhóm bệnh nhân dùng digoxin. Nhiều 
thử nghiệm lâm sàng khác cũng cho thấy tác 
dụng co cơ dương tính của digoxin có hiệu quả 
trong kiểm soát suy tim sung huyết. 
Theo hướng dẫn kiểm soát suy tim của 
Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ/Hội Tim Hoa Kỳ 
năm 2013 (ACCF/AHA), digoxin cải thiện các 
triệu chứng, chất lượng cuộc sống và dung nạp 
gắng sức ở bệnh nhân suy tim ở mức độ nhẹ 
và trung bình, không phụ thuộc vào nhịp nền 
của bệnh nhân (nhịp xoang nhĩ bình thường 
hay rung nhĩ). Do đó, digoxin có thể được xem 
như một liệu pháp điều trị bổ sung cho bệnh 
nhân có các triệu chứng suy tim dai dẳng dù 
đã điều trị với thuốc ức chế men chuyển hoặc 
chẹn thụ thể AT1 hay các thuốc chẹn 
beta. Digoxin còn có thể được sử dụng cho các 
bệnh nhân suy tim giai đoạn C (bệnh tim cấu 
trúc có các triệu chứng suy tim trước đây hoặc 
hiện có) hay suy tim giai đoạn D (triệu chứng 
suy tim lúc nghỉ và tái nhập viện dù đã được 
Bảng 1: Tóm tắt một số đặc tính dược lý quan trọng của digoxin 
Liều Hiệu chỉnh liều 
Nồng độ 
điều trị 
trong 
huyết 
thanh 
Sinh khả dụng Dược động học 
Suy tim 
- Liều nạp 
(LD): Không 
khuyến cáo 
- Liều duy trì 
(MD): 0,125 - 
0,25 mg/ngày 
MD: Thanh thải 
creatinin (ClCr) >120 
mL/phút: 0,25 mg dùng 
1 lần/ngày; ClCr 80-120 
mL/phút: xen kẽ 0,25 
mg và 0,125 mg dùng 1 
lần/ngày; ClCr 30-80 
mL/phút: 0,125 mg 
dùng 1 lần/ngày; ClCr 
<30 mL/phút: 0,125 mg 
mỗi 48 giờ. Bệnh nhân 
>70 tuổi nên dùng 
0,125 mg/ngày hoặc 
cách một ngày dùng 
một lần. Giảm nửa liều 
cho bệnh nhân bệnh 
thận giai đoạn cuối. 
0,5-0,9 
ng/mL 
Uống: 70%; 
Viên nang: 90%; 
Elexir: 80%; 
Đường tĩnh mạch: 
100% 
Thời gian thuốc 
phát huy tác 
dụng: đường 
tĩnh mạch: 
15-30 phút; 
uống: 30-120 
phút. 
Tác dụng đỉnh: 
đường tĩnh 
mạch: 1-3 giờ; 
uống: 2-6 giờ. 
Rung nhĩ 
- LD: 0,25 mg 
đường uống/ 
tĩnh mạch mỗi 
2 giờ (tối đa 
1,5 mg/24 
giờ); 
- MD: 0,25-
0,375 mg 
đường uống/ 
tĩnh mạch mỗi 
ngày 
MD: ClCr >50 mL/phút: 
không cần hiệu chỉnh 
liều; ClCr 10-50 mL/
phút: 25%-75% liều 
bình thường hàng ngày, 
mỗi 36 giờ; ClCr <10 
mL/phút: 10%-25% liều 
hàng ngày mỗi 48 giờ. 
Bệnh nhân lọc máu liên 
tục: 25%-75% liều 
hàng ngày mỗi 36 giờ. 
0,8-1,2 
ng/mL 
Không áp dụng Không áp dụng 
No.2 - 2017 | Bulletin of Pharmacovigilance| 3 
điều trị). Bệnh nhân suy tim không nên sử 
dụng digoxin mà không dựa trên nền thuốc 
ức chế men chuyển hoặc chẹn beta. Mặc 
dù digoxin được kê đơn cho bệnh nhân suy 
tim và rung nhĩ, khi dùng đồng thời với thuốc 
chẹn beta, digoxin thường có hiệu quả hơn 
trong kiểm soát đáp ứng tâm thất, đặc biệt là 
khi gắng sức. 
Liều khởi đầu của digoxin là 0,125 mg đến 
0,25 mg uống hàng ngày. Cần hiệu chỉnh liều 
dựa trên chức năng thận và tuổi của bệnh 
nhân (bảng 1). Nồng độ đích cần đạt của 
digoxin trong huyết thanh với bệnh nhân suy 
tim dao động từ 0,5 ng/mL đến 0,9 ng/mL. 
Tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong của suy 
tim 
Digoxin có tác dụng làm giảm các triệu 
chứng của suy tim. Tác dụng của thuốc trên 
tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong của suy tim cũng 
được đánh giá. 
Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi có đối 
chứng giả dược đã được thực hiện để đánh 
giá tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong ở bệnh 
nhân suy tim với phân suất tống máu của 
thất trái <0,45 và được điều trị bằng 
digoxin. Không có sự khác biệt về đặc điểm 
bệnh nhân tại thời điểm khởi đầu điều trị giữa 
các nhóm, các bệnh nhân được theo dõi với 
thời gian trung bình 37 tháng. Tiêu chí đánh 
giá chính là tỷ lệ tử vong; tiêu chí đánh giá 
phụ của nghiên cứu là tiêu chí gộp tử vong do 
nguyên nhân tim mạch, tử vong do suy tim 
tiến triển và nhập viện do các nguyên nhân 
khác (ngộ độc digoxin). 
Kết quả phân tích theo dự định điều trị cho 
thấy có 1181 ca tử vong trong nhóm sử dụng 
digoxin và 1194 ca tử vong trong nhóm dùng 
giả dược (34,8% so với 35,1%, 95% CI 0,91- 
1,07, p=0,8 [khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê]). Số bệnh nhân nhập viện trong 
nhóm dùng digoxin ít hơn nhóm dùng giả 
dược (tương ứng 910 và 1180 bệnh nhân; tỷ 
suất nguy cơ 0,72, 95% CI 0,66-
0,79, p<0,001). Nguy cơ trên tiêu chí gộp tử 
vong do suy tim tiến triển hoặc nằm viện thấp 
hơn ở nhóm điều trị bằng 
digoxin (1041 và 1291, p<0,001). Kết quả 
nghiên cứu cho thấy digoxin không có tác 
động trên tử vong chung, nhưng làm giảm rõ 
rệt nguy cơ nhập viện do suy tim tiến triển. 
Digoxin và rung nhĩ 
Rung nhĩ là một dạng rối loạn nhịp tim phổ 
biến, trong đó xuất hiện các xung điện bất 
thường trong tim, làm tim co bóp không nhịp 
nhàng và không hiệu quả. Điều này dẫn 
đến ứ đọng máu trong tim, gia tăng khả năng 
xuất hiện huyết khối, có thể gây ra hậu quả 
nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim hay đột 
quỵ. Rung nhĩ có thể được kiểm soát bằng 
các thuốc ảnh hưởng đến nhịp hoặc nhịp điệu 
của tim. Digoxin có hiệu quả trong điều trị 
rung nhĩ do tác dụng kiểm soát nhịp tim. 
Một nghiên cứu lâm sàng bắt chéo, mù đôi 
và ngẫu nhiên đa trung tâm đánh giá hiệu 
quả của việc sử dụng digoxin so với giả dược 
đã được thực hiện trên 43 bệnh nhân rung 
nhĩ kịch phát. Bệnh nhân đều ≥18 tuổi, có 
một hoặc nhiều đợt rung nhĩ tự chấm dứt mỗi 
tháng. Tiêu chí đánh giá của nghiên cứu là 
thời gian đến khi xuất hiện một hoặc hai đợt 
rung nhĩ được ghi lại bằng thiết bị giám sát 
điện tim trên bệnh nhân. Thời gian trung bình 
giữa hai đợt rung nhĩ là 13,5 ngày ở nhóm 
dùng placebo và 18,7 ngày ở nhóm dùng 
digoxin (p<0,05). Thời gian trung bình của 
một đợt rung nhĩ là 3,5 ngày đối với nhóm 
dùng giả dược so với 5,4 ngày ở nhóm dùng 
digoxin (p<0,05). Nhịp thất trung bình trong 
một đợt rung nhĩ tương ứng là 138±32 nhịp/
phút và 125±35 nhịp/phút ở nhóm dùng 
placebo và nhóm dùng digoxin (p<0,01). Kết 
quả cho thấy digoxin giúp giảm tần suất xuất 
hiện các đợt rung nhĩ với mức độ tương đối 
hạn chế, chủ yếu do giảm nhịp thất hơn là tác 
dụng chống loạn nhịp. 
Một nghiên cứu thuần tập hồi cứu thực 
hiện gần đây trên 122465 bệnh nhân mới 
được chẩn đoán rung nhĩ (độ tuổi trung bình 
là 72) cho thấy tỷ lệ tử vong tích lũy cao hơn 
trong nhóm điều trị bằng digoxin so với nhóm 
không được điều trị (p<0,001). Sử dụng 
digoxin trở thành yếu tố độc lập ảnh hưởng 
đến nguy cơ tử vong sau khi đã loại bỏ các 
yếu tố nhiễu khác như tuổi, chức năng thận, 
tuân thủ điều trị và tiền sử mắc các bệnh tim 
mạch khác. Tác động bất lợi trên tử vong của 
digoxin trong rung nhĩ cần được nghiên cứu 
thêm. 
Theo hướng dẫn của ACCF/AHA, kết quả 
lâm sàng liên quan đến triệu chứng là tương 
tự nhau cho dù rung nhĩ có được kiểm soát 
bằng nhịp hoặc nhịp điệu hay không. Mặc dù 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2017 
hai cách tiếp cận này tương đương nhau trong 
viêc giảm nhẹ triệu chứng, liệu pháp kiểm 
soát nhịp điệu làm tăng sức bền với các test 
gắng sức. Digoxin là một trong những thuốc 
được dùng để kiểm soát nhịp tim (được coi là 
kiểm soát đạt yêu cầu khi đáp ứng tâm thất 
đạt 60 đến 80 nhịp/phút lúc nghỉ và 90 đến 
115 nhịp/phút với các test gắng sức trung 
bình). Thuốc đầu tay trong kiểm soát nhịp tim 
bao gồm diltiazem, verapamil, esmolol và các 
thuốc chẹn beta khác. So với digoxin, các 
thuốc này được ưu tiên khuyến cáo sử dụng 
hơn và có bằng chứng rõ ràng hơn về hiệu 
quả. Digoxin không được coi là thuốc điều trị 
đầu tay do phạm vi điều trị hẹp (yêu cầu theo 
dõi chặt chẽ) và có nhiều tương tác 
thuốc. Bệnh nhân có nguy cơ ngộ độc 
digoxin cao (suy thận, người cao tuổi, có 
nhiều tương tác với digoxin) cần được theo 
dõi thường xuyên hơn so với các bệnh nhân 
trẻ, không có các bệnh mắc kèm hoặc không 
dùng đồng thời nhiều thuốc. 
Digoxin và tăng áp động mạch phổi 
Tăng áp động mạch phổi là bệnh lý tiến 
triển trong đó lưu lượng máu qua động mạch 
phổi bị hạn chế dẫn đến tăng sức cản của 
mạch phổi, hậu quả cuối cùng là gây suy tim 
phải. Tăng áp động mạch phổi được định 
nghĩa là áp lực động mạch phổi >25 mmHg 
khi nghỉ hoặc >30 mmHg khi gắng sức. Hiện 
tại, các lựa chọn điều trị cho tăng áp động 
mạch phổi bao gồm liệu pháp hỗ trợ và phối 
hợp với các thuốc như digoxin, lợi 
tiểu, warfarin và chẹn kênh calci (CCB). 
Tăng áp động mạch phổi thường liên quan 
đến hoạt hóa giao cảm, do vậy digoxin có thể 
được sử dụng do đặc tính hủy giao cảm thần 
kinh của thuốc này. Các hướng dẫn điều 
trị tăng áp động mạch phổi hiện tại đề cập 
ngắn gọn đến việc sử dụng digoxin do hiệu 
quả của thuốc trên cung lượng tim và nồng 
độ noradrenalin lưu hành trong tuần hoàn. Do 
đó, việc sử dụng digoxin cho bệnh nhân tăng 
áp động mạch phổi cần dựa trên quyết định 
của bác sĩ lâm sàng. Sử dụng digoxin trong 
điều trị tăng áp động mạch phổi chưa được 
nghiên cứu đầy đủ trên lâm sàng, đồng thời 
cơ chế tác dụng vẫn chưa được sáng tỏ hoàn 
toàn. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa một 
nghiên cứu lâm sàng tiến cứu ngẫu nhiên nào 
được thực hiện để trả lời câu hỏi này. 
Cảnh báo và thận trọng 
Bệnh nhân block nhĩ thất hoặc block xoang 
không được dùng digoxin khi chưa đặt máy 
tạo nhịp. Cần thận trọng khi phối hợp digoxin 
với c ... n và 
diclofenac dùng đường toàn thân: Bổ sung 
nguy cơ huyết khối tim mạch vào mục “Cảnh 
báo và thận trọng” và mục “Tác dụng không 
mong muốn” trên nhãn thuốc. 
- Các thuốc chống viêm không steroid 
(NSAID), không phải aspirin, dùng đường 
toàn thân, có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện 
biến cố huyết khối tim mạch, bao gồm cả 
nhồi máu cơ tim và đột quỵ, có thể dẫn đến 
tử vong. Nguy cơ này có thể xuất hiện sớm 
trong vài tuần đầu dùng thuốc và có thể tăng 
lên theo thời gian dùng thuốc. Nguy cơ huyết 
khối tim mạch được ghi nhận chủ yếu ở liều 
cao. 
- Bác sĩ cần đánh giá định kỳ sự xuất hiện 
của các biến cố tim mạch, ngay cả khi bệnh 
nhân không có các triệu chứng tim mạch 
trước đó. Bệnh nhân cần được cảnh báo về 
các triệu chứng của biến cố tim mạch nghiêm 
trọng và cần thăm khám bác sĩ ngay khi xuất 
hiện các triệu chứng này. 
- Để giảm thiểu nguy cơ xuất hiện biến cố 
bất lợi, cần sử dụng thuốc ở liều hàng ngày 
thấp nhất có hiệu quả trong thời gian ngắn 
nhất có thể. 
Riêng với thuốc chứa diclofenac dùng 
đường toàn thân (đường uống, tiêm và đặt 
trực tràng): Chống chỉ định cho bệnh nhân 
suy tim sung huyết (từ độ II đến độ IV theo 
phân độ chức năng của suy tim theo Hội Tim 
New York - NYHA), bệnh tim thiếu máu cục 
bộ, bệnh động mạch ngoại vi, bệnh mạch 
máu não. Cần cân nhắc cẩn thận khi sử dụng 
diclofenac cho bệnh nhân có các yếu tố nguy 
cơ xuất hiện các biến cố tim mạch rõ rệt (như 
tăng huyết áp, tăng lipid huyết thanh, đái 
tháo đường, nghiện thuốc lá). 
Hydroxyzin: Cập nhật thông tin dược 
lý nhằm giảm thiểu nguy cơ liên quan 
đến nhịp tim 
Trong thời gian qua, Cơ quan Quản lý 
Dược phẩm châu Âu (EMA) đã tiến hành đánh 
giá lại độ an toàn của thuốc chứa hoạt chất 
hydroxyzin và đưa ra các biện pháp mới nhằm 
giảm thiểu nguy cơ liên quan đến nhịp tim khi 
sử dụng các thuốc chứa hoạt chất hydroxyzin. 
Tiếp theo công văn số 20391/QLD-TT ngày 
02/11/2015 của Cục Quản lý Dược về việc 
cung cấp các thông tin cho cán bộ y tế về độ 
an toàn của các thuốc chứa hoạt chất 
hydroxyzin, ngày 27/4/2017 Cục Quản lý 
Dược tiếp tục có công văn số 5750/QLD-ĐK 
về việc cập nhật thông tin dược lý đối với 
thuốc chứa hoạt chất hydroxyzin. 
Theo đó, hydroxyzin cần được sử dụng ở 
liều thấp nhất có hiệu quả và trong thời gian 
ngắn nhất có thể. Ở người lớn và trẻ em có 
cân nặng trên 40 kg, liều tối đa hàng ngày là 
100 mg/ngày. Ở người cao tuổi, không nên 
sử dụng hydroxyzin, nếu bắt buộc phải dùng, 
liều dùng tối đa hàng ngày là 50 mg/ngày. Ở 
trẻ em có cân nặng dưới 40 kg, liều tối đa 
hàng ngày là 2 mg/kg/ngày. 
Chống chỉ định hydroxyzin cho bệnh nhân 
có kéo dài khoảng QT mắc phải hoặc bẩm 
sinh; bệnh nhân có yếu tố nguy cơ kéo dài 
khoảng QT bao gồm bệnh tim mạch, rối loạn 
điện giải nghiêm trọng (hạ kali máu, hạ 
magnesi máu), tiền sử gia đình có người đột 
tử do nguyên nhân tim mạch, chậm nhịp tim 
nghiêm trọng hoặc đang sử dụng các thuốc 
có nguy cơ kéo dài khoảng QT hoặc gây xoắn 
đỉnh. 
Chống chỉ định sử dụng kết hợp 
hydroxyzin với các thuốc gây kéo dài khoảng 
QT hoặc gây xoắn đỉnh do làm tăng nguy cơ 
loạn nhịp tim: các thuốc chống loạn nhịp 
nhóm IA (như quinidin, disopyramid) và nhóm 
III (như amiodaron, sotalol), một số thuốc 
kháng histamin, một số thuốc chống loạn 
thần (như haloperidol), một số thuốc chống 
trầm cảm (như citalopram, escitalopram), một 
số thuốc chống sốt rét (như mefloquin), một 
số thuốc kháng sinh (như erythromycin, 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2017 
levofloxacin, moxifloxacin), một số thuốc 
kháng nấm (như pentamidin), một số thuốc 
tác dụng trên hệ tiêu hóa (như prucaloprid), 
một số thuốc được sử dụng trong ung thư (ví 
dụ toremifen, vandetanib), methadon. 
Thận trọng khi sử dụng hydroxyzin cùng 
các thuốc làm chậm nhịp tim và gây hạ kali 
máu. Bên cạnh đó, hydroxyzin được chuyển 
hóa bởi enzym alcol dehydrogenase và 
CYP3A4, CYP3A5. Do đó, khi sử dụng đồng 
thời hydroxyzin với các thuốc có khả năng ức 
chế những enzym này có thể làm tăng nồng 
độ hydroxyzin trong máu. 
Warfarin: Cập nhật nhãn về chứng 
calci hóa mạch máu và hoại tử da 
Ngày 30/3/2017, Cục Quản lý Dược đã có 
công văn số 4040/QLD-TT cung cấp các 
thông tin cho cán bộ y tế về độ an toàn, hiệu 
quả của các thuốc chứa warfarin. Sau đó là 
công văn số 5751/QLD-ĐK ngày 27/4/2017 về 
việc cập nhật thông tin dược lý đối với thuốc 
chứa warfarin trong tờ hướng dẫn sử dụng 
thuốc. 
Theo công văn này, mục “Cảnh báo và 
thận trọng” trên nhãn thuốc và tờ hướng dẫn 
sử dụng thuốc cần được bổ sung thông tin về 
chứng calci hóa mạch máu và hoại tử da 
(calciphylaxis): Đây là hội chứng hiếm gặp 
và có tỷ lệ tử vong cao. Hội chứng này 
thường gặp trên bệnh nhân bệnh thận giai 
đoạn cuối có lọc máu hoặc trên bệnh nhân có 
một số yếu tố nguy cơ như: thiếu hụt protein 
C hoặc S, tăng phosphat máu, tăng calci máu 
hoặc hạ albumin máu. Các trường hợp calci 
hóa mạch máu và hoại tử da đã được ghi 
nhận trên cả bệnh nhân sử dụng warfarin 
không có bệnh lý thận. Trong trường hợp xảy 
ra hội chứng này, bệnh nhân cần được xử trí 
thích hợp và cân nhắc ngừng sử dụng 
warfarin. 
Chứng calci hóa mạch máu và hoại tử da 
(calciphylaxis) cũng được bổ sung vào mục 
“Tác dụng không mong muốn” trên nhãn 
thuốc và tờ hướng dẫn sử dung thuốc. 
Trước đây, tháng 7/2016, Cơ quan quản lý 
Dược phẩm và Sản phẩm y tế Anh (MHRA) đã 
cảnh báo về nguy cơ xảy ra chứng calci hóa 
mạch máu và hoại tử da (calciphylaxis) liên 
quan đến việc sử dụng thuốc chứa warfarin. 
Một cuộc rà soát trên toàn châu Âu cho thấy 
việc sử dụng warfarin có thể dẫn tới tình 
trạng calci hóa mạch máu và hoại tử da. Đây 
là một tình trạng hiếm gặp nhưng nghiêm 
trọng và có tỷ lệ tử vong cao. 
Testosteron: Cập nhật thông tin dược 
lý 
Tháng 02/2015, Cục Quản lý Dược đã có 
công văn số 2484/QLD-TT cung cấp thông tin 
cho cán bộ y tế về độ an toàn, hiệu quả của 
các thuốc chứa testosteron. Ngày 19/5/2017, 
Cục Quản lý Dược tiếp tục có công văn số 
6922/QLD-ĐK về việc cập nhật thông tin dược 
lý đối với thuốc chứa testosteron. 
Theo đó, testosteron được chỉ định điều trị 
thiểu năng sinh dục do thiếu hormon hướng 
sinh dục (do bẩm sinh hoặc mắc phải): thiếu 
hụt gonadotropin hoặc hormon kích thích giải 
phóng hormon tạo hoàng thể (LHRH), tổn 
thương trục tuyến yên - dưới đồi do khối u, 
chấn thương, hoặc bức xạ. Độ an toàn và 
hiệu quả của testosteron trên nam giới bị 
thiểu năng sinh dục do lão hóa (còn được gọi 
là “thiểu năng sinh dục khởi phát muộn”) 
chưa được chứng minh. Trước khi bắt đầu sử 
dụng testosteron, cần chẩn đoán xác định 
tình trạng thiểu năng sinh dục bằng cách đo 
nồng độ testosteron huyết thanh vào buổi 
sáng trong hai ngày khác nhau và kết quả 
nồng độ testosteron đo được đều thấp hơn 
khoảng giá trị bình thường. 
Mục “Cảnh báo và thận trọng” trên nhãn 
thuốc cũng được cập nhật thêm các thông tin 
về nguy cơ tim mạch, lạm dụng testosteron 
và giám sát nồng độ testosteron huyết thanh. 
Trong đó, testosteron thường bị lạm dụng ở 
mức liều cao hơn khuyến cáo cho các chỉ định 
được phê duyệt hoặc sử dụng kết hợp với các 
hormon steroid sinh dục nam đồng hóa 
(anabolic androgenic steroid - AAS) khác. Lạm 
dụng AAS có thể dẫn đến các phản ứng có hại 
nghiêm trọng trên tim mạch và thần kinh. 
Nếu nghi ngờ có lạm dụng testosteron, cần 
kiểm tra nồng độ testosteron huyết thanh để 
đảm bảo nồng độ của thuốc nằm trong phạm 
vi điều trị. Tuy nhiên, nồng độ testosteron có 
thể nằm trong hoặc thấp hơn mức bình 
thường ở bệnh nhân lạm dụng các dẫn chất 
testosteron tổng hợp. Bác sĩ cần tư vấn bệnh 
nhân lưu ý các phản ứng có hại nghiêm trọng 
liên quan đến lạm dụng testosteron và các 
AAS. Ngược lại, cần cân nhắc khả năng lạm 
No.2 - 2017 | Bulletin of Pharmacovigilance| 15 
dụng testosteron và các AAS trên bệnh nhân 
gặp biến cố có hại nghiêm trọng trên tim 
mạch hoặc tâm thần. 
Quý đồng nghiệp có thể tham khảo nội dung các văn bản trên tại địa chỉ 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C D¦îC 
Nguyễn Thị Tuyến, Nguyễn Mai Hoa, Nguyễn Phương Thúy 
Thay đổi thông tin kê đơn với các 
kháng sinh vancomycin: Khuyến cáo của 
EMA 
Ngày 19/5/2017, Cơ quan Quản lý Dược 
phẩm châu Âu (EMA) đã khuyến cáo thay đổi 
thông tin kê đơn đối với các kháng sinh 
vancomycin để đảm bảo sử dụng phù hợp 
trong điều trị nhiễm khuẩn nặng do vi khuẩn 
Gram (+). 
Ủy ban các sản phẩm thuốc sử dụng cho 
người (CHMP) thuộc EMA đã đánh giá các dữ 
liệu sẵn có của các thuốc vancomycin đường 
tiêm truyền, đường tiêm và đường uống trong 
chiến lược cập nhật thông tin sản phẩm của 
các kháng sinh cũ nhằm chống lại tình trạng 
vi khuẩn kháng thuốc. 
CHMP kết luận vancomycin đường tiêm 
truyền có thể tiếp tục sử dụng để điều trị 
nhiễm khuẩn nghiêm trọng do một số vi 
khuẩn bao gồm tụ cầu vàng kháng methicilin 
(MRSA) ở bệnh nhân trong mọi lứa tuổi. 
Vancomycin cũng được sử dụng để dự phòng 
viêm màng trong tim do vi khuẩn ở bệnh 
nhân phẫu thuật tim mạch và điều trị nhiễm 
khuẩn ở bệnh nhân thẩm phân phúc mạc. 
Dạng uống vancomycin nên giới hạn sử dụng 
để điều trị nhiễm khuẩn do Clostridium 
difficile. 
Do dữ liệu hiện có chưa đầy đủ để minh 
chứng việc sử dụng vancomycin trong điều trị 
viêm ruột do S. aureus và làm sạch vi khuẩn 
trong ruột ở bệnh nhân có hệ miễn dịch yếu, 
nên CHMP khuyến cáo không sử dụng 
vancomycin cho các chỉ định này. 
Thêm vào đó, CHMP đã đánh giá về liều 
khuyến cáo của vancomycin đối với các chỉ 
định và nhóm bệnh nhân, và kết luận rằng 
liều khởi đầu của vancomycin dạng tiêm 
truyền nên được tính toán theo tuổi và cân 
nặng của bệnh nhân. Các khuyến cáo cập 
nhật dựa trên các dữ liệu cho thấy liều 
khuyến cáo trước đây thường dẫn đến nồng 
độ trong máu của vancomycin thấp hơn nồng 
độ tối ưu của thuốc, làm giảm hiệu quả điều 
trị của kháng sinh. 
Thông tin dành cho cán bộ y tế: 
* Dịch truyền vancomycin: 
- Dịch truyền vancomycin có thể được sử 
dụng ở bệnh nhân trong tất cả các lứa tuổi để 
điều trị nhiễm khuẩn mô mềm biến chứng, 
nhiễm khuẩn xương, khớp, viêm phổi mắc 
phải ở cộng đồng và bệnh viện (bao gồm 
viêm phổi liên quan đến thở máy), viêm màng 
trong tim do vi khuẩn, viêm màng não do vi 
khuẩn cấp tính, nhiễm khuẩn huyết liên quan 
đến các nhiễm khuẩn trên. Thuốc này được 
sử dụng dự phòng phẫu thuật với bệnh nhân 
có nguy cơ viêm màng trong tim do vi khuẩn 
và để điều trị viêm phúc mạc liên quan đến 
thẩm phân phúc mạc. 
- Liều khởi đầu khuyến cáo của dịch 
truyền vancomycin cần được tính toán dựa 
trên tuổi và cân nặng của bệnh nhân. Các dữ 
liệu hiện có chỉ ra rằng liều dùng hàng ngày 
khuyến cáo trước đây tạo ra nồng độ 
vancomycin trong huyết thanh thấp hơn nồng 
độ tối ưu. 
- Bất cứ việc điều chỉnh liều nào sau đó 
nên dựa vào nồng độ thuốc trong huyết 
thanh để đạt nồng độ điều trị đích. 
- Các dạng vancomycin dùng ngoài đường 
tiêu hóa được chấp nhận dùng đường uống 
có thể dùng để uống cho bệnh nhân ở mọi 
lứa tuổi để điều trị nhiễm khuẩn Clostridium 
difficile. 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2017 
- Các dạng vancomycin dùng ngoài đường 
tiêu hóa được phê duyệt dùng qua đường 
phúc mạc có thể được sử dụng cho bệnh 
nhân ở mọi lứa tuổi để điều trị viêm phúc mạc 
liên quan đến thẩm phân phúc mạc. 
* Các dạng viên nang vancomycin: 
- Do dữ liệu hiện có chưa đầy đủ để chứng 
minh hiệu quả của việc sử dụng vancomycin 
đường uống trong điều trị viêm ruột do tụ cầu 
và khử nhiễm đường tiêu hóa ở bệnh nhân có 
hệ miễn dịch yếu. Do vậy, không nên sử dụng 
vancomycin cho các chỉ định này. 
- Viên nang vancomycin có thể được sử 
dụng cho bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên để 
điều trị nhiễm khuẩn Clostridium difficile. Cần 
sử dụng các dạng bào chế phù hợp với trẻ 
nhỏ hơn. 
- Liều tối đa của thuốc không nên vượt 
quá 2 g/ngày. 
- Ở bệnh nhân có viêm ruột, nồng độ 
vancomycin trong huyết thanh khi sử dụng 
chế phẩm đường uống cần được theo dõi 
chặt chẽ. 
Nhắc lại nguyên tắc sử dụng kali 
clorid đường tĩnh mạch: Khuyến cáo từ 
ANSM 
Ngày 30/5/2017, Cơ quan Quản lý Dược 
phẩm Pháp (ANSM) thông báo đã ghi nhận 
các báo cáo sai sót về thuốc liên quan đến 
việc tiêm tĩnh mạch kali clorid (KCl) nồng độ 
cao trực tiếp, không qua pha loãng. Sai sót 
này có thể gây hậu quả nghiêm trọng, thậm 
chí tử vong cho người bệnh. ANSM đã nhắc 
lại rằng dung dịch KCl ưu trương chỉ được 
truyền tĩnh mạch chậm cho bệnh nhân sau 
khi đã được pha loãng. 
* Khuyến cáo dành cho bác sĩ: Tuân 
thủ các nguyên tắc kê đơn 
- Ưu tiên dùng dạng uống cho bệnh nhân 
hạ kali máu mức độ nhẹ đến trung bình. 
- Ưu tiên kê đơn dạng túi đã được pha 
loãng trước. 
- Luôn ghi rõ trên đơn thuốc: 
+ Liều dùng: số g KCl cần truyền cho 
người lớn và số mmol/kg mỗi ngày đối với trẻ 
em: 1 g KCl = 13,4 mmol kali (K +). 
+ Tổng thể tích dung môi (NaCl 0,9% 
hoặc glucose 5%). 
+ Truyền tĩnh mạch. 
+ Tốc độ truyền: truyền tĩnh mạch chậm 
không vượt quá 1 g KCl/giờ. 
+ Đặc biệt chú ý áp dụng khuyến cáo phù 
hợp cho các bệnh nhân cần hạn chế dịch, 
bệnh nhi và bệnh nhân trong hồi sức tích cực. 
+ Kiểm tra tổng lượng KCl và tương tác 
với các thuốc làm tăng kali máu. 
* Khuyến cáo dành cho điều dưỡng: 
Thuốc cần được pha loãng, truyền chậm 
- Đọc kỹ thông tin trên nhãn thuốc. 
- Không nên bị gián đoạn khi pha chế 
thuốc và nên kiểm tra lại chế phẩm nếu có 
thể. 
- Luôn pha loãng dung dịch ưu trương 
(nồng độ tối đa 4 g/L KCl hay 53,6 mmol/L 
kali với người lớn) hoặc sử dụng một túi pha 
loãng trước. 
- Ghi trên nhãn liều lượng và tổng thể tích. 
- Truyền tĩnh mạch chậm có kiểm soát tốc 
độ (không vượt quá 1 g KCl/giờ hay 13,4 
mmol kali/giờ với người lớn). 
- Giám sát các thông số lâm sàng và cận 
lâm sàng khi truyền. 
- Không dùng đường tĩnh mạch trực tiếp 
và không bao giờ sử dụng thuốc theo đường 
tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. 
* Khuyến cáo dành cho dược sĩ: Lưu 
trữ thuốc phù hợp 
- Ưu tiên việc cung cấp dung dịch được 
pha loãng trước. 
- Hạn chế tối đa việc lưu trữ các dung dịch 
KCl đặc trong chăm sóc và cung cấp cho các 
cơ sở và thủ tục khi có nhu cầu khẩn cấp. 
- Gắn nhãn cảnh báo ở nơi lưu trữ và đặt 
ở khu vực riêng với các dung dịch điện giải 
khác. 

File đính kèm:

  • pdfban_tin_canh_giac_duoc_so_22017.pdf