Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2019

Thuốc chống viêm không steroid (NSAID)

là một trong các nhóm thuốc giảm đau,

chống viêm và hạ sốt được sử dụng nhiều

nhất trên thị trường. Hiện nay, có khoảng

trên 15 loại NSAID khác nhau được bán trên

thị trường Hoa Kỳ dưới dạng thuốc kê đơn

và thuốc không kê đơn (OTC). Mặc dù

NSAID thường được dùng hàng ngày, việc

sử dụng các thuốc này có thể gây ra các tác

dụng không mong muốn khác nhau, từ kích

ứng đường tiêu hóa đến phản vệ nghiêm

trọng và đe dọa tính mạng người bệnh. Phản

ứng quá mẫn do NSAID (NHR) đã được ghi

nhận trong khoảng 0,3%-6% dân số nói

chung và chiếm 20%-30% tất cả các phản

ứng liên quan đến thuốc, chỉ đứng sau các

phản ứng quá mẫn liên quan đến kháng

sinh.

Các bệnh nhân có nguy cơ mắc NHR cao

nhất là những người mắc bệnh lý trên da và

hô hấp mạn tính. Trên thực tế, có tới 30%

các bệnh nhân mắc bệnh về da và/hoặc hô

hấp mạn tính có nguy cơ gặp NHR. Bên cạnh

đó, phản ứng quá mẫn vẫn có thể xảy ra ở

những người không có các bệnh lý này

pdf 20 trang yennguyen 5400
Bạn đang xem tài liệu "Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2019

Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2019
Môc lôc 
Chịu trách nhiệm xuất bản: GS. TS. Nguyễn Thanh Bình 
Chịu trách nhiệm nội dung: PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh 
Ban biên tập và trị sự: ThS. Võ Thị Thu Thủy 
ThS. Đặng Bích Việt 
DS. Lương Anh Tùng 
Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của 
thuốc - Trường Đại học Dược Hà Nội. 
Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội 
Điện thoại: (024) 3933 5618 - Fax: (024) 3933 5642 
QU¶N Lý C¸C PH¶N øNG QU¸ MÉN 
DO THUèC CHèNG VI£M 
KH¤NG STEROID 
1 
Ph¶n øng cã h¹i cÇn l-u ý khi 
sö dông glucosamin 
5 
TæNG KÕT HO¹T §éNG B¸O C¸O 
PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC 
(th¸ng 11/2018 – th¸ng 04/2019) 
9 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C D¦îC 12 
Bản tin được đăng tải trên trang tin trực tuyến  
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
No.2 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 1 
QU¶N Lý C¸C PH¶N øNG QU¸ MÉN DO THUèC CHèNG VI£M 
KH¤NG STEROID 
Nguồn: US Pharm. 2019;44(3):22-26 
Người dịch: Lưu Thị Thu Trang, Lương Anh Tùng 
Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) 
là một trong các nhóm thuốc giảm đau, 
chống viêm và hạ sốt được sử dụng nhiều 
nhất trên thị trường. Hiện nay, có khoảng 
trên 15 loại NSAID khác nhau được bán trên 
thị trường Hoa Kỳ dưới dạng thuốc kê đơn 
và thuốc không kê đơn (OTC). Mặc dù 
NSAID thường được dùng hàng ngày, việc 
sử dụng các thuốc này có thể gây ra các tác 
dụng không mong muốn khác nhau, từ kích 
ứng đường tiêu hóa đến phản vệ nghiêm 
trọng và đe dọa tính mạng người bệnh. Phản 
ứng quá mẫn do NSAID (NHR) đã được ghi 
nhận trong khoảng 0,3%-6% dân số nói 
chung và chiếm 20%-30% tất cả các phản 
ứng liên quan đến thuốc, chỉ đứng sau các 
phản ứng quá mẫn liên quan đến kháng 
sinh. 
Các bệnh nhân có nguy cơ mắc NHR cao 
nhất là những người mắc bệnh lý trên da và 
hô hấp mạn tính. Trên thực tế, có tới 30% 
các bệnh nhân mắc bệnh về da và/hoặc hô 
hấp mạn tính có nguy cơ gặp NHR. Bên cạnh 
đó, phản ứng quá mẫn vẫn có thể xảy ra ở 
những người không có các bệnh lý này. 
Do tần suất xuất hiện và sự phức tạp của 
NHR, nhiều nỗ lực hợp tác quốc tế đã được 
thực hiện với mục đích phân loại và quản lý 
các phản ứng này. Trong đó, các chiến lược 
quản lý và phân loại năm 2013 do Viện Dị 
ứng và Miễn dịch lâm sàng châu Âu 
(European Academy of Allergy and Clinical 
Immunology) đưa ra đạt được sự đồng 
thuận rộng rãi nhất. Theo phân loại này, các 
phản ứng quá mẫn được chia thành hai 
nhóm: Nhóm phản ứng không qua trung 
gian miễn dịch (phản ứng chéo hoặc không 
phải dị ứng) và nhóm phản ứng qua trung 
gian miễn dịch (phản ứng chọn lọc hoặc dị 
ứng). Sau đó, các phản ứng tiếp tục được 
chia nhỏ hơn dựa trên bệnh lý nền và thời 
gian xuất hiện phản ứng (bảng 1). 
Các phản ứng quá mẫn không dị ứng 
do NSAID 
Phản ứng không dị ứng do NSAID là 
những phản ứng tương tự dị ứng nhưng 
không qua trung gian miễn dịch. Các phản 
ứng này chủ yếu xảy ra do sự ức chế enzym 
cyclooxygenase-1 (COX-1). Ức chế COX-1 
làm thay đổi con đường chuyển hóa acid 
arachidonic từ việc sản xuất các 
prostaglandin chống viêm, mang tính bảo vệ, 
sang sản xuất các chất trung gian tiền viêm, 
bạch cầu ái toan và tế bào mast. Sau đó, các 
chất tiền viêm này có thể gây sản xuất quá 
mức cysteinyl leukotrien (CysLTs), làm gia 
tăng thụ thể CysLTs trong cơ phế quản, tế 
bào nội mô và biểu mô. Điều này có thể gây 
ra hoặc làm trầm trọng thêm các phản ứng 
trên da và/hoặc hô hấp. 
Phản ứng không dị ứng do NSAID là phản 
ứng chéo, do đó, những bệnh nhân xuất 
hiện phản ứng này có thể có phản ứng với 
bất kỳ NSAID nào ức chế mạnh enzym 
COX-1, bao gồm aspirin (bảng 2). Mặt khác, 
các NSAID ức chế chọn lọc enzym 
cyclooxygenase-2 (COX-2) mạnh và các 
NSAID ức chế COX-1 yếu thường được dung 
nạp tốt trong quần thể bệnh nhân này. 
Có 3 loại NHR không do dị ứng: Bệnh da 
niêm kịch phát do NSAID (NECD); mày đay/
phù mạch khởi phát do NSAID (NIUA) gây ra 
các triệu chứng trên da; bệnh hô hấp kịch 
phát do NSAID (NERD) gây ra các triệu 
chứng hô hấp. 
TÓM TẮT: Mặc dù thuốc chống viêm không steroid (NSAID) là một trong những nhóm 
thuốc được kê đơn và sử dụng phổ biến nhất, các thuốc này cũng có thể gây ra các tác dụng 
không mong muốn, đặc biệt là phản ứng quá mẫn do NSAID (NHR). NHR được chia thành 5 
loại, dựa trên đặc điểm phản ứng qua hoặc không qua trung gian miễn dịch. Triệu chứng của 
các phản ứng này có thể bao gồm phản ứng trên hệ hô hấp, da và phù mạch. Dược sĩ cần lưu 
ý và nắm được sự khác biệt giữa các loại NHR để có biện pháp xử trí phù hợp. 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2019 
Bảng 1: Hệ thống phân loại phản ứng quá mẫn do NSAID 
Phản ứng 
Cơ chế giả định Thời gian 
khởi phát 
Bệnh lý nền Phản 
ứng 
chéo 
Tỷ lệ 
so với 
số ca 
mắc 
Bệnh lý trên da trầm 
trọng thêm do NSAID 
Không 
dị ứng 
Ức chế 
COX-1 
Cấp tính Nổi mề đay Có 8% 
Bệnh lý hô hấp trầm 
trọng thêm do NSAID 
Không 
dị ứng 
Ức chế 
COX-1 
Cấp tính Hen 
Viêm mũi xoang 
Có 8% 
Nổi mề đay/phù mạch 
do NSAID 
Không 
dị ứng 
Ức chế 
COX-1 
Cấp tính Không có bệnh 
lý nền mạn tính 
Có 40% 
Nổi mề đay, phù mạch 
hoặc phản vệ do NSAID 
hoặc cả hai 
Dị ứng Qua 
trung 
gian IgE 
Cấp tính Không có bệnh 
lý nền mạn tính 
Không 20% 
Phản ứng muộn do 
NSAID 
Dị ứng Qua 
trung 
gian tế 
bào T 
Muộn Không có bệnh 
lý nền mạn tính 
Không 5% 
Phản ứng kết hợp/khác 19% 
Ghi chú: COX-1: Cyclooxygenase-1; IgE: Globulin miễn dịch E; NSAID: Thuốc chống viêm không 
steroid 
Bảng 2: Cấu trúc hóa học của các NSAID thường gặp 
Nhóm cấu trúc Thuốc điển hình Đặc điểm 
Dẫn xuất acid salicylic Aspirin Ức chế COX-1 mạnh 
Dẫn xuất của acid propionic Ibuprofen, naproxen, ketoprofen, 
oxaprozin 
Ức chế COX-1 mạnh 
Dẫn xuất của acid acetic Indomethacin, sulindac, etodolac, 
ketorolac, diclofenac, nabumeton 
Ức chế COX-1 mạnh 
Dẫn xuất của para-aminophenol Paracetamol Ức chế COX-1 yếu 
Dẫn xuất của acid enolic Meloxicam, piroxicam Ức chế COX-2 > Ức chế 
COX-1 
Thuốc ức chế chọn lọc COX-2 Celecoxib Ức chế chọn lọc mạnh 
COX-2 
Ghi chú: COX-1: Cyclooxygenase-1; COX-2: Cyclooxygenase-2; NSAID: Thuốc chống viêm không 
steroid 
NECD: Phản ứng NECD xảy ra ở những 
bệnh nhân mắc mề đay tự phát mạn tính 
(CSU). Những bệnh nhân này nổi mề đay 
hoặc bị nổi mề đay nghiêm trọng hơn sau khi 
dùng NSAID. NECD chiếm khoảng 8% trong 
tất cả các trường hợp NHR và có khoảng 
10% đến 30% các bệnh nhân mắc CSU sẽ 
xuất hiện đợt bùng phát bệnh sau khi sử 
dụng NSAID. Các triệu chứng chủ yếu giới 
hạn ở lớp trung bì (dermis) và hạ bì 
(subcutaneous) của da và không liên quan 
đến hô hấp. 
Các triệu chứng thường xuất hiện trong 
vòng 30 phút đến 4 giờ sau khi dùng NSAID. 
Tuy nhiên, các triệu chứng chậm xảy ra đến 
24 giờ sau khi dùng thuốc cũng đã được ghi 
nhận. Mức độ nghiêm trọng của các triệu 
chứng do NSAID gây ra phụ thuộc vào liều 
dùng; và có thể trầm trọng hơn nếu bệnh 
nhân có triệu chứng mày đay mạn tính đang 
hoạt động. Các triệu chứng thường giảm dần 
trong vài giờ, nhưng có thể kéo dài đến vài 
ngày. Việc phơi nhiễm liên tục với các NSAID 
ức chế COX-1 mạnh, bao gồm aspirin, có thể 
dẫn đến CSU không kiểm soát được. Do đó, 
nên tránh dùng thuốc ức chế COX-1 ở bệnh 
nhân có tiền sử NECD. Thuốc ức chế chọn lọc 
COX-2 celecoxib thường được dung nạp tốt 
No.2 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 3 
hơn, nhưng nên được bắt đầu trong điều 
kiện bệnh nhân được giám sát lâm sàng chặt 
chẽ để khẳng định tính dung nạp trên bệnh 
nhân. 
Các phản ứng NECD được ghi nhận phụ 
thuộc vào liều. Do đó, những bệnh nhân cần 
dùng aspirin để dự phòng giảm các biến cố 
tim mạch nguyên phát hoặc thứ phát và có 
tiền sử NECD có xu hướng đáp ứng tốt hơn 
với liều dùng aspirin (với mục đích bảo vệ tim 
mạch) thấp (81 mg) so với liều cao hơn. Mặc 
dù dữ liệu còn hạn chế, việc sử dụng thuốc 
kháng histamin trước khi điều trị giúp giảm 
tác dụng của phản ứng NECD cũng đã được 
báo cáo. Trong một nghiên cứu hồi cứu, 
những bệnh nhân bị đau tái phát và có tiền 
sử NECD đã được điều trị trước bằng thuốc 
kháng histamin H1 tác dụng kéo dài vào thời 
điểm 30 phút trước khi dùng NSAID. Nghiên 
cứu kết luận rằng việc xử trí trước bằng 
thuốc kháng histamin có thể giúp cải thiện 
khả năng dung nạp thuốc ức chế COX-1 liều 
thấp. 
NIUA: Phản ứng NIUA xảy ra ở người 
khỏe mạnh (không có tiền sử CSU), với biểu 
hiện nổi mề đay và/hoặc phù mạch sau khi 
dùng ít nhất 2 NSAID không liên quan đến 
nhau về cấu trúc hóa học. NIUA được ước 
tính chiếm tới 40% các ca NHR và 60% các 
phản ứng không liên quan đến miễn dịch. 
Mặc dù vẫn có các báo cáo về phản ứng 
muộn, các triệu chứng NIUA chủ yếu xảy ra 
nhanh trong vòng 30-90 phút sau khi dùng 
thuốc. Các triệu chứng thường bao gồm phù 
mạch và nổi mày đay, xuất hiện đồng thời 
hoặc đơn độc. Hầu hết các NSAID ức chế 
COX-1 mạnh có thể gây ra các triệu chứng ở 
bệnh nhân xuất hiện NIUA. Paracetamol liều 
cao (≥1.000 mg), có tác dụng ức chế COX-1 
yếu, vẫn có thể gây ra NIUA với tần suất lên 
tới 25% bệnh nhân. Tuy nhiên, celecoxib ức 
chế chọn lọc cao COX-2 thường được dung 
nạp tốt. 
Ban đầu, để ngăn ngừa phản ứng chéo và 
tái phát, nên tránh dùng tất cả NSAID ức chế 
COX-1 mạnh ở bệnh nhân có tiền sử NIUA. 
Nếu cần sử dụng NSAID để giảm đau hoặc 
chống viêm, có thể thử dùng thuốc ức chế 
COX-1 yếu với liều thấp hoặc thuốc ức chế 
chọn lọc cao COX-2. 
Bệnh nhân có tiền sử NIUA cần dùng 
aspirin kéo dài để dự phòng nguy cơ tim 
mạch có thể được điều trị bằng aspirin sau 
khi giải mẫn cảm (ATAD). Giải mẫn cảm aspi-
rin được thực hiện bằng cách tăng từ từ liều 
aspirin cho bệnh nhân để cố gắng loại bỏ dần 
các phản ứng dược lý và miễn dịch. Một số 
hướng dẫn giải mẫn cảm aspirin đã được 
công bố và nên được thực hiện dưới sự giám 
sát của bác sĩ có kinh nghiệm. Tùy thuộc 
mức độ khẩn cấp và điều kiện lâm sàng, quá 
trình giải mẫn cảm có thể kéo dài trong vài 
giờ đến vài ngày. Giải mẫn cảm chỉ nên được 
thực hiện với những bệnh nhân cần dùng 
thuốc kéo dài, vì yêu cầu sử dụng thuốc hàng 
ngày là cần thiết khi quyết định tiến hành 
giải mẫn cảm aspirin. 
Mặc dù các phản ứng NIUA đã được ghi 
nhận từ lâu trong y văn như một phần của dị 
ứng, cần cân nhắc đánh giá lại phản ứng này 
sau một thời gian. Trong một nghiên cứu, 
khoảng 63% bệnh nhân có phản ứng NIUA 
thực sự, đã được khẳng định, dung nạp với 
NSAID trong vòng 72 tháng sau phản ứng 
trước đó, ngay cả khi không được giải mẫn 
cảm. 
NERD: Phản ứng NERD được đặc trưng 
bởi sự phát triển của các triệu chứng trên hô 
hấp như tức ngực, co thắt phế quản, viêm 
mũi, polyp mũi và/hoặc nghẹt mũi sau khi 
dùng một hoặc nhiều NSAID. Tình trạng này 
xảy ra ở những bệnh nhân mắc bệnh mạn 
tính ở đường hô hấp dưới hoặc trên (bảng 
3). NERD cũng được coi là rối loạn viêm bạch 
cầu ái toan mạn tính và những bệnh nhân 
này thường có bạch cầu ái toan trong máu 
cao hơn bình thường. Tỷ lệ mắc NERD thay 
đổi từ 4% đến 20% tùy thuộc số lượng đối 
tượng tham gia nghiên cứu, đặc biệt bệnh 
nhân hen phế quản nặng và nữ giới có tỷ lệ 
mắc cao hơn. Các triệu chứng thường xuất 
hiện trong vòng 30 phút đến 3 giờ sau khi 
dùng NSAID. 
Với NIUA, nên tránh dùng NSAID ức chế 
COX-1 mạnh sau khi xuất hiện NERD để ngăn 
ngừa phản ứng chéo. Các thuốc ức chế 
COX-1 yếu, liều thấp (như paracetamol 
≤1.000 mg) và thuốc ức chế chọn lọc mạnh 
COX-2 thường được dung nạp tốt; tuy nhiên, 
một tỷ lệ nhỏ (<2%) bệnh nhân hen không 
ổn định có thể gặp phản ứng. Với bệnh nhân 
cần điều trị bằng aspirin hoặc NSAID mạn 
tính, ATAD có thể được coi là một lựa chọn 
điều trị để quản lý bệnh nhân NERD 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2019 
(bảng 4). ATAD có liên quan đến việc giảm 
các triệu chứng hô hấp mạn tính, sử dụng 
corticosteroid trong mũi, polyp mũi và bùng 
phát hen. Bùng phát hen và viêm mũi xoang 
dị ứng ở bệnh nhân tiến triển NERD nên 
được quản lý trực tiếp theo hướng dẫn điều 
trị quốc tế. 
Phản ứng quá mẫn kiểu dị ứng do 
NSAID 
NHR dị ứng không phải là phản ứng chéo, 
mà là phản ứng qua trung gian miễn dịch 
dựa trên đáp ứng của globulin miễn dịch E 
(IgE) hoặc tế bào T. Những phản ứng này 
không phụ thuộc vào sự ức chế COX-1 và có 
thể được gây ra bởi một NSAID duy nhất 
hoặc bởi một nhóm các NSAID có cấu trúc 
hóa học tương tự nhau. Có hai loại NHR dị 
ứng chiếm ưu thế, bao gồm mày đay/phù 
mạch hoặc phản vệ do một loại NSAID 
(SNIUAA) và phản ứng muộn do một NSAID 
(SNIDR). Những phản ứng này khác nhau về 
thời gian xuất hiện (cấp tính hoặc muộn) và 
không liên quan đến bất kỳ trạng thái bệnh lý 
nền mạn tính nào. 
SNIUAA: Phản ứng SNIUAA chiếm hơn 
20% các ca NHR, đặc trưng bởi nổi mày đay, 
phù mạch hoặc phản vệ sau khi dùng một 
NSAID hoặc các NSAID có cấu trúc hóa học 
tương tự nhau. Các triệu chứng của SNIUAA 
thường xuất hiện nhanh chóng, trong vòng 
vài giây đến vài phút. Thời gian và đặc điểm 
của các triệu chứng liên quan đến SNIUAA 
gợi ý đến phản ứng miễn dịch typ 1, và các 
kháng thể IgE cụ thể thường có thể được 
phát hiện trong các xét nghiệm da của một 
số bệnh nhân. Tất cả các NSAID đều có thể 
gây ra phản ứng SNIUAA. Diclofenac và 
Bước 1: Các triệu chứng hô hấp xuất 
hiện sau khi dùng NSAID 
 Hơi thở ngắn 
 Chảy nước mũi 
 Nghẹt mũi 
Bước 2: Bệnh lý hô hấp nền  Viêm mũi xoang mạn tính kèm polyp mũi 
 Hen mức độ trung bình đến nặng 
 Tăng bạch cầu ưa acid trong máu 
Bước 3: Tiền sử phản ứng với NSAID 
tin cậy 
 Một hoặc nhiều phản ứng với (các) NSAID 
 Phản ứng với nhiều NSAID 
 Phản ứng gần nhất trong vòng 5 năm trở lại đây 
Bước 4: Thử nghiệm aspirin đường 
uống, đường hít hoặc đường mũi 
 Dương tính: Chẩn đoán NERD 
 Âm tính: Loại trừ NERD 
Lưu ý: 
 Nếu bước 1 thỏa mãn, tiếp tục bước 2 và 3. 
 Nếu bước 2 và 3 thỏa mãn, có thể chẩn đoán NERD ở bệnh nhân. 
 Nếu bước 2 hoặc 3 không thỏa mãn hoặc tiền sử không chắc chắn, tiếp tục bước 4 để 
chẩn đoán khẳng định. 
Bảng 3: Chẩn đoán bệnh hô hấp kịch phát do NSAID (NERD) 
Bảng 4: Chỉ định điều trị bằng aspirin sau khi giải mẫn cảm 
 Polyp mũi tái phát (*) 
 Phòng ngừa polyp mũi sau phẫu thuật 
 Kiểm soát hen dưới mức tối ưu dù được điều trị nội khoa tiêu chuẩn (*) 
 Kiểm soát viêm mũi xoang dưới mức tối ưu (như mất khả năng ngửi) dù được điều trị nội 
khoa tiêu chuẩn (*) 
 Cần giảm sử dụng corticoid đường uống dùng dài ngày 
 Cần dùng liệu pháp kháng kết tập tiểu cầu với aspirin sau đột quỵ do thiếu máu cục bộ 
hoặc bệnh tim 
Ghi chú: (*) Riêng với quản lý bệnh hô hấp kịch phát do NSAID. 
No.2 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 5 
aspirin là các NSAID có liên quan nhiều nhất 
đến phản ứng này tại Hoa Kỳ. 
Chẩn đoán SNIUAA được xác định ở 
những bệnh nhân không mắc bệnh lý nền ở 
da có phản ứng ngay lập tức sau khi dùng 
một NSAID. Để phân biệt các phản ứng 
SNIUAA với các phản ứng không dị ứng (ví 
dụ: NIUA), những bệnh nhân này có thể 
được thử nghiệm bằng đường uống với chất 
ức chế COX-1 mạnh không liên quan về mặt 
hóa học. Cần phòng tránh việc phơi nhiễm 
với thuốc nghi ngờ và các thuốc có cấu trúc 
tương tự (bảng 2). ...  trị sản giật hoặc bảo vệ thần kinh thai 
nhi. 
Cảnh báo của FDA Hoa Kỳ dựa trên 4 báo 
cáo về gãy xương và 35 báo cáo về thiếu 
xương (osteopenia) hoặc bất thường trong 
ảnh chụp X quang xương ở trẻ sơ sinh, trong 
đó một số báo cáo cũng mô tả về giảm calci 
huyết và tăng magnesi huyết ở trẻ sơ sinh. Ý 
nghĩa lâm sàng trong thời gian dài của thuốc 
ảnh hưởng đến xương và sinh hóa chưa được 
biết rõ do các bằng chứng sẵn có chỉ cho thấy 
tác dụng thoáng qua. 
Nhìn chung, hầu hết các trường hợp trên 
lâm sàng quan sát được sau khi dùng 
magnesi sulfat liều cao trong thời gian dài, 
tuy nhiên vẫn có một số báo cáo về mất cân 
bằng điện giải ở trẻ sơ sinh sau khi dùng liều 
thấp hơn hoặc thời gian điều trị dưới 5 ngày 
(ví dụ: Giảm calci máu có ý nghĩa lâm sàng ở 
trẻ sơ sinh sau khi dùng liều tích lũy khoảng 
100 g magnesi sulfat). 
Đánh giá quốc gia về nguy cơ khi sử 
dụng kéo dài 
MHRA chưa nhận được bất kỳ báo cáo nào 
ở Anh về tác dụng không mong muốn trên 
xương hoặc sinh hóa ở trẻ sơ sinh sau khi sử 
dụng magnesi sulfat cho mẹ để bảo vệ thần 
kinh thai nhi. Tuy nhiên, dữ liệu cho thấy việc 
sử dụng đang gia tăng ở Anh. Do đó, cán bộ 
y tế cần thận trọng đối với bất kỳ tác dụng 
không mong muốn nào trong thời kỳ sơ sinh 
nếu trẻ đã phơi nhiễm lâu dài với magnesi 
sulfat trong tử cung. 
Ủy ban Thuốc sử dụng trên người (CHM) 
và nhóm chuyên gia về sử dụng thuốc ở phụ 
nữ và trẻ em của cơ quan này đã rà soát dữ 
liệu về việc sử dụng magnesi sulfat ở Anh. 
Dựa trên các khuyến cáo của cơ quan này, 
thông tin sản phẩm của các thuốc chứa 
magnesi sulfat sẽ được cập nhật để cảnh báo 
về các tác dụng không mong muốn trên 
xương ghi nhận được khi thời gian sử dụng 
trong thai kỳ kéo dài hơn 5-7 ngày. 
Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: 
 Việc người mẹ sử dụng magnesi sulfat trong thai kỳ kéo dài hơn 5-7 ngày có thể liên 
quan đến tác dụng không mong muốn trên thai nhi, bao gồm giảm calci máu, khử 
khoáng xương, thiếu xương và các tác dụng không mong muốn khác trên xương. 
 Cán bộ y tế cần theo dõi trẻ sơ sinh về nồng độ calci và magnesi bất thường và tác 
dụng không mong muốn trên xương nếu mẹ sử dụng magnesi sulfat kéo dài hoặc lặp 
lại trong thai kỳ (ví dụ: Dùng nhiều liệu trình hoặc kéo dài thời gian sử dụng lâu hơn 24 
giờ). 
Esomeprazol và phản ứng nữ hóa 
tuyến vú ở nam giới trưởng thành béo 
phì: Thông tin từ WHO Pharmaceuticals 
Newsletter 
Theo WHO Pharmaceuticals Newsletter 
tháng 2/2019, nữ hóa tuyến vú 
(gynaecomastia) là tình trạng tuyến vú sưng 
bất thường ở nam giới, có thể do nguyên 
nhân về sinh lý, chuyển hóa, tự phát, tác 
dụng dược lý hoặc do quá trình khám và 
điều trị bệnh gây ra. Ngoài ra, có nhiều 
trường hợp không xác định được nguyên 
nhân. 
Trong chứng nữ hóa tuyến vú, mô tuyến 
vú tăng sinh được kích thích sinh lý bởi 
estrogen và bị ức chế bởi androgen. Nữ hóa 
tuyến vú thường là hệ quả của sự gia tăng tỷ 
lệ estrogen/androgen tự do hoặc những biến 
đổi về tác động của chúng trên những 
receptor đáp ứng nội bào trong mô tuyến 
vú. 
Phần lớn các trường hợp nữ hóa tuyến vú 
có nguyên nhân sinh lý (nữ hóa tuyến vú sơ 
sinh, tuổi dậy thì hoặc tuổi cao). Khoảng 1/4 
các trường hợp có thể có nguyên nhân tự 
phát hoặc thứ phát do các bệnh lý ảnh 
hưởng đến nồng độ hormon sinh dục trong 
máu (như u tinh hoàn hoặc u tuyến thượng 
thận, xơ gan, cường giáp, suy sinh dục, béo 
phì, hội chứng tái dưỡng). Khoảng 20% các 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2019 
trường hợp nữ hóa tuyến vú liên quan đến 
việc sử dụng thuốc, như bổ sung hormon 
hoặc do tác dụng không mong muốn của 
thuốc. 
Một số thuốc có nguy cơ gây nữ hóa 
tuyến vú gồm estrogen ngoại sinh, thuốc 
kháng androgen, thuốc ức chế 
5-alpha-reductase, spironolacton và thuốc 
chống loét dạ dày - tá tràng (cimetidin, thuốc 
ức chế bơm proton). 
Esomeprazol là một thuốc ức chế bơm 
proton được sử dụng để điều trị trào ngược 
dạ dày - thực quản (GERD), phối hợp với 
kháng sinh để điều trị loét do vi khuẩn 
Helicobacter pylori, cũng như để điều trị và 
phòng ngừa loét do NSAID. Esomeprazol ức 
chế enzym H+K+-ATPase, từ đó gây ức chế 
quá trình tiết acid dạ dày. 
Tổng hợp các trường hợp nữ hóa 
tuyến vú trong cơ sở dữ liệu ADR toàn 
cầu (Vigibase) 
Khi tiến hành rà soát cơ sở dữ liệu 
VigiBase - cơ sở dữ liệu toàn cầu của Tổ chức 
Y tế Thế giới (WHO) về các báo cáo an toàn 
thuốc, Trung tâm giám sát thuốc toàn cầu 
Uppsala đã phát hiện tín hiệu nguy cơ về tình 
trạng nữ hóa tuyến vú liên quan đến 
esomeprazol trên đối tượng nam giới trưởng 
thành béo phì (BMI>30). 
Rà soát y văn và thông tin trong tờ 
hướng dẫn sử dụng thuốc 
Nữ hóa tuyến vú là một phản ứng bất lợi 
đối của esomeprazol và đã được đề cập trên 
các tờ hướng dẫn sử dụng thuốc được phê 
duyệt tại Anh và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thông 
tin riêng cho nhóm đối tượng bệnh nhân béo 
phì chưa được mô tả đầy đủ trên các nhãn 
thuốc này. 
Trong VigiBase, mối liên quan giữa nữ 
hóa tuyến vú và thuốc ức chế bơm proton 
(lansoprazol và omeprazol) cũng bắt đầu 
được hình thành. Hơn nữa, mối liên quan của 
esomeprazol và nữ hóa tuyến vú tỏ ra có ý 
nghĩa, thể hiện qua kết quả thống kê dữ liệu 
cảnh giác dược gần đây tại Hoa Kỳ. 
Kết luận 
Nữ hóa tuyến vú là một phản ứng có hại 
đã được ghi nhận với esomeprazol và đã 
được đề cập trong nhãn thuốc. Esomeprazol 
thúc đẩy quá trình oxy hóa estradiol, do đó 
làm tăng nồng độ estradiol trong máu và đây 
là tác dụng phụ thuộc mạnh vào liều. 
Béo phì thường liên quan đến gia tăng 
estrogen do tăng chuyển đổi androgen ở 
ngoài tuyến sinh dục bởi aromatase ở mô, 
dẫn đến làm tăng nồng độ estrogen máu. 
Do esomeprasol có thể gây nữ hóa tuyến 
vú, cơ chế vừa đề cập liên quan đến béo phì 
có thể có tác dụng cộng hợp gây ra hội 
chứng này và khiến bệnh nhân khó hồi phục 
hơn. Tuy nhiên, dữ liệu về phản ứng có hại 
này của esomeprazol còn hạn chế và cần có 
những nghiên cứu và đánh giá sâu hơn để 
tìm hiểu rõ hơn về phản ứng này. 
Ergotamin và nguy cơ viêm tụy: 
Khuyến cáo từ Medsafe 
Hệ thống theo dõi báo cáo phản ứng có 
hại New Zealand gần đây đã nhận được báo 
cáo một trường hợp bệnh nhân bị viêm tụy 
cấp. Bệnh nhân đã dùng một số loại thuốc, 
trong đó có Cafergot (cafein, ergotamin). 
Cafergot được chỉ định để điều trị chứng 
đau nửa đầu. Tuy nhiên, đây không phải là 
lựa chọn ưu tiên và loại thuốc này không có 
mặt trên thị trường dược phẩm ở nhiều quốc 
gia. Xem xét trường hợp của báo cáo nêu 
trên, Medsafe cho rằng MARC cần đánh giá 
lại độ an toàn của Cafergot (và các sản phẩm 
có chứa ergotamin khác). 
Thảo luận 
MARC đã xem xét hiệu quả của Cafergot 
đối với chứng đau nửa đầu. Ủy ban này lưu ý 
rằng không có thử nghiệm lâm sàng nào 
chứng minh hiệu quả của các loại thuốc này. 
Do tiền lệ để lại mà các thuốc chứa 
ergotamin không có đánh giá hiệu quả ban 
đầu trước khi được cấp số đăng ký lưu hành. 
MARC đã xem xét nguy cơ gây tác dụng 
không mong muốn từ Cafergot. Ủy ban này 
lưu ý rằng có bằng chứng đáng kể về tác hại 
mà không có bằng chứng nào về hiệu quả. 
Nguy cơ viêm tụy liên quan đến Cafergot vẫn 
còn cần xem xét thêm vì đây là trường hợp 
duy nhất được báo cáo ở New Zealand và 
bệnh nhân sử dụng nhiều loại thuốc đồng 
thời. 
MARC đã xem xét việc sử dụng Cafergot 
bên ngoài New Zealand và nhận thấy hầu hết 
các quốc gia đã rút Cafergot và các sản 
phẩm có chứa ergotamin khác ra khỏi thị 
trường do cân bằng nguy cơ - lợi ích không 
được đánh giá ở mức tích cực. MARC đặt câu 
No.2 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 15 
hỏi liệu có nên duy trì Cafergot trên thị 
trường New Zealand hay không. 
MARC khuyến cáo Medsafe cần tiến hành 
đánh giá lợi ích - nguy cơ của Cafergot theo 
quy định hiện hành ở New Zeland. 
Đình chỉ lưu hành Decontractyl 
(mephenesin) ở Pháp bắt đầu từ ngày 
28/6/2019 
Ngày 28/6/2019, ANSM đã đưa tin về việc 
đình chỉ lưu hành thuốc giãn cơ Decontractyl 
(dạng viên nén và thuốc mỡ), quyết định có 
hiệu lực kể từ ngày ra công bố. 
Quyết định này bắt nguồn từ kết quả 
đánh giá lại các chế phẩm có chứa 
mephenesin do ANSM khởi xướng. Đánh giá 
đưa đến kết luận rằng lợi ích không vượt trội 
nguy cơ khi cân nhắc về các tác dụng phụ và 
nguy cơ lạm dụng cũng như lệ thuộc thuốc ở 
bệnh nhân trong khi dữ liệu về hiệu quả còn 
chưa đầy đủ đối với việc sử dụng 
Decontractyl. 
Do đó, viên nén Decontractyl 500 mg và 
thuốc mỡ Decontracyl Baume sẽ ngừng lưu 
hành tại Pháp từ ngày 28/6/2019 và các lô 
thuốc chưa sử dụng tại các nhà thuốc sẽ bị 
thu hồi. 
Bên cạnh đó, ANSM khuyến cáo các nhân 
viên y tế không kê đơn cũng như cấp phát 
biệt dược Decontractyl. Người bệnh được 
khuyến cáo không tiếp tục sử dụng 
Decontractyl mà mang trả lại cho các nhà 
thuốc. 
Viên nén Decontractyl 500 mg là thuốc 
giãn cơ có tác dụng trên thần kinh trung 
ương, được phát triển từ năm 1949 và bắt 
đầu lưu hành tại Pháp từ năm 1998. Thuốc 
được chỉ định trong đau do co thắt cơ, sử 
dụng với liều 1-2 viên/lần, dùng 3 lần/ngày. 
Thuốc mỡ Decontractyl Baume là phối 
hợp gồm mephenesin và methyl nicotinat. 
Đây là dạng thuốc dùng ngoài cho giảm đau 
tại chỗ, được nghiên cứu từ năm 1955 và 
được cấp phép lưu hành năm 1996. Thuốc 
được chỉ định trong điều trị tại chỗ hỗ trợ 
giảm đau có nguồn gốc từ cơ ở người lớn. 
Cả hai sản phẩm đều trong danh mục 
thuốc không kê đơn (PMF) và có thể được 
cấp phát không cần đơn và không được bảo 
hiểm chi trả. 
Lợi ích của thuốc không vượt trội 
hơn so với nguy cơ 
Từ khi bắt đầu được lưu hành, các chế 
phẩm Decontractyl đường uống và dùng tại 
chỗ đã là đối tượng của các báo cáo về cảnh 
giác dược (chi tiết xem thêm Báo cáo cuộc 
họp của Ủy ban giám sát về thăng bằng lợi 
ích - nguy cơ của các sản phẩm y tế, ngày 
19/12/2017). Do đó, ANSM đã bắt đầu đánh 
giá lại cân bằng lợi ích-nguy cơ của các chế 
phẩm này, đặc biệt: 
 Với viên nén Decontractyl: các ca về lạm 
dụng và phụ thuộc thuốc, tăng liều, khó 
chịu, chóng mặt và phản ứng phản vệ. 
 Với thuốc mỡ Decontractyl Baume: phản 
ứng trên da tại vị trí bôi thuốc như nóng 
bừng và đỏ da (một số biến cố đã xảy ra 
ở trẻ em khi có sự tiếp xúc da với người 
lớn sử dụng thuốc mỡ). 
Trên cơ sở dữ liệu hiện có trong đánh giá 
lại này, ANSM cho rằng lợi ích mà các chế 
phẩm này đem lại không vượt trội so với 
nguy cơ, do hiệu quả hạn chế trong khi nguy 
cơ gặp các phản ứng có hại cao và có nhiều 
lựa chọn thay thế điều trị bằng các thuốc 
hoặc các biện pháp không dùng thuốc khác. 
Trong bản điểm tin ngày 21/6/2019, 
ANSM đã chỉ ra rằng việc ngừng điều trị bằng 
Decontractyl không làm gia tăng nguy cơ và 
bệnh nhân có thể áp dụng các biện pháp 
thay thế không dùng thuốc (như tập thể 
thao, thư giãn, vật lý trị liệu). 
Do đó, trong trường hợp có đau kéo dài, 
ANSM khuyến cáo bệnh nhân sử dụng các 
thuốc giảm đau nhóm 1 (paracetamol, 
NSAID) tùy thuộc vào các đặc điểm thuộc về 
cá thể người bệnh. Bệnh nhân cũng nên gặp 
dược sỹ hoặc bác sỹ để được tư vấn. 
Tổn thương gan liên quan đến 
Actemra (tocilizumab): Khuyến cáo từ 
Health Canada và Medsafe 
Tháng 5/2019, Cơ quan Quản lý Dược 
phẩm Canada (Health Canada) thông báo đã 
ghi nhận một số báo cáo về phản ứng có hại 
trên gan liên quan đến tocilizumab. Đây là 
phản ứng hiếm gặp nhưng có thể để lại hậu 
quả nghiêm trọng cho bệnh nhân. Health 
Canada đang phối hợp với nhà sản xuất để 
đưa thông tin an toàn mới này vào tờ hướng 
dẫn sử dụng thuốc tại Canada. 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2019 
Khuyến cáo của Health Canada: 
 Không khuyến cáo sử dụng Actemra ở bệnh nhân mắc bệnh gan hoạt động hoặc suy gan. 
 Không khởi đầu điều trị bằng Actemra ở những bệnh nhân có nồng độ men gan trong 
máu cao hơn 3 lần giới hạn trên bình thường. 
 Ngừng sử dụng Actemra ở những bệnh nhân có nồng độ men gan trong máu cao hơn 5 
lần so với giới hạn trên bình thường. 
 Thận trọng khi xem xét bắt đầu điều trị Actemra ở bệnh nhân có nồng độ men gan trên 
1,5 lần so với giới hạn trên bình thường. 
 Theo dõi các xét nghiệm chức năng gan ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và viêm động 
mạch tế bào khổng lồ mỗi 4 đến 8 tuần trong 6 tháng điều trị đầu tiên, sau đó cần theo 
dõi xét nghiệm mỗi 12 tuần. 
 Theo dõi các xét nghiệm chức năng gan ở bệnh nhân viêm khớp thiếu niên tự phát thể đa 
khớp và viêm khớp thiếu niên tự phát thể hệ thống trước khi bắt đầu điều trị, tại thời 
điểm điều trị Actemra lần thứ 2, và mỗi 2 đến 4 tuần sau đó. 
 Tham khảo tờ hướng dẫn sử dụng của sản phẩm đã được phê duyệt về khuyến cáo hiệu 
chỉnh liều (giảm, tạm ngừng hoặc ngừng thuốc) ở bệnh nhân tăng men gan. 
 Tư vấn bệnh nhân liên hệ với cán bộ y tế nếu họ gặp phải các dấu hiệu tổn thương gan 
như chán ăn, buồn nôn và nôn, mệt mỏi, ngứa, nước tiểu sẫm màu, vàng da và mắt, sưng 
bụng và/hoặc đau ở vùng bụng trên bên phải. 
Đình chỉ việc chỉ định domperidon 
cho trẻ em dưới 12 tuổi và cân nặng 
dưới 35 kg: Khuyến cáo từ ANSM 
Theo tin ngày 01/7/2019, Pháp đã có 
quyết định đình chỉ chỉ định domperidon cho 
trẻ em. Từ nay, các thuốc có chứa 
domperidon (biệt dược Motilium và các thuốc 
generic) chỉ được sử dụng ở người lớn và 
thanh thiếu niên từ 12 tuổi trở lên và cân 
nặng từ 35 kg trở lên. Quyết định này được 
đưa ra dựa trên dữ liệu an toàn của 
domperidon và đặc biệt là nguy cơ xảy ra 
phản ứng có hại nghiêm trọng trên tim mạch, 
cũng như kết quả của một nghiên cứu về hiệu 
quả trong nhi khoa cho thấy không có sự 
khác biệt giữa domperidon và giả dược. Tóm 
lại, lợi ích khi sử dụng domperidon trong nhi 
khoa được cho là không vượt trội hơn so với 
nguy cơ. 
Song song với việc hạn chế chỉ định này, 
chế phẩm hỗn dịch uống Motilium sẽ không 
còn được cung cấp kèm theo ống xylanh hỗ 
trợ sử dụng đường uống cho trẻ nhỏ. 
Trước đó, việc sử dụng domperidon trong 
nhi khoa tại Pháp đã không còn được bảo 
hiểm chi trả từ năm 2017 do thiếu bằng 
chứng về hiệu quả. 
Chỉ định và các dạng bào chế của domperidon lưu hành tại Pháp 
 Domperidon được chỉ định trong làm giảm các triệu chứng như buồn nôn và nôn. 
 Thuốc hiện có 3 dạng bào chế được lưu hành tại Pháp: Viên nén bao phim 10 mg; viên sủi 
10 mg; hỗn dịch uống 1 mg/mL. 
Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: 
Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Sản phẩm y tế Pháp (ANSM) nhắc lại về các khuyến cáo sử 
dụng hợp lý thuốc chống nôn này trên người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên: 
 Mức liều giới hạn 10 mg/lần, tối đa dùng 3 lần/ngày, với liều tối đa là 30 mg/ngày. 
 Điều trị trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể, với thời gian điều trị tối đa thường không 
vượt quá 1 tuần. 
 Chống chỉ định các thuốc có chứa domperidon trong các trường hợp sau: 
 Suy gan mức độ trung bình đến nặng. 
 Có tiền sử kéo dài khoảng thời gian dẫn truyền tim bao gồm kéo dài khoảng QT, rối loạn 
điện giải nghiêm trọng, hoặc bệnh tim tiềm ẩn như suy tim sung huyết. 
 Sử dụng các thuốc ức chế mạnh CYP3A4 và các thuốc gây kéo dài khoảng QT, ngoại trừ 
apomorphin do lợi ích vượt trội nguy cơ, và chú ý tuân thủ các thận trọng được ghi rõ 
trong tờ thông tin sản phẩm của apomorphin. 

File đính kèm:

  • pdfban_tin_canh_giac_duoc_so_22019.pdf