Bảo lãnh thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Để mở rộng quy mô hoạt động, các doanh nghiệp ngày càng c cầu chiếm dụng vốn lớn hơn, họ tận dụng tất cả các nguồn vốn từ vốn chủ sở hữu, vốn vay, đến các khoản chiếm dụng từ người bán ó nhu

hoặc từ khoản tiền trả trước của người mua. Cũng vì lẽ đó mà nhu cầu sử dụng

dịch vụ ngân hàng để bảo đảm cho các giao dịch giao thương giữa các bên ngày

càng nhiều, bảo lãnh thanh toán (BLTT) cũng từ đó mà gia tăng và đi kèm theo

là sự gia tăng những rủi ro liên quan ở mức độ ngày càng phức tạp. Do vậy,

bài viết “Bảo lãnh thanh toán tại các NHTM VN” sẽ tập trung nghiên cứu thực

trạng trong hoạt động BLTT và những rủi ro trong BLTT tại các NHTM VN giai

đoạn 2010 - 2014, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn hoạt động

BLTT, giảm thiểu các rủi ro góp phần nâng cao chất lượng và phát triển hoạt

động bảo lãnh của các NHTMVN.

pdf 6 trang yennguyen 8700
Bạn đang xem tài liệu "Bảo lãnh thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo lãnh thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bảo lãnh thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
62
1.Bảo lãnh thanh toán là gì?
Bảo lãnh thanh toán được sử 
dụng trong các hợp đồng mua bán 
hàng hóa, dịch vụ trả chậm, là cam 
kết của bên bảo lãnh (ngân hàng) 
với bên nhận bảo lãnh (người bán) 
về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh 
toán thay cho bên được bảo lãnh 
(người mua đồng thời là khách 
hàng của ngân hàng) trong trường 
hợp bên được bảo lãnh không thực 
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ 
nghĩa vụ thanh toán của mình khi 
đến hạn vô điều kiện. Như vậy, 
trong BLTT quan hệ giữa người 
bán và người mua thực chất là 
quan hệ tín dụng thương mại, theo 
đó người mua chấp nhận trả tiền 
hàng hóa theo kỳ hạn nợ cụ thể. 
Để bảo vệ mình trước rủi ro không 
thanh toán đầy đủ và đúng hạn của 
người mua, người bán có thể yêu 
cầu một BLTT của ngân hàng cho 
số tiền trả chậm. 
Một giao dịch bảo lãnh bao giờ 
cũng liên quan đến 3 bên: Ngân 
hàng bên bảo lãnh, bên được bảo 
lãnh và bên thụ hưởng. 
Các bên giao dịch có mối 
quan hệ phụ thuộc với nhau, liên 
hệ lẫn nhau và ảnh hưởng đến 
nhau.
- Quan hệ giữa người được bảo 
lãnh và người nhận bảo lãnh (1): 
Đây là mối quan hệ gốc, là cơ sở 
Bảo lãnh thanh toán tại 
các ngân hàng thương mại Việt Nam
NGuyễN Thị NhuNG 
Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
NGuyễN Duy Phú
Trường Đại học Công nghệ TP.HCM
Nhận bài: 05/07/2015 - Duyệt đăng: 21/10/2015
Để mở rộng quy mô hoạt động, các doanh nghiệp ngày càng có nhu cầu chiếm dụng vốn lớn hơn, họ tận dụng tất cả các nguồn vốn từ vốn chủ sở hữu, vốn vay, đến các khoản chiếm dụng từ người bán 
hoặc từ khoản tiền trả trước của người mua. Cũng vì lẽ đó mà nhu cầu sử dụng 
dịch vụ ngân hàng để bảo đảm cho các giao dịch giao thương giữa các bên ngày 
càng nhiều, bảo lãnh thanh toán (BLTT) cũng từ đó mà gia tăng và đi kèm theo 
là sự gia tăng những rủi ro liên quan ở mức độ ngày càng phức tạp. Do vậy, 
bài viết “Bảo lãnh thanh toán tại các NHTM VN” sẽ tập trung nghiên cứu thực 
trạng trong hoạt động BLTT và những rủi ro trong BLTT tại các NHTM VN giai 
đoạn 2010 - 2014, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn hoạt động 
BLTT, giảm thiểu các rủi ro góp phần nâng cao chất lượng và phát triển hoạt 
động bảo lãnh của các NHTMVN.
Từ khoá: Ngân hàng thương mại VN, bảo lãnh thanh toán, chiếm dụng 
vốn, vốn chủ sở hữu, vốn vay.
Hình 1: Các mối quan hệ trong nghiệp vụ bảo lãnh
Người thụ hưởng bảo lãnh Người được bảo lãnh 
Ngân hàng phát hành bảo lãnh 
(1) 
(3) (2) 
Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
63
phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Trong 
mối quan hệ đó, người được bảo 
lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải 
thực hiện đối với người hưởng bảo 
lãnh. Tùy từng loại hợp đồng mà 
nghĩa vụ đó có thể là nghĩa vụ trả 
nợ, nghĩa vụ đóng thuế 
- Quan hệ giữa ngân hàng 
(bên bảo lãnh) và người được 
bảo lãnh (2): Đó là quan hệ giữa 
ngân hàng cấp tín dụng và khách 
hàng hưởng tín dụng. Quan hệ 
này thể hiện thông qua hợp đồng 
cấp bảo lãnh.
- Quan hệ giữa ngân hàng bảo 
lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh 
(3): Ngân hàng bảo lãnh đứng ra 
thanh toán thay trong trường hợp 
bên được bảo lãnh không thực 
hiện đúng hợp đồng.
Xét về bản chất thì bảo lãnh 
thanh toán cũng là một loại bảo 
lãnh ngân hàng, nó là dạng chứng 
thư cam kết bảo đảm về khả năng 
thanh toán cho đối tác của khách 
hàng, do vậy nó là một công cụ 
bảo đảm chứ không phải là một 
công cụ thanh toán. Mặt khác, do 
giá trị các chứng thư BLTT ngân 
hàng thường bằng hoặc lớn hơn 
giá trị chậm trả của người mua, 
có khi lên đến 100% giá trị hợp 
đồng trong khi các loại bảo lãnh 
khác có giá trị bảo lãnh chỉ bằng 
một số tương đối từ 5-10% giá 
trị hợp đồng; do đó độ rủi ro của 
BLTT thường cao hơn.
Đối với doanh nghiệp, BLTT 
giúp doanh nghiệp mở rộng các 
quan hệ giao thương, có thể 
nắm bắt được những cơ hội kinh 
doanh ngay cả khi khó khăn về tài 
chính. Vì những lợi ích mà BLTT 
đem lại cho khách hàng nên với 
ngân hàng BLTT không chỉ là 
một kênh góp phần đa dạng hóa 
các dịch vụ ngân hàng mà qua đó 
giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro, 
nâng cao hiệu quả và uy tín đối 
với khách hàng.
Tuy vậy, nhưng do bản chất là 
một dạng cam kết thanh toán thay 
cho khách hàng khi họ không hoàn 
thành nghĩa vụ với đối tác của họ 
cho nên trong hoạt động BLTT ngân 
hàng cũng không thể tránh khỏi rủi 
ro. Rủi ro trong hoạt động BLTT 
của ngân hàng là toàn bộ những bất 
trắc chủ quan hoặc khách quan xảy 
ra làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, 
gây ra những tổn thất cho các ngân 
hàng bảo lãnh. 
2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh 
thanh toán của các NhTm VN
Thực trạng hoạt động BLTT 
được nghiên cứu dựa trên số liệu 
tổng hợp từ một số NHTM từ 3 
nhóm, nhóm NHTN nhà nước gồm 
Vietcombank, BIDV, Vietinbank; 
nhóm NHTM cổ phần có tổng 
tài sản trên 100.000 tỷ đồng gồm 
ACB, MB Bank, Eximbank; nhóm 
NHTM cổ phần còn lại gồm SHB, 
HDBank và Kienlong Bank.
Trong giai đoạn 2010- 2014, hoạt 
động bảo lãnh nói chung, BLTT nói 
riêng của các NHTM VN có một số 
điểm nổi bật như sau:
2.1. Hầu hết các NHTM đều có 
doanh số bảo lãnh ngày càng 
tăng
Bảng số liệu trên cho thấy trừ 
KienLong Bank thì các NHTM 
thuộc nhóm 2 và nhóm 3 có 
mức tăng trưởng doanh số bảo 
lãnh cao hơn so với nhóm 1, 
mức tăng trưởng từng nhóm lần 
lượt là 25,9% và 46,3%, trong 
đó, SHB có mức tăng kỷ lục đạt 
112,22% là do năm 2012, SHB 
đã được sáp nhập từ HBB vào 
nâng giá trị bảo lãnh lên 6.563 
tỷ VND năm 2013 và 9.152 tỷ 
VND năm 2014. Trong khi đó, 
tỷ lệ tăng trưởng doanh số bảo 
lãnh ở các Ngân hàng Nhà nước 
thấp hơn nhiều, chỉ đạt mức bình 
quân là 12,7%. Điều này là do 
các NHTM thuộc nhóm 2, nhóm 
3 đang trong giai đoạn phát triển, 
đẩy mạnh khai thác kênh dịch 
vụ bên cạnh sản phẩm tín dụng 
truyền thống nhằm tăng thị phần 
trong hệ thống ngân hàng. Tuy 
nhiên, do là những ngân hàng 
đã có bề dày lịch sử lâu đời với 
quy mô vốn lớn và số dư bảo 
Ngân hàng 2011/2010 2012/2011 2013/2012 2014/2013 Tăng trưởng bình quân
Nhóm 1 12,7%
Vietcombank - 0,1% + 12,7% - 10,1% + 35,4% 9,47%
BIDV + 2,4% + 5,2% + 20,7% + 25,9% 13,55%
Vietinbank + 20,5% - 2,5% + 15,3% + 27,6% 15,22%
Nhóm 2 25,9%
MB + 28,5% + 62,5% - 10,1% + 47,6% 32,12%
Exim + 46,6% - 14% + 7,6% + 17,7% 14,5%
ACB + 74,7% + 48,8% - 13,5% + 14,5% 31,12%
Nhóm 3 46,3%
SHB + 291,6% + 85,3% + 32,6% + 39,4% 112,22%
HDBank - 40% + 203% + 7,8% + 36,4% 51,8%
Kien Long 
Bank - 87% + 16,1% + 36,4% - 65,4% -25,0%
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng doanh số bảo lãnh
Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa trên số liệu tổng hợp từ báo cáo của các NHTM
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
64
lãnh đã được xây dựng ổn định 
từ nhiều năm nay nên các NHTM 
nhà nước có doanh số bảo lãnh 
cao hơn nhiều so với các NHTM 
cổ phần, trong đó BIDV là ngân 
hàng có doanh số bảo lãnh cao 
nhất, doanh số bảo lãnh bình 
quân năm của BIDV gấp khoảng 
10 lần so với SHB và gần 50 lần 
so với HD Bank.
2.2. Tỷ lệ lãi thuần từ hoạt động 
bảo lãnh so với tổng lãi thuần của 
các ngân hàng cũng có xu hướng 
tăng
Tỷ trọng lãi thuần từ hoạt động 
bảo lãnh trên tổng lãi thuần từ 
hoạt động của các NHTM trong 
các nhóm hầu hết đều tăng từ 
2010 đến 2014. Đối với nhóm các 
NHTM nhà nước tỷ lệ này giảm ở 
Vietcombank, Vietinbank và chỉ 
tăng nhẹ ở BIDV. Ở các NHTM 
thuộc nhóm 3, tỷ trọng này cũng ở 
mức thấp, trung bình ở mức 4,2%. 
Tuy có xu hướng tăng nhẹ nhưng 
nhìn chung, tỷ trọng thu nhập 
thuần từ hoạt động bảo lãnh so với 
thu nhập thuần từ hoạt động ở mức 
chưa cao, trung bình đạt 5,5%. Có 
thể thấy hoạt động bảo lãnh vẫn chỉ 
là một hoạt động dịch vụ, bổ sung 
bên cạnh hoạt động chính là hoạt 
động cấp tín dụng của các ngân 
hàng. Mặt khác, giai đoạn 2010 - 
2014 là giai đoạn có sự cạnh tranh 
khá gay gắt giữa các ngân hàng 
do hầu hết các ngân hàng đều có 
định hướng chú trọng phát triển 
hoạt động bảo lãnh, khiến các ngân 
hàng buộc phải áp dụng nhiều 
chính sách miễn giảm phí hay các 
chương trình khuyến mãi nhằm 
thu hút khách hàng sử dụng dịch 
vụ của mình. 
2.3. BLTT ở hầu hết các NHTM 
VN đều chiếm tỷ trọng lớn trong 
tổng doanh số bảo lãnh của mỗi 
ngân hàng
Theo thống kê, có thể thấy 
BLTT ở hầu hết các NHTM VN 
đều chiếm tỷ trọng lớn trong tổng 
doanh số bảo lãnh của mỗi ngân 
hàng, trung bình đạt lần lượt là 
54,2%, 34,6% và 60,9% tương 
ứng ở các NHTM nhóm 1, nhóm 
2 và nhóm 3. Điều này cho thấy 
BLTT chiếm vị trí khá quan trọng 
trong hoạt động của các NHTM 
VN. Đây được xem là loại bảo 
lãnh khá phổ biến trong các giao 
dịch thương mại của nền kinh tế, 
đóng góp một phần không nhỏ 
trong nguồn thu nhập từ dịch vụ 
của các ngân hàng các năm qua. 
Với xu thế phát triển của các 
doanh nghiệp trong giai đoạn hội 
nhập hiện nay, BLTT sẽ còn phát 
huy vai trò nhiều hơn nữa trong 
các hoạt động giao thương giữa 
các bên, góp phần tăng trưởng 
lợi nhuận cho ngân hàng, khách 
hàng, và cho cả nền kinh tế. 
Bảng 2: Tỷ trọng lãi thuần từ hoạt động bảo lãnh so với 
tổng lãi thuần của các ngân hàng
Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa trên số liệu tổng hợp từ báo cáo của các NHTM
Ngân hàng 2010 2011 2012 2013 2014 Bình quân
Nhóm 1 4,7%
Vietcombank 2,8% 2,4% 2,3% 3,1% 2,4% 2,6%
BIDV 10,6% 9,3% 7,8% 7,6% 8,2% 8,7%
Vietinbank 3,3% 2,0% 2,9% 2,7% 2,6% 2,7%
Nhóm 2 7,6%
MB 7,4% 11,4% 8,8% 9,6% 9,5% 9,4%
Exim 3,8% 4,8% 3,7% 9,5% 13,1% 7,0%
ACB 2,2% 2,6% 9,3% 9,5% 9,4% 6,6%
Nhóm 3 4,2%
SHB 2,4% 8,6% 5,9% 18,9% 16,7% 10,5%
HDBank 2,2% 1,1% 0,8% 1,1% 2,4% 1,5%
Kien Long Bank 0,7% 0,3% 0,4% 0,3% 0,4% 0,4%
Bảng 3: Tỷ trọng BLTT/Tổng bảo lãnh tại các ngân hàng
Ngân hàng 2010 2011 2012 2013 2014 Bình quân
Nhóm 1 54,2%
Vietcombank 57,1% 62,6% 69,0% 76,4% 76,0% 68,2%
BIDV 46,3% 48,4% 38,2% 47,7% 48,7% 45,9%
Vietinbank 44,1% 48,0% 45,8% 54,8% 49,5% 48,4%
Nhóm 2 34,6%
MB 28,9% 37,5% 37,5% 36,4% 46,0% 37,3%
Exim 32,1% 26,3% 36,1% 24,3% 30,6% 29,9%
ACB 28,8% 44,3% 51,4% 29,9% 29,5% 36,8%
Nhóm 3 60,9%
SHB 55,0% 96,9% 47,8% 53,4% 52,9% 61,2%
HDBank 46,0% 50,0% 48,9% 62,7% 64,2% 54,4%
Kien Long Bank 64,0% 44,5% 78,9% 72,2% 75,9% 67,1%
Nguồn: Tác giả tự tính toán dựa trên số liệu tổng hợp từ báo cáo của các NHTM
Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
65
2.4. Rủi ro trong hoạt động BLTT 
cũng tăng lên theo xu hướng tăng 
của hoạt động bảo lãnh
Dựa trên phân tích về thực trạng 
hoạt động BLTT tại các NHTM 
VN, có thể thấy bên cạnh sự tăng 
trưởng khá tốt về doanh số và lợi 
nhuận mang lại từ BLTT thì những 
rủi ro và khó khăn mà các NHTM 
VN cũng khá nhiều. Một số rủi ro 
thường gặp trong hoạt động BLTT 
có thể đến từ nhiều nguyên nhân 
khác nhau, có thể xuất phát từ năng 
lực yếu kém của các nhà quản trị 
trong dự báo rủi ro, trong việc ban 
hành các chính sách chế độ liên 
quan đến quản trị, đến con người, 
đến quy trình nghiệp vụ, đến cơ sở 
hạ tầng thanh toán; rủi ro cũng có 
thể đến từ môi trường pháp lý, mội 
trường kinh tế xã hội...Tuy nhiên 
trên thực tế những rủi ro trong hoạt 
động BLTT của các NHTM VN 
phần lớn do năng lực chuyên môn 
của nhân viên ngân hàng còn hạn 
chế, có thể họ chưa có kinh nghiệm 
hoặc chưa được đào tạo một cách 
bài bản về BLTT từ đó, họ không 
nhận diện được mức độ rủi ro tiềm 
ẩn sau mỗi thương vụ thanh toán, 
mức độ trung thực của các giao 
dịch bảo lãnh, của khách hàng và 
của người thụ hưởng. Bên cạnh đó, 
những vi phạm về đạo đức nghề 
nghiệp của những người thực thi 
cũng là hiện tượng khá nan giải.
Một số tình huống thực tế sau có 
thể cho ta thấy rõ hơn rủi ro liên 
quan đến năng lực, đến tư cách đạo 
đức của nhân viên ngân hàng.
Rủi ro liên quan đến việc làm 
giả chứng thư BLTT: Việc quản 
lý phôi bảo lãnh, con dấu tại một 
số ngân hàng chưa được chặt chẽ 
đã tạo điều kiện cho kẻ gian hoặc 
một số cán bộ ngân hàng lợi dụng 
quyền hành, chức vụ, con dấu của 
ngân hàng cấu kết với bên ngoài 
làm giả mạo chứng thư bảo lãnh 
trục lợi cho bản thân. Cục An ninh 
tài chính tiền tệ và đầu tư, Bộ Công 
an cũng đã có thông báo về việc 
tình trạng làm giả chứng thư bảo 
lãnh của ngân hàng, theo đó nhân 
viên ngân hàng sử dụng con dấu 
lấy được do sơ hở quản lý để đóng 
dấu khống lên phôi giấy trắng có 
in logo của ngân hàng. Đối tượng 
này cũng giả mạo thêm chữ ký của 
lãnh đạo ngân hàng để làm chứng 
thư bảo lãnh giả. Tiếp đó, đối 
tượng ngoài ngân hàng sử dụng 
chứng thư bảo lãnh giả để viết tên 
của khách hàng.Vấn đề này đặc 
biệt được quan tâm sau sự kiện 2 
chứng thư bảo lãnh của Ngân hàng 
HSBC bị làm giả. Theo kết quả 
điều tra của cơ quan công an, nhân 
viên Trần Công Dũng của HSBC 
đã lợi dụng sơ hở trong việc quản 
lý con dấu của ngân hàng, cấu kết 
với 2 đối tượng ở bên ngoài, làm 
giả chứng thư để chào bán cho các 
công ty có nhu cầu về chứng thư 
bảo lãnh. Trong khoảng thời gian 
từ tháng 7-10/2010, Dũng và đồng 
phạm đã “bán” được 2 chứng thư 
loại này cho doanh nghiệp với tổng 
giá trị bảo lãnh thanh toán lên tới 
80 tỷ đồng, qua đó thu về không 
dưới 500 triệu đồng tiền hoa hồng. 
Tình trạng tương tự xảy ra ở 
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn (Agribank) chi 
nhánh Hồng Hà, để tránh tình trạng 
nợ xấu bị đẩy lên 30% khi công ty 
Tân Hồng không thanh toán được 
khoản nợ 5 triệu USD, sau khi đã 
bàn bạc thống nhất, công ty Tân 
Hồng tìm các doanh nghiệp ký hợp 
đồng mua hàng trả chậm, còn giám 
đốc Agribank Hồng Hà sẽ ký các 
bảo lãnh thanh toán. Số hàng mua 
trả chậm công ty Tân Hồng bán ra 
thị trường lấy tiền trả khoản nợ ở 
Agribank Hồng Hà. Trong thương 
vụ này, giám đốc Agribank Hồng 
Hà đã ký 15 BLTT vượt quyền 
phán quyết, không có hồ sơ, không 
theo dõi trên hệ thống sổ sách, 
không thu phí. Lợi dụng bảo lãnh 
của ngân hàng, giám đốc công ty 
Khánh Hồng mua được hàng và 
đã được hưởng lợi từ số tiền bán 
hàng còn lại sau khi trả khoản nợ 
cho Agribank Hồng Hà, số tiền này 
ông ta đã không trả cho người bán 
hàng mà bỏ túi riêng. Kết quả của 
thương vụ này là công ty Tân Hồng 
còn nợ khách hàng gần 282 tỷ đồng 
và mất khả năng thanh toán. 
Rủi ro liên quan đến việc ký 
chứng thư bảo lãnh vượt quá thẩm 
quyền: Đây cũng là một dạng lạm 
dụng quyền lực để hưỡng lợi của 
một số cán bộ ngân hàng, biết sai 
mà vẫn làm. Có thể kể đến trường 
hợp của Seabank khi họ từ chối 
chứng thư bảo lãnh có giá trị 150 
tỷ đồng. Trong trường hợp này bản 
thân phó tổng giám đốc NHTM 
cổ phần Đông Nam Á (Seabank) 
đã ký chứng thư BLTT cho gốc 
và lãi của số tiền 150 tỷ đồng trái 
phiếu doanh nghiệp mà Tập đoàn 
Vina Megastar mua của Công ty tài 
chính cổ phần Vinaconex-Viettel. 
Như vậy, trên thực tế thì chứng thư 
BLTT đã phát hành nhưng Seabank 
vẫn từ chối với lý do Phó tổng 
giám đốc Seabank chỉ được ký bảo 
lãnh ở mức 30 tỷ đồng nhưng đã 
ký chứng thư 150 tỷ đồng vượt so 
với mức được quyền ký là 120 tỷ 
đồng.
Rủi ro liên quan đến năng lực 
thẩm định tín dụng: Vốn dĩ BLTT 
là cam kết thanh toán thay cho 
khách hàng khi khách hàng không 
có khả năng trả nợ cho người bán; 
do vậy khi đồng ý bảo lãnh cũng 
có nghĩa là ngân hàng đã đồng ý 
cấp tín dụng cho khách hàng, vì thế 
việc thẩm định là khâu quan trọng 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
66
để đi đến kết luận có phát hành 
chứng thư bảo lãnh hay không. 
Rủi ro liên quan đến thẩm định tín 
dụng thường do hệ thống quản trị 
rủi ro tín dụng bảo lãnh nội bộ tại 
các ngân hàng còn kém, năng lực 
của nhân viên tín dụng cũng hạn 
chế và vì thế mà ngân hàng không 
thể lường trước được những rủi ro 
sẽ xảy ra trong một số trường hợp 
phát hành bảo lãnh.
Sự kiện được nêu sau đây liên 
quan đến NHTM cổ phần Phương 
Tây (Western Bank). Western Bank 
đã phát hành thư BLTT, bảo lãnh 
cho ông Nguyễn Sơn và bên thụ 
hưởng là TNG. Ông Sơn mua cổ 
phần VDL của TNG. Thời hạn bảo 
lãnh là 365 ngày kể từ 29/01/2011 
với số tiền là 90.778.180.031 
VND, thư bảo lãnh này là không 
hủy ngang và không cần chứng 
minh. Trước ngày đến hạn thanh 
toán Western Bank, có công văn 
gửi cho TNG với nội dung là chậm 
thanh toán cho đến khi giải quyết 
các vướng mắc giữa TNG và ông 
Nguyễn Sơn. Trong tình huống này, 
cho dù lỗi do TNG hay do ông Sơn 
thì nó cũng nói lên rằng việc thẩm 
định tín dụng của Western Bank 
chưa được tốt, nhân viên thẩm định 
của Western Bank chưa hiểu hết 
được các sự kiện kiên quan và đối 
tượng được bảo lãnh; do vậy nên 
không dự báo được những bất trắc 
có thể xảy ra dẫn đấn sự tranh chấp 
giữa TNG với Ngân hàng. 
Tương tự như vậy là trường 
hợp của Ngân hàng TMCP Quân 
đội (MB). MB đã phát hành 2 bảo 
lãnh cho Tập đoàn công nghiệp 
Thiên Phú, đơn vị thụ hưởng là 
Công ty cổ phần (CTCP) Trường 
Phú trong giao dịch mua bán 60 
tấn dây đồngvới tổng giá trị 26 tỷ 
đồng, nhưng khi doanh nghiệp thụ 
hưởng bảo lãnh yêu cầu thực hiện 
nghĩa vụ, MB đã từ chối. Nguyên 
nhân từ chối được MB giải thích 
là doanh nghiệp được hưởng bảo 
lãnh đã không chứng minh được vi 
phạm của đối tác và không bổ sung 
đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu của MB. 
Tuy nhiên, có thể lời giải thích của 
MB là đúng thực tế nhưng rõ ràng 
không thể nói rằng MB đã rất thấu 
hiểu khách hàng trong giao dịch 
này. 
Cũng nói về năng lực thẩm 
định, ta có thể tham khảo một 
trường hợp khác cũng lại xảy ra 
tai Agribank chi nhánh Hồng Hà. 
Sự việc xảy ra vào tháng 6/2011 
khi CTCP thiết bị công nghiệp và 
xây dựng (CTCP TBCNXD) đã 
ký 2 hợp đồng mua thép xây 
dựng với công ty TNHH Cao 
Trường Sơn với tổng giá trị của 
2 hợp đồng mua bánlà 50,1 tỷ 
đồng, một hợp đồng ký ngày 
20/6/2011 và hợp đồng thứ hai 
ký ngày 23/6/20110.Để đảm 
bảo cho việc thanh toán đúng 
hạn Agribank chi nhánh Hồng 
Hà cũng phát hành 02 bảo lãnh 
thanh toán có tổng trị giá 50,1 
tỷ đồng cho CTCP TBCNXD. 
Đồng thời, Agribank chi nhánh 
Hồng Hà đã cam kết không hủy 
ngang bảo lãnh thanh toán này và 
sẽ thanh toán một lần số tiền nói 
trên cho công ty Cao Trường Sơn 
nếu bên mua hàng vi phạm nghĩa 
vụ thanh toán theo hợp đồng đã 
ký kết. Tuy nhiên, đến thời hạn 
thanh toán cuối cùng của hợp 
đồng là ngày 23/9/2011, công ty 
Cao Trường Sơn vẫn không nhận 
được số tiền hơn 50 tỷ đồng. 
Đại diện của CTCP TBCNXD 
cho biết sau khi nhận đủ hàng, 
công ty này đã bán hết 2.830 tấn 
thép đã mua. Nhưng số tiền có 
được từ bán hàng, công ty này 
không dùng để trả cho người bán 
mà đem trả nợ cho chi nhánh 
Agribank Hồng Hà (vốn dĩ Công 
ty này trước đó vẫn đang nợ 
Agribank chi nhánh Hồng hà) và 
chi dùng cho các việc khác của 
công ty. CTCP TBCNXD thừa 
nhận, hiện công ty không có khả 
năng thanh toán số tiền 50,1 tỷ 
đồng và mong muốn chi nhánh 
Agribank Hồng Hà thực hiện 
nghĩa vụ bảo lãnh. Nhận thấy 
phía CTCP TBCNXD không 
chịu trả tiền mua hàng, công ty 
Cao Trường Sơn đã có văn bản 
yêu cầu Agribank thực hiện đúng 
cam kết trong thư bảo lãnh và trả 
tiền cho công ty này. Về trường 
hợp này thì một câu hỏi về năng 
lực thẩm định lại được đặt ra. 
3. Kết luận và gợi ý
Khi tham gia vào hoạt động 
thương mại của các doanh nghiệp 
thông qua BLTT là ngân hàng 
đã chấp nhận rủi ro thay vì rủi ro 
thuộc về bên bán, dịch vụ này của 
ngân hàng đã góp phần quan trọng 
thúc đẩy các giao dịch kinh doanh 
thương mại; tuy nhiên điều đó đồng 
thời cũng tạo nên uy tín và khẳng 
định đẳng cấp của từng ngân hàng. 
Vì thế, cũng giống như các dịch 
vụ ngân hàng khác, BLTT khi đã 
ra đời rồi, đã chính thức được đưa 
vào hoạt động thì sự tồn tại và phát 
triển của nó cũng luôn gắn liền với 
uy tín và thương hiệu của mỗi ngân 
hàng.
Từ những thực trạng và rủi ro 
trong hoạt động BLTT, tác giả xin 
được chia sẻ một vài suy nghĩ về 
việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và 
việc hạn chế phải thực hiện nghĩa 
vụ bảo lãnh của ngân hàng để giúp 
cho các nhà quản trị có thêm được 
những nhận định sáng suốt hơn.
Thứ nhất, nghiêm túc thực 
hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Có hai 
lý do để ngân hàng cần phải thực 
Số 25 (35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 67
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
hiện nghiêm túc nghĩa vụ BLTT. 
Lý do thứ nhất là vì ngân hàng đã 
cam kết thì phải thực hiện. Một khi 
ngân hàng đã phát hành BLTT có 
nghĩa là ngân hàng đã cam kết trả 
tiển cho người bán khi người mua 
chứng minh được khả năng không 
trả nợ được của mình, cho dù ai 
đó của ngân hàng đã ký vượt thẩm 
quyền thì ngân hàng cũng không 
thể từ chối việc thực hiện nghĩa vụ 
của mình đối với người thụ hưởng. 
Đối với khách hàng thì họ chỉ biết 
rằng chứng thư bảo lãnh đã được 
ngân hàng phát hành, có chữ ký 
của người có thẩm quyền và chữ 
ký này đã được ngân hàng xác 
nhận bằng dấu mộc của ngân hàng, 
người ta không có quyền và cũng 
không thể làm một việc ngớ ngẩn 
là hỏi xem người đã ký là người 
có đủ thẩm quyền hay không. Do 
vậy, đối diện với khách hàng thì 
ngân hàng phải là người chịu trách 
nhiệm, việc ai đó của ngân hàng đã 
vi phạm thì đó cũng là lỗi của ngân 
hàng. Thực hiện nghiêm túc nghĩa 
vụ của mình cũng đồng nghĩa với 
việc minh chứng cho khách hàng 
và những người quan tâm biết rằng 
ngân hàng tác giả là một ngân hàng 
luôn có uy tín, có trách nhiệm với 
những cam kết của mình và điều 
này góp phần nâng cao giá trị 
thương hiệu của ngân hàng, khách 
hàng đến với ngân hàng sẽ nhiều 
hơn thì doanh thu từ BLTT cũng 
theo đó tăng lên. Lý do thứ hai, khi 
thực hiện nghĩa vụ BLTT, chưa hẳn 
là đã rủi ro. Khi ngân hàng thực 
hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì thực ra 
cũng chỉ là ngân hàng bắt đầu cho 
khách hàng vay một khoản tiền 
bằng với giá trị bảo lãnh, nếu như 
trước khi chứng thư bảo lãnh được 
phát hành khâu thẩm định tín dụng 
đã được thực hiện nghiêm túc thì 
rủi ro của khoản vay này cũng vẫn 
là nằm trong khả năng giống như 
các khoản vay khác.
Thứ hai, hạn chế đến mức thấp 
nhất việc phải thực hiện nghĩa vụ 
bảo lãnh: Mặc dù khi phát hành 
BLTT là ngân hàng đã sẵn sàng 
cho việc có thể phải trả tiền thay 
cho người bán, và mặc dù khi thực 
hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì chưa hẳn 
ngân hàng đã gặp rủi ro như phân 
tích ở trên, tuy nhiên bản chất của 
nghiệp vụ bảo lãnh vẫn là sự cam 
kết thôi, hành vi cho vay vẫn đóng 
vai trò khắc phục sự cố trong bảo 
lãnh và không một ngân hàng nào 
khi phát hành chứng thư bảo lãnh 
lại muốn sự cố xảy ra. Vì thế cần 
phải ngăn ngừa để sự cố ngoài ý 
muốn không xảy ra, điều này chỉ 
khả thi khi ta nhận diện được những 
nhân tố có thể tác động thiếu tích 
cực đến hoạt động BLTT, mà trong 
đó những nhân tố liên quan đến nội 
bộ ngân hàng phải được xem xét 
trước hết. Không có gì khác hơn 
đó là những nhân tố về năng lực 
điều hành, năng lực dự báo, năng 
lực thực thi nghiệp vụ, năng lực 
về công nghệ và về phẩm chất đạo 
đức nghề nghiệp; tuy nhiên việc 
nhận diện cần phải được thực hiện 
một cách thường xuyên, cần phải 
làm mới thường xuyên để hạn chế 
mặt tiêu cực có thể xảy ral
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo của một số NHTM 
ebank/ngan-hang/ngan-hang-nha-nuoc-
canh-bao-ve-chung-thu-bao-lanh-gia-
2708980.html
toan-tin-dung-tai-agribank-nhieu-tinh-
tiet-can-duoc-lam-sang-to/
hang-gay-thiet-hai-hang-tram-ti-dong-
post371462.html
mo/seabank-tu-choi-chung-thu-bao-
lanh-150-ty-dong-2724338.html
tin-cong-ty/lorem-ipsum-is-simply-
dummy-text-of- the-print ing-and-
typesetting-industry3-1.html 
mb-tu-choi-thanh-toan-bao-lanh-26-ty-
dong-100881.html
Nguyễn Ninh Kiều. (2009). Nghiệp vụ ngân 
hàng thương mại. NXB Thống kê, 
Nguyễn Thúy Vy. (2015). Giải pháp hạn chế 
rủi ro trong hoạt động bảo lãnh thanh 
toán tại các NHTMVN, Luận văn cao 
học.

File đính kèm:

  • pdfbao_lanh_thanh_toan_tai_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam.pdf