Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững ở Việt Nam

TÓM TẮT

Đa dạng sinh học là cơ sở cho sự phát triển bền vững, nhưng hiện nay, đa dạng sinh học đang

bị suy thoái do các hoạt động của con người và sự suy thoái này lại ảnh hưởng đến tiến trình phát

triển bền vững. Ở Việt Nam, hệ thống thể chế tổ chức về bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền

vững ngày càng được hoàn thiện, với những chính sách pháp luật khá đồng bộ, đã thúc đẩy quá trình

sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học, phục vụ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Hệ thống các khu bảo tồn ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và hệ thống các khu dự trữ sinh

quyển đang được xây dựng là những địa chỉ thực hành cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học gắn

với phát triển sinh kế địa phương và xóa đói giảm nghèo theo hướng bền vững. Bài viết này giới thiệu

tổng quan những vấn đề liên quan tới chính sách ở cấp vĩ mô về bảo tồn đa dạng sinh học và phát

triển bền vững trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam.

pdf 8 trang yennguyen 6040
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững ở Việt Nam

Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững ở Việt Nam
32
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở 
VIỆT NAM
Kiều Đỗ Minh Luân*
TÓM TẮT
Đa dạng sinh học là cơ sở cho sự phát triển bền vững, nhưng hiện nay, đa dạng sinh học đang 
bị suy thoái do các hoạt động của con người và sự suy thoái này lại ảnh hưởng đến tiến trình phát 
triển bền vững. Ở Việt Nam, hệ thống thể chế tổ chức về bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền 
vững ngày càng được hoàn thiện, với những chính sách pháp luật khá đồng bộ, đã thúc đẩy quá trình 
sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học, phục vụ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. 
Hệ thống các khu bảo tồn ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và hệ thống các khu dự trữ sinh 
quyển đang được xây dựng là những địa chỉ thực hành cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học gắn 
với phát triển sinh kế địa phương và xóa đói giảm nghèo theo hướng bền vững. Bài viết này giới thiệu 
tổng quan những vấn đề liên quan tới chính sách ở cấp vĩ mô về bảo tồn đa dạng sinh học và phát 
triển bền vững trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam.
Từ khóa: Đa dạng sinh học, hệ sinh thái, phát triển bền vững.
CONSERVATION OF BIOLOGICAL AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT 
IN VIETNAM
ABSTRACT
Biodiversity is the basis for sustainable development, but today, biodiversity is being degraded 
due to human activities and this degradation affects the sustainable development process. In Vietnam, 
the institutional institutional system for biodiversity conservation and sustainable development is 
increasingly being perfected, with fairly uniform legal policies, which have accelerated the process 
of sustainable use of multiple resources. biological form, serving the socio-economic development 
of the country. The system of protected areas in Vietnam has been increasingly improved and the 
system of biosphere reserves is being developed as practical addresses for biodiversity conservation 
in association with the development of local livelihoods. and sustainable poverty reduction. This 
article provides an overview of macro-level policy issues on biodiversity conservation and sustainable 
development in Vietnam’s specific context.
Keywords: Biodiversity, ecosystems, sustainable development.
* ThS. Trường Đại học An Giang. ĐT: 0913510948. Email: kdmluan@gmail.
33
1. MỞ ĐẦU
Trong những thập niên vừa qua, sự phát 
triển kinh tế của thế giới cùng tiến bộ khoa học 
kỹ thuật đã đem lại thịnh vượng cho con người, 
nhưng cũng tác động mạnh mẽ đến tài nguyên 
thiên nhiên và môi trường. Đất đai ở nhiều lãnh 
thổ bị xói mòn, nhiều nguồn nước bị ô nhiễm, 
nhưng nghiêm trọng hơn là nhiều hệ sinh thái đa 
dạng, bao gồm cả trên cạn và dưới nước, đã bị 
suy thoái trầm trọng hoặc bị hủy diệt, nhiều loài 
động thực vật đã bị tuyệt chủng. Hậu quả của 
suy thoái tài nguyên thiên nhiên và thất thoát đa 
dạng sinh học này là rất lớn, có thể ảnh hưởng 
nghiêm trọng tới tiến trình phát triển bền vững 
trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí 
hậu hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của đa 
dạng sinh học trong phát triển trên thế giới, các 
tổ chức quốc tế lớn như Liên Hợp Quốc cũng 
như các tổ chức bảo tồn và phát triển khác đã có 
những cam kết trong công tác bảo tồn đa dạng 
sinh học, đồng thời thúc đẩy tiến trình phát triển 
bền vững trong mối quan hệ hài hòa. Nhiều nỗ 
lực đã được thực hiện, như xây dựng nền tảng 
lý thuyết, đến các hoạt động thực tiễn, có quy 
mô rộng khắp thế giới đã được triển khai, nhằm 
đảm bảo vai trò quan trọng của đa dạng sinh học 
trong sự nghiệp phát triển bền vững của con 
người. Vì vậy, bài viết này nhằm mục đích 
làm sáng tỏ thực trạng ở Việt Nam từ góc 
độ lý thuyết và thực tiễn, thông qua xem xét 
thể chế, chính sách đến những cách tiếp cận 
được áp dụng để làm rõ mô hình phát triển 
bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học.
2. BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ PHÁT 
TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
2.1. Thể chế, chính sách bảo tồn đa dạng 
sinh học và phát triển bền vững ở Việt Nam
Việt Nam đã hội nhập với thế giới khá sớm 
trong các lĩnh vực liên quan tới bảo tồn đa dạng 
sinh học và phát triển bền vững. Việt Nam đã 
tham gia Hội nghị về Môi trường và phát triển 
năm 1992 và sau đó đã ký Công ước Đa dạng 
sinh học. Một hệ thống thể chế, các chính sách 
và pháp luật về môi trường, bảo tồn đa dạng sinh 
học và phát triển bền vững đã được xây dựng 
khá đầy đủ ở Việt Nam (Bảng 1).
Việt Nam đã thành lập Hội đồng Phát triển 
Bền vững từ năm 2005, là đại diện của các bộ, 
ngành địa phương, do Thủ tướng hoặc Phó Thủ 
tướng Chính phủ là Chủ tịch. Văn phòng Phát 
triển Bền vững, trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu 
tư làm cơ quan thư ký cho Hội đồng. Ngoài ra, 
một số bộ như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ 
Công Thương cũng thành lập ban chỉ đạo phát 
triển bền vững ngành và văn phòng phát triển 
bền vững của bộ mình, nhằm thúc đẩy tiến trình 
phát triển bền vững. Ngoài ra, Phòng Thương 
mại và Công nghiệp Việt Nam cũng thành lập 
Văn phòng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền 
vững, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững cho 
các doanh nghiệp.
Bảng 1. Các mốc chính thực hiện phát triển bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam
Thời gian Sự kiện chính
1990 Thành lập Cục Môi trường
1993, 1998, 2014 Luật Bảo vệ môi trường
1998 Nghị quyết của Bộ Chính trị về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa
2003 Thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường
2003 Chiến lược quốc gia về Bảo vệ môi trường
2004 Định hướng chiến lược về Phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị 
sự 21 của Việt Nam). Văn phòng Phát triển Bền vững (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 
được thành lập
Luật Bảo vệ và phát triển rừng
Bảo tồn đa dạng sinh học...
34
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều 
chính sách quan trọng để định hướng cho công 
tác bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh 
học, gắn với phát triển kinh tế-xã hội và nhiều 
văn bản luật, văn bản dưới luật để triển khai 
thực hiện trên thực tế. Nhiều chiến lược có liên 
quan đã được xây dựng, bao gồm Chiến lược 
Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010, 
định hướng đến năm 2020 (năm 2003); Chiến 
lược Phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 
2006-2020 (năm 2007); Chiến lược Quản lý hệ 
thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến 
năm 2010 (năm 2003); Kế hoạch hành động đa 
dạng sinh học (năm 1995). Một hệ thống luật 
pháp liên quan đến lĩnh vực bảo tồn và phát triển 
đã được Chính phủ Việt Nam xây dựng và ban 
hành, trong đó quan trọng nhất là Luật Bảo vệ 
môi trường (ban hành năm 1993, sửa đổi năm 
2005), Luật Tài nguyên nước (ban hành năm 
1999), Luật Đa dạng sinh học (ban hành năm 
2009), Luật Bảo vệ và phát triển rừng (ban hành 
năm 1991, sửa đổi năm 2005) và Luật Biển (ban 
hành năm 2015).
Đặc biệt là, Luật Đa dạng sinh học về bảo 
tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học đã 
nhấn mạnh sử dụng bền vững hệ sinh thái tự 
nhiên, các loài sinh vật và tài nguyên di truyền, 
phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội. Chiến 
lược quốc gia về đa dạng sinh học lại làm rõ hơn 
về sử dụng bền vững và thực hiện cơ chế chia sẻ 
hợp lý lợi ích từ dịch vụ hệ sinh thái và đa dạng 
sinh học phục vụ cho phát triển bền vững.
2.2. Nhận thức và cách tiếp cận trong 
phát triển bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học
Ở Việt Nam năm 2004, khi ban hành Định 
hướng phát triển bền vững, nhiều nghiên cứu về 
Bộ chỉ tiêu về phát triển bền vững đã được thực 
hiện (Lê Anh Sơn và Nguyễn Công Mỹ, 2006), 
chủ yếu dựa trên nghiên cứu của Hội đồng Phát 
triển Bền vững của Liên Hợp Quốc (UN, 1996, 
2001, 2007). Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững cho 
quốc gia đã được thông qua và được ban hành 
kèm theo Chiến lược phát triển bền vững của 
Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (Chính phủ Việt 
Nam, 2012) và cho địa phương trong Bộ chỉ 
tiêu Giám sát, đánh giá phát triển bền vững địa 
phương giai đoạn 2013-2020 (Chính phủ Việt 
Nam, 2013), đặc biệt nhấn mạnh tới thực hiện 
Chiến lược tăng trưởng xanh, đảm bảo phát triển 
nền kinh tế theo hướng cacbon thấp, đồng thời 
2005 Hội đồng Phát triển Bền vững Quốc gia đã được thành lập; Ban Chỉ đạo Phát 
triển Bền vững Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và 
Ban Chỉ đạo PTBV ngành Công nghiệp (Bộ Công Thương) được thành lập
2006 Văn phòng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững (Phòng Thương mại và 
Công nghiệp Việt Nam) được thành lập
2008 Luật Đa dạng sinh học
2012 Chiến lược Phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020; Chiến lược quốc gia về 
Tăng trưởng xanh; Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm 
nhìn đến năm 2030
2013 Kế hoạch hành động quốc gia về Phát triển bền vững giai đoạn 2013-2015
Chiến lược quốc gia về Đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 
2030
2014 Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020; Quy 
hoạch tổng thể Bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, định hướng 
đến năm 2030; Chiến lược Quản lý hệ thống rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển, 
khu bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
2015 Luật Tài nguyên và môi trường biển và hải đảo
Nguồn: CHXHCN Việt Nam, 2012 và cập nhật của tác giả
35
giảm nhẹ tác động và ứng phó với biến đổi khí 
hậu, phòng chống thiên tai. Cụ thể, chỉ tiêu GDP 
xanh (bắt đầu thực hiện từ 2015), với khía cạnh 
hạch toán những chi phí ô nhiễm và thiệt hại do 
thiên tai trong hệ thống tài khoản quốc gia và 
các phương pháp tính toán GDP xanh thống nhất 
cho toàn quốc đang trong quá trình xây dựng và 
áp dụng thử nghiệm (CIEM, 2012). Đối với cấp 
độ địa phương, chỉ tiêu phát triển bền vững địa 
phương cũng đang được đề xuất áp dụng, đặc 
biệt là chỉ tiêu số 26 về “Số vụ thiên tai và mức 
độ thiệt hại”, nhằm cung cấp thêm số liệu để tính 
toán GDP xanh tại địa phương.
Cách tiếp cận DPSIR cũng được áp dụng 
trong xây dựng các chỉ số/chỉ tiêu phát triển 
bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt 
trong xây dựng Chỉ số phát triển bền vững giai 
đoạn 2011-2020 (Chính phủ Việt Nam, 2012) 
và Chỉ số Giám sát đánh giá đa dạng sinh học 
(Bộ TN&MT và JICA, 2014).
Để có thể thúc đẩy việc đánh giá và giám 
sát đa dạng sinh học, các tổ chức quốc tế đã 
biên soạn tài liệu hướng dẫn xây dựng bộ chỉ thị 
đa dạng sinh học (BIP, 2011; UNEP-WCMC, 
2010). Ở Việt Nam, Bộ chỉ thị đa dạng sinh học 
đã được xây dựng và hướng dẫn sử dụng, góp 
phần vào việc đánh giá và giám sát đa dạng sinh 
học (Hoàng Thị Thanh Nhàn và nnk., 2014; Bộ 
TN&MT và JICA, 2014). Như vậy, Bộ chỉ thị 
này cũng có thể được sử dụng để đánh giá hiệu 
quả quản lý thông qua đánh giá được thực trạng 
đa dạng sinh học trong khu vực nghiên cứu.
Ở cấp độ vĩ mô, nhằm phục vụ cho giám 
sát tiến trình phát triển bền vững của đất nước, 
Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững quốc gia (Chính 
phủ Việt Nam, 2012) và cho địa phương (Chính 
phủ Việt Nam, 2013). Bộ Chỉ tiêu giám sát phát 
triển bền vững quốc gia đã được phê duyệt này 
sẽ là khuôn khổ chung để xây dựng được những 
tiêu chí phát triển bền vững cho các khu dự trữ 
sinh quyển ở Việt Nam.
Hiện nay, cách tiếp cận quản lý dựa trên hệ 
sinh thái đã được áp dụng trong công tác quản lý 
bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam, thông qua 
áp dụng 12 nguyên tắc, được nhóm thành 5 bước 
lớn thực hiện trong quản lý (Shepherd, 2004) và 
xây dựng được tài liệu hướng dẫn cho quản lý 
các khu đất ngập nước tại Việt Nam (Shepherd 
và Lý Minh Đăng, 2008), dựa trên nhiều nghiên 
cứu trước đó về tiếp cận hệ sinh thái trong quản 
lý tài nguyên thiên nhiên. Cách tiếp cận này đã 
được áp dụng trong các ngành lâm nghiệp, thủy 
sản, các địa phương và một số khu bảo tồn để 
giải quyết đồng bộ vấn đề bảo tồn, sự chia sẻ 
công bằng các lợi ích và sử dụng bền vững các 
nguồn tài nguyên như Vườn Quốc gia U Minh 
Hạ, Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, phá Tam 
Giang, Cầu Hai, cũng như xây dựng hành lang 
xanh nối giữa các khu bảo tồn (Bộ TN&MT, 
2014). Trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện 
nay, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia 
trên thế giới bị tác động mạnh mẽ nhất của biến 
đổi khí hậu và nước biển dâng. Để thúc đẩy quá 
trình thích ứng với biến đổi khí hậu và thiên tai 
ngày càng khốc liệt, cách tiếp cập thích ứng dựa 
trên hệ sinh thái (ecosystem-based adaptation) 
đã bước đầu được nghiên cứu và triển khai trên 
thực tế (ISPONRE, 2013).
Để hoàn thiện công tác quản lý bảo tồn 
gắn với phát triển bền vững, Ủy ban Quốc gia 
Chương trình Con người và Sinh quyển Việt 
Nam đưa ra và áp dụng cách tiếp cận “tư duy 
hệ thống, quy hoạch cảnh quan, điều phối liên 
ngành, kinh tế chất lượng” gọi tắt là SLIQ 
(Ishwaran và nnk., 2008) trong việc xây dựng 
và quản lý các khu dự trữ sinh quyển do tổ chức 
UNESCO công nhận tại Việt Nam và được áp 
dụng thí điểm tại Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà 
và Khu dự trữ sinh quyển Đất ngập nước ven 
biển Châu thổ Sông Hồng. Việc phân vùng, gồm 
vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp, đã tạo 
điều kiện cho việc quy hoạch không gian, nhằm 
sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phù 
hợp với phương châm của Chương trình Con 
người và Sinh quyển là “bảo tồn cho phát triển 
và phát triển để bảo tồn”. Những kinh nghiệm 
Bảo tồn đa dạng sinh học...
36
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
áp dụng phương pháp này đang được các địa 
phương khác học tập, nhằm thúc đẩy tiến trình 
phát triển bền vững tại địa phương mình.
2.3. Thực tiễn và mô hình phát triển 
bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học
2.3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống 
khu bảo tồn
Mô hình bảo tồn gắn với phát triển đã 
được hình thành và phát triển cùng với lịch sử 
phát triển các hệ thống các khu bảo tồn ở Việt 
Nam, theo hệ thống rừng đặc dụng. Theo quy 
định của Việt Nam, chức năng chính của khu 
bảo tồn (vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên) 
là bảo tồn đa dạng sinh học ở phân khu bảo vệ 
nghiêm ngặt, phục hồi hệ sinh thái bị suy thoái 
ở phân khu phục hồi sinh thái và các hoạt động 
quản lý tại phân khu dịch vụ – hành chính. Bao 
quanh khu bảo tồn là vùng đệm, thường là các 
xã với dân số rất lớn và nhiều khi sinh kế của 
người dân địa phương phụ thuộc vào khai thác 
tài nguyên của khu bảo tồn.
Hiện nay, vẫn chưa có sự thống nhất khái 
niệm về vùng đệm của khu bảo tồn, kể cả nhiệm 
vụ, quy hoạch và cách quản lý. Về lý thuyết, 
đây là nơi sẽ áp dụng những sinh kế thân thiện 
với thiên nhiên và đa dạng sinh học, nhưng trên 
thực tế, do sức ép của người dân sinh sống xung 
quanh hay trong các khu bảo tồn ngày càng 
mạnh, công tác bảo tồn gặp nhiều khó khăn (Võ 
Quý, 2002). Để giải quyết các mâu thuẫn trên, 
nhiều khu bảo tồn đã thực hiện một số dự án 
về nâng cao nhận thức về môi trường, cải thiện 
cuộc sống người dân địa phương, nhất là những 
người nghèo sống xung quanh các khu bảo tồn 
và đã thu được một số kết quả khả quan, như 
trường hợp phát triển sinh kế để bảo tồn, trường 
hợp điển hình của cộng đồng tại xã Kỳ Thượng, 
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (Bộ KH&ĐT, 
2012).
Gần đây, Bộ NN&PTNT (2014) đã xây 
dựng thông tư quy định về tiêu chí xác định vùng 
đệm của khu rừng đặc dụng và vành đai bảo vệ 
của khu bảo tồn biển (Thông tư số 10/2014/TT- 
BNNPTNT), để có cơ sở xem xét những mối đe 
dọa tới các khu rừng đặc dụng này và đồng thời 
triển khai những dự án phát triển kinh tế-xã hội 
gắn với công tác bảo tồn.
Công tác bảo tồn đa dạng sinh học được 
gắn chặt với hệ thống các khu bảo tồn, dưới 
tên gọi chung là rừng đặc dụng. Theo Báo cáo 
đánh giá Hệ thống quy hoạch rừng đặc dụng 
của Bộ NN&PTNT (2010), hiện nay, cả nước 
có 164 rừng đặc dụng, với diện tích 2.198.744 
ha (chiếm 7% diện tích cả nước), bao gồm 30 
vườn quốc gia, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 11 
khu bảo tồn loài, 45 khu bảo vệ cảnh quan và 
20 khu rừng thực nghiệm nghiên cứu khoa học. 
Các khu rừng đặc dụng là nơi dự trữ nguồn tài 
nguyên cho đa dạng sinh học, nguồn gen phục 
vụ lâu dài và ổn định cho công cuộc phát triển 
kinh tế-xã hội của đất nước.
2.3.2. Xây dựng và triển khai các chương 
trình phục hồi hệ sinh thái gắn với phát triển 
kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo ở địa 
phương
Trong thời gian hơn 20 năm qua (1995-
2015), Chính phủ đã triển khai nhiều chương 
trình trồng và phát triển rừng, phục hồi các hệ 
sinh thái bị suy thoái gắn với phát triển kinh tế-
xã hội và xóa đói giảm nghèo, mà điển hình là 
Chương trình 327, Chương trình 661/5 triệu ha 
rừng và Chính sách giao đất giao rừng, nên diện 
tích rừng trong khoảng hai thập niên vừa qua 
đã có những diễn biến tích cực. Những chương 
trình này là: (i) Chương trình 327 (1993-1997), 
với mục đích phủ xanh đất trống đồi núi trọc, 
khai thác bãi bồi ven biển, nuôi trồng thủy sản 
bằng biện pháp trồng, bảo vệ, khoanh nuôi tái 
sinh rừng và tạo mới về rừng phòng hộ và đặc 
dụng, đã bảo vệ 6,79 triệu ha rừng, khoanh nuôi 
tái sinh gần 1 triệu ha, trồng 560.000 ha; (ii) 
Chương trình 661/5 triệu ha rừng (1998-2010): 
Mục tiêu là đẩy mạnh tốc độ trồng rừng, phủ 
xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ rừng hiện 
có và trồng mới, đưa tỷ lệ che phủ của rừng 
lên 43% và hiện nay độ che phủ của rừng đạt 
37
hơn 40% diện tích cả nước; (iii) Chương trình 
giao đất giao rừng thực hiện theo Nghị định 02 
(1994), Nghị định 196 (1999), nhằm mục đích 
sử dụng hiệu quả đất rừng cho tổ chức, hộ gia 
đình, cá nhân và cộng đồng, đảm bảo mỗi mảnh 
đất, khoảng rừng có chủ quản lý cụ thể. Cho đến 
năm 2010, tổng số khoảng 13,39 triệu ha rừng 
đã được giao cho các tổ chức khác nhau, trong 
đó giao cho các ban quản lý rừng là 4,49 triệu 
ha (33,5%), cho UBND địa phương là 2,11 triệu 
ha (15,7%), doanh nghiệp nhà nước (lâm trường 
trước kia) là 2,02 triệu ha (15,1%) và phần 
quan trọng giao cho hộ gia đình là 3,43 triệu ha 
(25,6%) (Bộ NN&PTNT, 2011).
2.3.4. Phát triển hệ thống các khu dự trữ 
sinh quyển như phòng thí nghiệm thực hành 
phát triển bền vững
Khu dự trữ sinh quyển là một loại hình 
độc đáo thể hiện sự hài hòa giữa bảo tồn và phát 
triển, thông qua việc thực hiện ba chức năng là 
bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển kinh tế thân 
thiện với môi trường và hỗ trợ nghiên cứu, giáo 
dục và đào tạo. Sự khác nhau cơ bản của Khu 
dự trữ sinh quyển với Khu bảo tồn hiện nay là 
khu bảo tồn chỉ là vùng lõi của khu dự trữ sinh 
quyển, được bao quanh bởi các vùng đệm và 
vùng chuyển tiếp rộng lớn. Như vậy, Khu dự 
trữ sinh quyển vừa thực hiện chức năng bảo tồn, 
vừa thực hiện chức năng phát triển bền vững, 
đặc biệt gắn với phát triển sinh kế thân thiện với 
thiên nhiên và đa dạng sinh học của người dân 
địa phương (xem Bảng 2).
Hiện nay, UNESCO-MAB thế giới đã 
công nhận 9 Khu dự trữ sinh quyển của Việt 
Nam, bao gồm: (1) Rừng ngập mặn Cần Giờ; 
(2) Đồng Nai; (3) Quần đảo Cát Bà; (4) Châu 
thổ sông Hồng; (5) Ven biển và biển đảo Kiên 
Giang; (6) Miền Tây Nghệ An; (7) Mũi Cà Mau; 
(8) Cù lao Chàm; và (9) Lang Biang (UNESCO 
Việt Nam, 2013). Để trở thành khu dự trữ sinh 
quyển thế giới, các Khu trên phải đạt được 7 tiêu 
chí để trở thành Khu dự trữ sinh quyển thế giới 
về giá trị đa dạng sinh học và hệ sinh thái điển 
hình, có thể thực hiện được các mục tiêu đặt ra 
cho các vùng chức năng về bảo tồn, phát triển 
bền vững và hỗ trợ phát triển nghiên cứu khoa 
học và giáo dục (Website MAB Việt Nam).
Bảng 2. Một số mục tiêu quản lý cơ bản của Khu dự trữ sinh quyển theo các vùng chức năng
Các chức năng và 
mục tiêu quản lý 
khu dự trữ sinh 
quyển
Vùng lõi khu dự trữ 
sinh quyển
Vùng đệm khu dự trữ 
sinh quyển
Vùng chuyển tiếp
khu dự trữ sinh quyển
Bảo tồn đa dạng sinh 
học và bảo vệ môi 
trường
Duy trì, bảo tồn các 
hệ thống tự nhiên 
vốn có, vốn gen địa 
phương (loài quý 
hiếm, loài bản địa, 
loài đặc hữu)
Xây dựng các hành lang, 
vành đai ĐDSH bao 
quanh các vùng lõi bằng 
các mô hình nông lâm 
kết hợp, trồng và khôi 
phục các loài cây bản 
địa, các vườn cây thuốc 
địa phương; Tạo điều 
kiện kết nối các mảng 
nơi sống bị chia cắt, tạo 
lưu thông các dòng sinh 
vật, chuỗi và lưới thức ăn 
trong các hệ sinh thái
Phát triển kinh tế thân 
thiện với môi trường 
thông qua các hoạt 
động nông nghiệp hữu 
cơ, nông nghiệp thông 
minh, nâng cao hiệu 
quả canh tác, cải tạo 
đất, nông nghiệp công 
nghệ cao và sạch
Bảo tồn đa dạng sinh học...
38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Gần đây nhất, Chương trình UNESCO 
Việt Nam đã tiến hành đánh giá bước đầu thực 
trạng quản lý tại 8 khu dự trữ sinh quyển quốc 
tế tại Việt Nam và trình bày kết quả báo cáo 
(UNESCO Việt Nam, 2013), chủ yếu theo các 
nội dung chính như hiện trạng đa dạng sinh 
học, văn hóa và kinh tế-xã hội, về nghiên cứu 
và những mối đe dọa chính, nhằm đưa ra được 
các giải pháp thích ứng. Những thông tin về hệ 
thống các vườn quốc gia của Việt Nam, trong 
đó một số là vùng lõi của các khu dự trữ sinh 
quyển, đã được tổng hợp trong ấn phẩm của Bộ 
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Tổng cục 
Lâm nghiệp, 2013), trong đó tổng hợp những 
thông tin cơ bản về đa dạng sinh học, công tác 
bảo tồn, thực trạng phát triển kinh tế-xã hội tại 
vùng đệm và những thách thức đặt ra cho công 
tác bảo tồn.
3. KẾT LUẬN
Ở Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học 
thường được gắn với quá trình nhận thức về bảo 
vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên 
nhiên. Công tác bảo tồn đa dạng sinh học và sự 
nghiệp phát triển bền vững được thúc đẩy khi 
hệ thống thể chế và các chính sách, luật pháp về 
bảo tồn và phát triển bền vững ngày càng được 
hoàn thiện. Luật Đa dạng sinh học được ban 
hành đã thúc đẩy quá trình sử dụng bền vững tài 
nguyên đa dạng sinh học phục vụ cho sự phát 
triển kinh tế-xã hội của đất nước, đặc biệt là hỗ 
trợ công tác xóa đói giảm nghèo. Cách tiếp cận 
dựa trên hệ sinh thái cũng bước đầu được áp 
dụng để làm hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, 
đảm bảo thực hiện đồng thời mục tiêu bảo tồn 
đa dạng sinh học và phát triển bền vững, đặc biệt 
trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay ở nước 
ta. Hệ thống các khu bảo tồn ở Việt Nam ngày 
càng được hoàn thiện và hệ thống các khu dự trữ 
sinh quyển đang được xây dựng là những địa chỉ 
thực hành cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học 
gắn với phát triển sinh kế địa phương và xóa đói 
giảm nghèo theo hướng bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ 
NN&PTNT), 2010. Báo cáo đánh giá hệ 
thống quy hoạch rừng đặc dụng.
2. Bộ NN&PTNT, 2011. Diện tích rừng toàn 
quốc tính đến 31/12/2010, kèm theo Quyết 
định 1828/QĐ-BNN-TCLN ngày 11/8/2011.
3. Bộ NN&PTNT, 2014. Thông tư số 10/2014/
TT-BNNPTNT quy định về tiêu chí xác định 
vùng đệm của khu rừng đặc dụng và vành đai 
bảo vệ của khu bảo tồn biển.
4. Bộ NN&PTNT, 2014. Thông tư số 10/2014/
TT-BNNPTNT quy định về tiêu chí xác định 
vùng đệm của khu rừng đặc dụng và vành đai 
bảo vệ của khu bảo tồn biển.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT), 2012. 
Việt Nam: Một số điển hình phát triển bền 
Phát triển kinh tế Triển khai các ngành 
kinh tế dựa vào bảo 
tồn: triển khai chi trả 
dịch vụ rừng, cho thuê 
môi trường rừng, tham 
gia thị trường cacbon
Triển khai các ngành 
kinh tế thân thiện với 
môi trường, trồng cây 
bản địa, du lịch sinh thái, 
lịch sử, văn hóa, phát 
triển và đăng ký nhãn 
hiệu hàng hóa
Phát triển các hoạt động 
kinh tế, khu dân cư, khu 
công nghiệp thân thiện 
với môi trường, duy trì 
môi trường sống xanh, 
sạch, đẹp
Nghiên cứu văn hóa, 
xã hội, khoa học và 
giáo dục
Duy trì nền văn hóa 
tôn trọng thiên nhiên: 
bảo tồn rừng thiêng, 
rừng lịch sử, giáo dục 
truyền thống
Nâng cao dân trí, duy trì 
truyền thống văn hóa, 
phát triển du lịch văn hóa 
lịch sử, triển khai giáo 
dục vì phát triển bền vững
Nâng cao dân trí, duy trì 
truyền thống văn hóa, 
đoàn kết hợp tác, xóa 
đói giảm nghèo, hạn 
chế tệ nạn xã hội
39
vững. Báo cáo tại Hội nghị cấp cao của Liên 
Hợp Quốc về Phát triển bền vững (Rio+20). 
Bộ KH&ĐT, Hà Nội, tháng 5/2012. 53 tr.
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT), 
2014. Báo cáo quốc gia lần thứ 5 thực hiện 
Công ước Đa dạng sinh học giai đoạn 2009-
2013 (trình Ban Thư ký Công ước Đa dạng 
sinh học). Hà Nội: 96 tr.
7. Bộ TN&MT và JICA, 2014. Hướng dẫn xây 
dựng và sử dụng chỉ thị đa dạng sinh học. Hà 
Nội: 74 tr.
8. Chính phủ Việt Nam, 2012. Quyết định số 
432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng 
Chính phủ về phê duyệt Chiến lược Phát triển 
bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
9. Chính phủ Việt Nam, 2013. Quyết định số 
1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng 
Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia 
về Tăng trưởng xanh.
10. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN 
Việt Nam), 2012. Thực hiện phát triển bền vững 
ở Việt Nam. Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp 
cao của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững 
(Rio+20). Hà Nội, tháng 5/2012: 86 tr.
11. Hoàng Thị Thanh Nhàn, Hồ Thanh Hải và 
Võ Thanh Sơn, 2014. Nghiên cứu hướng dẫn 
xây dựng bộ chỉ thị đa dạng sinh học phục 
vụ công tác quan trắc đa dạng sinh học của 
khu bảo tồn. Tuyển tập báo cáo khoa học về 
tài nguyên và môi trường. Hội nghị khoa học 
toàn quốc. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
12. Lê Anh Sơn và Nguyễn Công Mỹ, 2006. 
Bộ chỉ tiêu và cơ sở dữ liệu giám sát phát 
triển bền vững ở Việt Nam. Dự án “Hỗ trợ 
xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 
21 Quốc gia Việt Nam” VIE/01/021. Bộ Kế 
hoạch và Đầu tư. NXB Lao động – Xã hội. 
Hà Nội: 69 tr.
13. Võ Quý, 2002. Vấn đề quản lý vùng đệm 
ở Việt Nam: Những kinh nghiệm bước đầu. 
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Vùng đệm các khu 
bảo tồn thiên nhiên Việt Nam. NXB Nông 
nghiệp, Hà Nội: tr. 13.
14. Tổng cục Lâm nghiệp, 2013. Vườn Quốc gia 
của Việt Nam. Hà Nội: 156 tr.
15. Biodiversity Indicators Partnership (BIP), 
2011. Guidance for National Biodiversity 
Indicator Development and Use. UNEP 
World Conservation Monitoring Centre, 
Cambridge,UK: 40 p.
16. Ishwaran N., A. Persic and Nguyen Hoang 
Tri, 2008. Concept and Practice: The Case of 
UNESCO Biosphere Reserves. International 
Journal of Environment and Sustainable 
Development, 7 (2): pp. 118-131.
17. ISPONRE, 2013. Operational Framework 
for Ecosystem-based Adaptation to Climate 
Change for Vietnam: A Policy Supporting 
Document. Hanoi: 52 p.
18. Shepherd G. và Lý Minh Đăng, 2008. Tổng 
quan về áp dụng tiếp cận hệ sinh thái vào các 
khu đất ngập nước tại Việt Nam. Hà Nội: 88 tr.
19. Shepherd G., 2004. Tiếp cận hệ sinh 
thái: Năm bước thực hiện. IUCN, Gland, 
Switzerland and Cambridge, UK.
20. UNESCO Việt Nam, 2013. Các khu dự trữ 
sinh quyển tại Việt Nam: Đánh giá bước đầu 
về các giá trị và hiệu quả quản lý của các 
khu vực này. Kèm theo các khuyến nghị cho 
UNESCO. Dự thảo. Hà Nội: 110 tr.
21. UNEP-WCMC, 2010. Guidance for National 
Biodiversity Indicator Development and Use 
(Eds. Bubb M., P.J. Almond, R. Kapos, V. Stanwell-
Smith and D. Jenkins). Cambridge, UK.
22. CIEM, 2012. Chỉ số GDP xanh: Nghiên 
cứu phát triển Khung phương pháp. Hà Nội, 
tháng 3/2012: 50 tr.
23. United Nations (UN), 1996. Indicators of 
Sustainable Development: Framework and 
Methodologies. Second Edition. Printed by 
the United Nations, New York.
24. UN, 2001. Indicators of Sustainable 
Development: Guidelines and Methodologies. 
Second Edition. Printed by the United 
Nations, New York: 310 p.
25. UN, 2007. Indicators of Sustainable 
Development: Guidelines and Methodologies. 
Third Edition. Printed by the United Nations, 
New York: 93 p.
26. UNESCO-MAB, 2008. Madrid Action 
Plan for Biosphere Reserves 2008-2013, 
UNESCO- MAB, Paris.
Bảo tồn đa dạng sinh học...

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_da_dang_sinh_hoc_va_phat_trien_ben_vung_o_viet_nam.pdf