Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt

TÓM TẮT

Chất lượng nước hồ Xuân Hương trên cơ sở một số yếu tố vật lí, hóa học và sinh học được

khảo sát vào tháng 4 (đại diện mùa khô) và tháng 7 (đại diện mùa mưa) năm 2013. Bên cạnh đó,

độc tính sinh thái của loài vi khuẩn lam Cylindrospermopsis raciborskii phân lập từ hồ Xuân

Hương cũng được đánh giá trên cơ sở phơi nhiễm với loài vi giáp xác Daphnia magna. Kết quả

khảo sát, nghiên cứu đã cho thấy nước hồ đang bị phú dưỡng hóa và suy giảm nghiêm trọng. Sự

ưu thế và bùng phát vi khuẩn lam là dấu hiệu không tốt cho các thủy sinh vật trong hồ. Loài vi

khuẩn lam C. raciborskii có ảnh hưởng rất xấu lên vi giáp xác thông qua biểu hiện suy giảm sức

sống của thế hệ mẹ và kìm hãm sự phát triển quần thể sinh vật con. Quan trắc chất lượng nước

hồ, đặc biệt vi khuẩn lam và độc tố của của chúng, nên được tiến hành vì lí do chất lượng môi

trường, cân bằng hệ sinh thái thủy vực và sức khỏe cộng đồng.

pdf 9 trang yennguyen 2740
Bạn đang xem tài liệu "Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt

Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 52 (1) (2014) 91-99 
SUY GIẢM CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÀ ĐỘC TÍNH SINH THÁI 
VI KHUẨN LAM TỪ HỒ XUÂN HƯƠNG, ĐÀ LẠT 
Đào Thanh Sơn1, *, Bùi Bá Trung2, Võ Thị Mỹ Chi2, Bùi Thị Như Phượng2, 
Đỗ Hồng Lan Chi3, Nguyễn Thanh Sơn2, Bùi Lê Thanh Khiết2 
1Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, 268 Lý Thường Kiệt, Quận 10, TP HCM 
2Viện Môi trường và Tài nguyên, 142 Tô Hiến Thành, Quận 10, TP HCM 
3Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Phường Linh Trung, Quận Thủ Đức, TP HCM 
*Email: dao_son2000@yahoo.com 
Đến Tòa soạn: 30/10/2013, Chấp nhận đăng: 15/1/2014 
TÓM TẮT 
Chất lượng nước hồ Xuân Hương trên cơ sở một số yếu tố vật lí, hóa học và sinh học được 
khảo sát vào tháng 4 (đại diện mùa khô) và tháng 7 (đại diện mùa mưa) năm 2013. Bên cạnh đó, 
độc tính sinh thái của loài vi khuẩn lam Cylindrospermopsis raciborskii phân lập từ hồ Xuân 
Hương cũng được đánh giá trên cơ sở phơi nhiễm với loài vi giáp xác Daphnia magna. Kết quả 
khảo sát, nghiên cứu đã cho thấy nước hồ đang bị phú dưỡng hóa và suy giảm nghiêm trọng. Sự 
ưu thế và bùng phát vi khuẩn lam là dấu hiệu không tốt cho các thủy sinh vật trong hồ. Loài vi 
khuẩn lam C. raciborskii có ảnh hưởng rất xấu lên vi giáp xác thông qua biểu hiện suy giảm sức 
sống của thế hệ mẹ và kìm hãm sự phát triển quần thể sinh vật con. Quan trắc chất lượng nước 
hồ, đặc biệt vi khuẩn lam và độc tố của của chúng, nên được tiến hành vì lí do chất lượng môi 
trường, cân bằng hệ sinh thái thủy vực và sức khỏe cộng đồng. 
Từ khóa: phú dưỡng hóa, vi khuẩn lam, độc tính sinh thái, Cylindrospermopsis raciborskii, 
Daphnia magna. 
1. GIỚI THIỆU 
Chất lượng môi trường nước là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của những nhà 
quản lí, thực thi chính sách và người dân trên cả nước. Trong khi những nguồn nước dùng cấp 
cho sinh hoạt và hoạt động công nghiệp thường có diện tích lớn và được quan tâm rất nhiều, thì 
các thủy vực có chức năng tạo cảnh quan có diện tích khiêm tốn hơn và ít được ưu tiên hơn 
trong vấn đề bảo vệ. Việc đánh giá chất lượng nước trong các thủy vực tự nhiên ở nước ta 
thường được thực hiện dựa vào tiêu chuẩn hóa lí đã được nhà nước ban hành [1]. Trong khoảng 
hai thập niên gần đây, thủy sinh vật bao gồm thực vật phù du, động vật phù du và động vật đáy 
được quan tâm và sử dụng như những chỉ thị sinh học cho đánh giá chất lượng nước trong các 
chương trình quan trắc. 
Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt 
Thực vật phù du là nhóm sinh vật sản xuất trong thủy vực. Chúng có vai trò quan trọng 
trong việc sản sinh ra nguồn năng lượng sơ cấp, tham gia vào các chu trình chuyển hóa vật chất 
trong tự nhiên và cung cấp sinh khối sơ cấp cho những sinh vật kế tiếp trong chuỗi thức ăn trong 
thủy vực [2]. Bên cạnh đó, vi khuẩn lam, một nhóm trong thực vật phù du, thường phát triển quá 
mức hay nở hoa khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ gây nhiều ảnh hưởng xấu lên chất lượng môi 
trường nước, tài nguyên thủy sản và cân bằng hệ sinh thái thủy vực. Nghiêm trọng hơn, một số 
loài vi khuẩn lam có khả năng sản sinh độc tố đặc biệt khi chúng nở hoa, gây nên những tác 
động nguy hiểm đối với thủy sinh vật, động vật hoang dã và con người (tiếp xúc hoặc uống 
nước có nhiễm chất độc) [3]. 
Cho đến nay, có hơn 60 loài vi khuẩn lam có độc được xác định, trong đó 
Cylindrospermopsis raciborskii là một trong những loài phổ biến trong thủy vực nước ngọt và 
được biết đến nhiều bởi khả năng sản sinh ra nhóm độc tố tế bào cylindrospermopsins và nhóm 
độc tố thần kinh saxitoxins nguy hiểm cho con người, động vật hoang dã và thủy sinh vật [4]. Vi 
khuẩn lam C. racibosrkii là loài có nguồn gốc nhiệt đới và cận nhiệt đới nhưng hiện nay đã mở 
rộng phạm vi phân bố sang khu vực ôn đới. Loài vi khuẩn lam này nhờ một số đặc điểm sinh 
học như chứa khí thể, thích ứng với độ đục nước cao, tự cố định nitơ trong không khí, nên có 
khả năng phát triển mạnh, ưu thế hơn nhiều vi tảo và vi khuẩn lam khác trong tự nhiên. Trong 
điều kiện phú dưỡng hóa của thủy vực, C. raciborskii phát triển nhanh chóng và nở hoa [5]. Cho 
đến nay đã có khá nhiều công bố về độc tính của C. raciborskii lên động vật phù du trên thế giới 
[4]. 
Ở nước ta, vi khuẩn lam có độc và độc tố của chúng thường xuyên hiện diện trong các thủy 
vực nước ngọt [6]. Trong thủy vực, động vật phù du với đại diện tiêu biểu: vi giáp xác, là nhóm 
sinh vật tiêu thụ trực tiếp vi tảo và vi khuẩn lam. Do đó vi giáp xác chịu ảnh hưởng trực tiếp từ 
vi khuẩn lam có độc, dẫn đến những xáo trộn trong chuỗi thức ăn ở thủy vực. Nhiều nghiên cứu 
trên thế giới đã chứng minh rằng vi khuẩn lam và độc tố vi khuẩn lam làm suy giảm sức sống, sự 
phát triển và sinh sản của vi giáp xác [7]. Tuy vậy, công bố về ảnh hưởng xấu của vi khuẩn lam 
có nguồn gốc Việt Nam lên động vật phù du còn rất khiêm tốn và chưa hoàn toàn được hiểu rõ 
[7, 8], và độc tính của C. raciborskii có nguồn gốc từ Việt Nam lên vi giáp xác vẫn chưa được 
biết đến. 
Hồ Xuân Hương là một điểm du lịch nổi tiếng và cũng là một trong những biểu tượng của 
thành phố Đà Lạt. Với sự tiếp nhận chất thải liên tục từ nhiều nguồn khác nhau, nước hồ Xuân 
Hương trở nên phú dưỡng hóa dẫn đến sự nở hoa của vi khuẩn lam xảy ra thường xuyên hơn, 
với mức độ ngày càng nặng nề. Hậu quả của nở hoa vi khuẩn lam làm cho chất lượng nước hồ 
càng trở nên tồi tệ hơn với mùi khó chịu (hôi, thối) và chết cá. Điều đó ảnh hưởng lớn đến hoạt 
động du lịch trên hồ và môi trường sống của người dân địa phương. Đồng thời nước hồ Xuân 
Hương là nguồn nước cấp cho thác Cam Ly nên nở hoa vi khuẩn lam và độc tố của chúng sẽ 
theo dòng nước ảnh hưởng trực tiếp lên thắng cảnh du lịch Cam Ly (màu, mùi) và du khách 
tham quan (tiếp xúc trực tiếp). Về phương diện chất lượng nước và hệ sinh thái, độc tố vi khuẩn 
lam có ảnh hưởng rất lớn lên cân bằng hệ sinh thái thủy vực, đặc biệt khi có nở hoa vi khuẩn 
lam. Tuy nhiên, việc xác định vi khuẩn lam gây độc và đánh giá mức độ độc của vi khuẩn lam 
trong hồ Xuân Hương cho đến nay vẫn chưa được hiểu biết. 
Trong nghiên cứu này, chất lượng nước hồ Xuân Hương trên cơ sở một số chỉ tiêu hóa lí 
nước và vi khuẩn lam được khảo sát và đánh giá. Đồng thời, độc tính sinh thái của một loài vi 
khuẩn lam, Cylindrospermopsis raciborskii, thường bùng phát ở hồ, lên động vật phù du, vi giáp 
xác Daphnia magna, cũng được nghiên cứu trong điều kiện phòng thí nghiệm 
92 
Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Địa điểm nghiên cứu 
Hồ Xuân Hương, Đà Lạt, là một hồ nước có dòng chảy và nước trong hồ thường xuyên 
được cung cấp, thay đổi. Hồ có chu vi 5,5 km, diện tích mặt hồ khoảng 32 ha, dung tích 0,72 
triệu m3 và dòng chảy trung bình năm là 0,7m/s. Các nhánh suối đổ vào hồ vào mùa mưa mang 
theo một lượng lớn hợp chất hữu cơ và dinh dưỡng từ thượng nguồn và từ các hoạt động sản 
xuất nông nghiệp (trồng rau xanh). Ngoài ra, hồ còn là nơi tiếp nhận nguồn nước thải sinh hoạt 
của cư dân sống trong khu vực, nước từ hoạt động tưới của sân golf, vườn hoa và lò mổ [9]. 
2.2. Thu mẫu hiện trường 
Việc khảo sát thu mẫu hiện trường được tiến hành ở 3 điểm: đầu vào, đầu ra và khu vực 
giữa hồ, vào tháng 4, đại diện mùa khô, và vào tháng 7, đại diện mùa mưa, năm 2013 tại hồ 
Xuân Hương (hình 1). Một số chỉ tiêu vật lí được đo nhanh tại hiện trường bao gồm nhiệt độ 
(nhiệt kế), pH (Metrohm 744), độ trong (đĩa secchi). Mẫu nước thu cho việc phân tích hàm 
lượng dinh dưỡng, nitơ và phospho cũng được tiến hành, giữ lạnh từ hiện trường cho đến khi 
được phân tích trong phòng thí nghiệm. Mẫu định tính và định lượng vi khuẩn lam được thu và 
cố định ngay tại hiện trường bằng dung dịch Lugol theo hướng dẫn của Sournia [10]. Mẫu tươi 
vi khuẩn khuẩn lam cũng được thu, dùng cho phân lập mẫu trong phòng thí nghiệm. 
Hình 1. Hồ Xuân Hương, Đà Lạt, với các điểm thu mẫu (1 – 3). 
93 
Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt 
2.3. Phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm 
Các chỉ tiêu hóa học nước gồm N-NO3-, N-NH4+, tổng nitơ, P-PO43- và tổng phospho được 
phân tích trong phòng thí nghiệm theo hướng dẫn của APHA (mục 4500N, 4500P) [11]. Việc 
định danh vi khuẩn lam được tiến hành trên kính hiển vi Olympus BX 51 dựa vào tài liệu phân 
loại trong và ngoài nước [12, 13, 14]. Việc định lượng vi khuẩn lam được thực hiện bằng buồng 
đếm Sedgewick-Rafter [10]. Vi khuẩn lam được phân lập bằng phương pháp hút rửa tế bào và 
được nuôi trong môi trường Z8 ở nhiệt độ 25 ºC, cường độ ánh sáng 3000 Lux, chu kì sáng tối là 
12 giờ : 12 giờ [4]. 
2.4. Thí nghiệm độc học sinh thái của vi khuẩn lam lên sinh vật 
Trong thí nghiệm này, loài vi giáp xác Daphnia magna (mua từ công ty Microbio test, Bỉ) 
và loài vi khuẩn lam Cylindrospermopsis raciborskii, đã phân lập được từ hồ Xuân Hương, được 
dùng làm đối tượng nghiên cứu (hình 2). Thí nghiệm được thiết kế với 4 lô thí nghiệm bao gồm 
1 lô đối chứng (D. magna được cho ăn với 100 % thức ăn là tảo lục, Scendesmus) và 3 lô phơi 
nhiễm (D. magna được cho ăn với (i) 90 % tảo lục + 10 % C. raciborskii; (ii) 50 % tảo lục + 
50 % C. raciborskii; và (iii) 100 % C. raciborskii). Trong mỗi lô thí nghiệm, 10 cá thể D. magna 
dưới 24h tuổi, được nuôi riêng lẻ trong 10 bình thủy tinh. Môi trường và thức ăn của D. magna 
được thay mới 2 ngày/ 1 lần. Các đặc điểm sinh học theo dõi bao gồm sự sống chết và tổng số 
con non được sản sinh ra từ các lô thí nghiệm. Thí nghiệm được đặt trong điều kiện nhiệt độ 
khoảng 22 ± 1 ºC, chu kì sáng tối 14 : 10 và cường độ ánh sáng khoảng 1000 Lux [4] và kéo dài 
trong 2 tuần. 
Hình 2. Sinh vật cho thí nghiệm: vi giáp xác Daphnia magna (trái) và vi khuẩn lam 
Cylindrospermopsis raciborskii (phải). 
3. KẾT QUẢ - THẢO LUẬN 
3.1. Yếu tố hóa lí nước 
Kết quả đo nhanh hiện trường cho thấy nhiệt độ nước hồ Xuân Hương biến thiên từ 23 oC -
24,5 oC khá đồng nhất và ổn định trong 2 đợt khảo sát, hoàn toàn phù hợp với điều kiện thời tiết 
94 
Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt 
của thành phố Đà Lạt vào mùa mưa. Tuy nhiên pH của nước hồ, có giá trị từ 6,6 – 8,2, thay đổi 
đáng kể giữa các điểm thu mẫu và thời điểm thu mẫu, tháng 7 pH có giá trị cao hơn tháng 4. 
Đồng thời độ trong nước hồ rất thấp, không quá 30 cm (bảng 1). Sự biến thiên của pH và suy 
giảm độ trong nước hồ có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển và mật độ vi khuẩn lam sẽ được 
đề cập ở phần dưới của bài viết này. Độ trong thấp (≤ 30 cm) là một trong những bằng chứng về 
sự suy giảm chất lượng môi trường nước. 
Nồng độ nitrate của nước hồ biến thiên từ 0.09 – 1,7 mg/l, cao nhất ở điểm số 1 vào tháng 
7, và thấp nhất ở điểm 2 vào tháng 4/2013. Amonium trong nước hồ Xuân Hương dưới mức phát 
hiện của máy đo vào đợt khảo sát tháng 4, nhưng tăng vọt vào tháng 7/2013. Hàm lượng nitrate 
và amonium trong nước hồ vào tháng 7 tăng lên rất cao so với tháng 4 ở cả 3 điểm thu mẫu dẫn 
đến hàm lượng tổng nitơ trong nước hồ của tháng 7 cao gấp nhiều lần so với tháng 4 (bảng 1). 
Ngược với sự biến thiên hàm lượng nitơ, hàm lượng phosphate trong nước hồ Xuân Hương dưới 
mức phát hiện của thiết bị vào tháng 7 và có giá trị từ 0,02 – 0,04 vào tháng 4. Tuy nhiên, hàm 
lượng tổng phospho trong nước vào tháng 7 lại tương đương (điểm thu mẫu số 2, 3) hoặc cao 
hơn (điểm thu mẫu 1) so với tháng 4/2013 (bảng 1). Nồng độ nitơ và phospho trong nước hồ cho 
thấy môi trường nước đang ở vào tình trạng phú dưỡng hóa [2]. Đồng thời, hàm lượng nitơ và 
phospho trong nước hồ Xuân Hương rất cao so với nhu cầu phát triển của thực vật phù du nói 
chung và vi khuẩn lam nói riêng [4] và rất có thể đây là một trong những nguyên nhân chính 
thúc đẩy sự bùng phát vi khuẩn lam một cách thường xuyên trong hồ. 
Bảng 1. Kết quả các yếu tố môi trường nước ở hồ Xuân Hương. KPH: không phát hiện; 
Ngưỡng phát hiện của chỉ tiêu N-NH4+ là 0,04 mg/l và P-PO43- là 0,02 mg/l. 
Tháng 4/2013 Tháng 7/2013 
Chỉ tiêu 
Điểm 1 Điểm 2 Điểm 3 Điểm 1 Điểm 2 Điểm 3 
Nhiệt độ (oC) 23,5 24,5 24,5 23 23,5 24 
Độ trong (cm) 30 20 30 20 30 30 
pH 6,6 6,51 6,72 7,8 8,2 7,6 
N-NO3- (mg/l) 0,31 0,09 0,37 1,7 1,56 1,3 
N-NH4+ (mg/l) KPH KPH KPH 6,38 6,27 6,83 
TN (mg/l) 6,61 5,15 2,24 23,1 12,3 27,8 
P-PO43- (mg/l) 0,04 0,02 0,03 KPH KPH KPH 
TP (mg/l) 0,27 0,22 0,17 1,52 0,16 0,18 
3.2. Thành phần loài và mật độ vi khuẩn lam 
Kết quả phân tích đã ghi nhận được 19 loài vi khuẩn lam vào đợt khảo sát tháng 4 và 21 
loài vào đợt khảo sát tháng 7 (bảng 2). Trong đó, bộ Oscillatoriales chiếm ưu thế về số loài, từ 
48 – 52 %, và bộ Nostocales có tỉ lệ số lượng loài thấp nhất, từ 16 – 24 %, trong tổng số loài vi 
khuẩn lam. Các chi vi khuẩn lam phổ biến trong hồ là Microcystis, Anabaena, 
Cylindrospermopsis, Planktothrix và Pseudanabaena. Hầu hết những chi này bao gồm các loài 
có chứa khí thể nên sẽ dễ dàng điều chỉnh vị trí của chúng trong cột nước [4], do đó khả năng 
cạnh tranh về phát triển trong thủy vực sẽ cao hơn so với các loài thực vật phù du hay vi tảo 
95 
Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt 
Bảng 2. Cấu trúc thành phần loài vi khuẩn lam thuộc các bộ khác nhau ở hồ Xuân Hương. 
Bộ Tháng 4/2013 Tháng 7/2013 
 Số loài Tỉ lệ (%) Số loài Tỉ lệ (%) 
Chroococcales 6 32 6 28 
Nostocales 3 16 5 24 
Oscillatoriales 11 52 11 48 
Tổng cộng 19 100 21 100 
Mật độ vi khuẩn lam qua 2 đợt khảo sát có giá trị từ 160.200 – 2.246.200 cá thể/lít, thấp 
nhất vào đợt thu mẫu tháng 7 ở điểm thu mẫu số 2 và cao nhất vào đợt thu mẫu tháng 4 ở điểm 
thu mẫu số 3 (hình 3a). Mật độ vi khuẩn lam ghi nhận được có giá trị từ cao đến rất cao so với 
điều kiện thủy vực dạng hồ thông thường. Điều này cho thấy chất lượng nước hồ đã suy giảm và 
tình trạng mất ổn định trong hệ sinh thái thủy vực. Ba chi vi khuẩn lam ưu thế trong hồ Xuân 
Hương vào thời điểm khảo sát là Microcystis, Anabaena và Cylindrospermopsis (hình 3b), phản 
ảnh sự phú dưỡng hóa của thủy vực [2]. Các chỉ vi khuẩn lam này được biết đến rất nhiều trên 
thế giới vì khả năng sản sinh độc tố gan và độc tố thần kinh (anatoxin-a, microcystins, 
cylindrosperopsin) rất nguy hiểm cho thủy sinh vật, con người và động vật hoang dã [3]. Hai chi 
vi khuẩn lam ưu thế trong mẫu thu tháng 4 là Microcystis và Cylindrospermopsis, và trong mẫu 
thu tháng 7 là Anabaena và Cylindrospermopsis (hình 3b). Riêng chi Cylindrospermopsis, có 
khả năng sản sinh độc tố thần kinh và độc tố tế bào, chiếm tỉ lệ lên đến 80 % tổng mật độ vi 
khuẩn lam trong hồ (hình 3b). Độc tố microcystins đã từng được phát hiện trong hồ Xuân Hương 
[15]. Do đó, khả năng thủy sinh vật trong hồ và người dân địa phương bị phơi nhiễm mãn tính 
với độc tố vi khuẩn lam rất có thể đã và đang xảy ra mà điều này cần có những khảo sát, nghiên 
cứu sâu hơn để làm sáng tỏ vấn đề. 
Hình 3. Mật độ vi khuẩn lam (a) và tỉ lệ mật độ vi khuẩn lam (b) ở hồ Xuân Hương qua 2 đợt khảo sát, 
tháng 4 và 7/2013. VKL: vi khuẩn lam. 
96 
Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt 
3.3. Độc tính sinh thái của Cylindrospermopsis raciborskii lên Daphnia magna 
Sau 2 tuần thí nghiệm, tất cả sinh vật, D. magna, trong lô đối chứng còn sống. Tuy nhiên, 
sinh vật trong các lô phơi nhiễm bị chết và tỉ lệ sinh vật sống sót suy giảm theo thời gian. Cụ thể, 
quần thể sinh vật trong lô thí nghiệm 10 % CR chỉ còn 50 % sau 2 tuần thí nghiệm. Nghiêm 
trọng hơn, tỉ lệ sống sót của D. magna trong lô thí nghiệm 50 % CR chỉ còn 10 % sau 14 ngày 
phơi nhiễm và tất cả sinh vật trong lô thí nghiệm 100 % CR chết sau 8 ngày phơi nhiễm (hình 4). 
Kết quả nghiên cứu từ lô thí nghiệm 100 % của chúng tôi tương tự như công bố trước đây của 
Nogueira và cs. [16]. Điểm khác biệt là dù phơi nhiễm (cho ăn) ở các tỉ lệ vi khuẩn lam 
C. raciborskii thấp hơn (10% và 50 %), D. magna vẫn bị ảnh hưởng rất mạnh mà các công bố 
khoa học trước đây chưa thực hiện. Như vậy, trong điều kiện hồ Xuân Hương, khi mật độ 
C. raciborskii tăng cao và chiếm ưu thế trong thời gian đủ dài, quần xã động vật phù du trong hồ 
cũng sẽ bị suy giảm và thay đổi đáng kể trong thời gian đó. Điều này sẽ gián tiếp dẫn đến sự xáo 
trộn trong chuỗi thức ăn và các thủy sinh vật trong hồ như động vật phù du và cá. 
Hình 4. Tỉ lệ sống sót của Daphnia magna trong 2 tuần thí nghiệm. 10 % CR: lô thí nghiệm cho sinh vật 
ăn 90 % tào lục + 10 % C. raciborskii; 50 % CR: lô thí nghiệm cho sinh vật ăn 50% tào lục + 50 % C. 
raciborskii; 100 % CR: lô thí nghiệm cho sinh vật ăn 100 % C. raciborskii. 
Sự ảnh hưởng của C. raciborskii lên sức sinh sản của D. magna thay đổi tùy theo mật độ 
của vi khuẩn lam cho sinh vật ăn. Trong lô đối chứng, có tất cả 136 con non được các D. magna 
mẹ sinh ra trong 2 tuần nuôi. Số lượng con non thu được từ lô thí nghiệm 10 % CR chỉ có 10 cá 
thể. Ở mật độ C. raciborskii cao hơn, toàn bộ D. magna chết, trong trường hợp 100 % CR, hoặc 
không thành thục, trong trường hợp 50 % CR, do đó không có con non D. magna được sinh ra. 
Như vậy, loài vi khuẩn lam C. raciborskii không chỉ ảnh hưởng lên sức sống của D. magna 
mẹ mà còn làm suy giảm hoặc ức chế sự sinh sản của chúng. Do đó, trong điều kiện tự nhiên ở 
hồ Xuân Hương, khả năng suy giảm một quần thể động vật phù du nào đó hoàn toàn có thể xảy 
ra nếu vi khuẩn lam (như C. raciborskii) bùng phát liên tục trong thời gian dài, mà điều này cần 
có những nghiên cứu chi tiết hơn. 
97 
Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt 
4. KẾT LUẬN 
Chất lượng nước hồ Xuân Hương đang ở vào tình trạng rất xấu, phú dưỡng hóa, xét trên 
góc độ các chỉ tiêu hóa lí như độ trong, dinh dưỡng hay sinh vật (vi khuẩn lam). Sự bùng phát vi 
khuẩn lam trong hồ là một dấu hiệu xấu cho thủy sinh vật khác trong hồ. Độc tính sinh thái của 
loài vi khuẩn lam C. raciborskii phân lập từ hồ Xuân Hương lên vi giáp xác D. magna rất 
nghiêm trọng bao gồm sự suy giảm sức sống và kìm hãm sinh sản của vi giáp xác. Những 
nghiên cứu sâu hơn về độc tố vi khuẩn lam và tác động của vi khuẩn lam có độc ở hồ Xuân 
Hương lên quần xã sinh vật trong hồ cần được nghiên cứu vì lí do chất lượng môi trường nước, 
sự cân bằng hệ sinh thái thủy vực và sức khỏe cộng đồng. 
Lời cảm ơn. Nghiên cứu này được hỗ trợ từ đề tài cấp Đại học Quốc gia TP HCM, mã số C2013-24-01. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường - Tiêu chuẩn Việt Nam (loại B), 2008. 
2. Wetzel R. G. - Limnology: lake and river ecosystems (3rd edition). Academic Press, San 
Diego, 2001, pp. 1006. 
3. Sivonen K. and Jones G. - Cyanobacterial toxins. In Chorus I. and Bartram J. (Eds) Toxic 
Cyanobacteria in Water – a guide to their public health consequences, monitoring and 
management. E & FN Spon, London, 1999, pp. 41-111. 
4. Dao T. S. - Toxicity of cyanobacteria and cyanobacterial compounds from Tri An 
reservoir, Vietnam, to Daphnids. PhD thesis, Verlag in Internet GmbH, 2010, pp.152. 
5. Cronberg G. and Annadotter H. – Manual on Aquatic Cyanobacteria: a Photo Guide and a 
Synopsis of Their Toxicology, Kerteminde Tryk A/S, 2006, pp. 106. 
6. Dao T. S., Pham T. L, Do-Hong L. C., and Bui B. T. - Occurrence of toxic cyanobacteria 
and their toxins from freshwater bodies in Vietnam – a short review,Tạp chí Khoa học và 
Công nghệ 50 (1C) 2012 264-269. 
7. Dang H. P. H., Dang T. T., Nguyen S. N., Duong T. T., Dang D. K., and Dahlmann J. - 
The core university program between Japan society for the promotion of science (JSPS) 
and Vietnamese Academy of Science and Technology (VAST), Annual report of FY, 
2006, pp. 223-228 
8. Dao T. S., Ortiz-Rodriguez R., Do-Hong L. C. and Wiegand C. - Non-microcystin and 
non-cylindrospermopsin producing cyanobacteria affect the biochemical responses and 
behavior of Daphnia magna, Inter. Rev. Hydrobiol. 98 (2013) 235-244. 
9. UBND tỉnh Lâm Đồng - Các giải pháp xử lí bền vững ô nhiễm hồ Xuân Hương, Tài liệu 
hội thảo 2012. 
10. Sournia A. – Phytoplankton manual. UNESCO, UK, 1978, p.77. 
11. American Public Health Association (APHA) - Standard Methods for The Examination 
of Water and Wastewater, 21st Edition, Washington. 2005, pp. 733. 
12. Dương Đức Tiến - Phân loại vi khuẩn lam Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, 1996, 220 trang. 
13. Komárek J. and Anagnostidis K. - Modern approach to the classification system of 
cyanophytes. 4. Nostocales. Arch. Hydobiol. Suppl. 82/Algol. Stud. 56 (1989) 247-345. 
98 
Suy giảm chất lượng nước và độc tính sinh thái vi khuẩn lam từ hồ Xuân Hương, Đà Lạt 
14. Komárek J. and Anagnostidis K. - Süβwasserflora von Mitteleuropa, Cyanoprokaryota 2. 
Teil: Oscillatoriales, Gustav Fischer Verlag Jena, 1999, pp. 757. 
15. Lâm Ngọc Tuấn, Dương Đức Tiến, Nguyễn Hữu Đức, Lê Bá Dũng, Nguyễn Duy Chính, 
Vương Thúc Lan - Hiện tượng tảo nở hoa trong các thủy vực của thành phố du lịch Đà 
Lạt, ảnh hưởng của nó tới chất lượng nước và biện pháp xử lí. Báo cáo đề tài khoa học cấp 
Bộ B2004-29-33TĐ, 2007, 70 trang. 
16. Nogueira I. C. G., Saker M. L., Pflugmacher S. and Wiegand C. - Toxicity of 
cyanobacterium Cylindrospermopsis raciborskii to Daphnia magna. Environ. Toxicol. 19 
(2004) 4553-459. 
ABSTRACT 
WATER QUALITY DEGRADATION AND ECOTOXICOLOGY OF CYANOBACTERIA 
FROM XUAN HUONG LAKE, DA LAT 
Dao Thanh Son1, *, Bui Ba Trung2, Vo Thi My Chi2, Bui Thi Nhu Phuong2, Do Hong Lan Chi3, 
Nguyen Thanh Son2, Bui Le Thanh Khiet2 
1Hochiminh City University of Technology, 268 Ly Thuong Kiet St., Dist. 10, Hochiminh City 
2Institute for Environment and Resources, 142 To Hien Thanh St., Dist.10, Hochiminh City 
3Vietnam National University – HCMC, Linh Trung Ward, Thu Duc Dist., Hochiminh City 
*Email: dao_son2000@yahoo.com 
Water quality from Xuan Huong lake based on physical, chemical and biological 
parameters was monitored in April (representative for dry season) and July, 2013 (representative 
for rainy season). Besides, ecotoxicology of the cyanobacterium Cylindrospermopsis raciborskii 
isolated from Xuan Huong lake was also investigated via the exposures to the micro-crustacean 
Daphnia magna. The obtained results showed that water from the lake is eutrophic and seriously 
decreasing its quality. The dominance and bloom of cyanobacteria are bad status for other 
aquatic organisms in the lake. The cyanobacterium C. raciborskii adversely affected the micro-
crustacean including survival decrease of mother D. magna and population inhibition of its 
offspring. Monitoring on water quality of the lake especially on cyanobacteria and their toxins 
should be implemented because of environmental quality, ecosystem balance and community 
health protection. 
Keywords: Eutrophication, cyanobacteria, ecotoxicology, Cylindrospermopsis raciborskii, 
Daphnia magna. 
99 

File đính kèm:

  • pdfsuy_giam_chat_luong_nuoc_va_doc_tinh_sinh_thai_vi_khuan_lam.pdf