Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của người Dao ở nước ta hiện nay

Nghi lễ tín ngưỡng của người Dao ở nước ta, nhất là các nghi lễ Cấp sắc, Cúng Bàn Vương, Tết nhảy, Mở cửa rừng, Cúng miếu làng,. rất có giá trị về di sản văn hóa, góp phần bảo tồn bản sắc tộc người Dao: Từ các yếu tố tín ngưỡng tôn giáo, tập quán tương trợ, truyền thống giáo dục, cố kết cộng đồng,. đến duy trì các loại lễ phục, nhạc cụ, các điệu múa, bài cúng, nghệ thuật trang trí,. Song, dưới tác động mạnh mẽ của giao lưu và hội nhập hiện nay, rất cần có những giải pháp phù hợp với thực tiễn mỗi địa phương để bảo tồn và phát huy giá trị các nghi lễ đó từ nhiều góc độ. Trong đó, đặc biệt chú ý một số giải pháp liên quan tới hệ thống chính sách văn hóa; phát triển mọi mặt về kinh tế - Xã hội ở vùng dân tộc; nâng cao nhận thức và vai trò của các ban ngành ở địa phương; phát huy vai trò của người Dao - chủ thể văn hóa

pdf 7 trang yennguyen 4240
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của người Dao ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của người Dao ở nước ta hiện nay

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của người Dao ở nước ta hiện nay
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
119Volume 8, Issue 1
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN NGHI LỄ
CỦA NGƯỜI DAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Lý Hành Sơn
Viện Dân tộc học
Email: hmongdao@yahoo.com.vn
Ngày nhận bài: 10/3/2019
Ngày phản biện: 12/3/2019
Ngày duyệt đăng: 18/3/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/275
Nghi lễ tín ngưỡng của người Dao ở nước ta, nhất là các nghi lễ Cấp sắc, Cúng Bàn Vương, Tết nhảy, Mở cửa 
rừng, Cúng miếu làng,... rất có giá trị về di sản văn hóa, góp 
phần bảo tồn bản sắc tộc người Dao: Từ các yếu tố tín ngưỡng 
tôn giáo, tập quán tương trợ, truyền thống giáo dục, cố kết cộng 
đồng,... đến duy trì các loại lễ phục, nhạc cụ, các điệu múa, bài 
cúng, nghệ thuật trang trí,... Song, dưới tác động mạnh mẽ của 
giao lưu và hội nhập hiện nay, rất cần có những giải pháp phù 
hợp với thực tiễn mỗi địa phương để bảo tồn và phát huy giá trị 
các nghi lễ đó từ nhiều góc độ. Trong đó, đặc biệt chú ý một số 
giải pháp liên quan tới hệ thống chính sách văn hóa; phát triển 
mọi mặt về kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc; nâng cao nhận thức 
và vai trò của các ban ngành ở địa phương; phát huy vai trò của 
người Dao - chủ thể văn hóa.
Từ khóa: Người Dao ở nước ta; Nghi lễ; Truyền thống; Giá 
trị di sản; Bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
1. Mở đầu
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 
2009, tộc người Dao ở nước ta có 751.067 người, 
phân bố cư trú ở hầu hết các tỉnh trung du và miền 
núi phía Bắc, trong đó tập trung đông ở những tỉnh 
như Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, 
Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Quảng Ninh, Lạng 
Sơn, Sơn La, Hòa Bình,... Từ sau năm 1980, với tập 
quán di cư, người Dao còn có mặt ở Tây Nguyên và 
một số tỉnh miền Trung, Đông Nam Bộ. 
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu về người Dao ở 
nước ta. Theo kết quả tìm kiếm chưa đầy đủ tại Thư 
viện Viện Dân tộc học và một số thư viện khác ở 
Hà Nội, hiện nay có trên 470 ấn phẩm viết về người 
Dao ở Việt Nam, trong đó 50 ấn phẩm đã công bố 
từ năm 1980 trở về trước. Số còn lại được thực hiện 
từ sau năm 1980, nếu dựa vào nội dung, có thể phân 
chia một cách tương đối như: (1) Vấn đề chung và 
nguồn gốc lịch sử, nhân học hình thể, tộc danh, dân 
số,... có 89 công trình; (2) Nghiên cứu về sinh kế 
có 31 ấn phẩm; (3) Nghiên cứu về văn hóa vật chất 
có 42 ấn phẩm; (4) Nghiên cứu về văn hóa xã hội 
có 134 ấn phẩm, trong đó về hôn nhân và gia đình 
có 37 ấn phẩm, riêng lễ cấp sắc và đặt tên có 23 ấn 
phẩm; 5) Đề cập tới văn hóa tinh thần có 127 ấn 
phẩm, gồm 9 ấn phẩm về ca, múa, nhạc, và 19 ấn 
phẩm về tết nhảy, lễ hội, lễ tiết trong năm,...1. 
1. Vương Xuân Tình (Chủ biên, 2018), Các dân tộc ở Việt Nam, 
Tập 4 quyển 1: “Nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao và Tạng-Miến”, Nxb. 
Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.181-184.
Tuy vậy, vẫn thiếu những nghiên cứu mang 
tính tổng thể về di sản các nghi lễ, đặc biệt là giá 
trị những nghi lễ thường xuyên diễn ra trong cộng 
đồng cư trú, gia đình, dòng họ người Dao nước ta 
dưới tác động của toàn cầu hóa và xây dựng nông 
thôn mới. Do vậy, bài viết xin đề cập tới vấn đề bảo 
tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của tộc người 
Dao trong bối cảnh mới.
2. Khái quát về di sản nghi lễ của tộc người 
Dao
2.1. Nghi lễ của tộc người Dao
Qua một số nghiên cứu và kết quả điền dã tại 
nhiều địa phương, người Dao ở nước ta vẫn đang 
thực hành nhiều nghi lễ không chỉ đa dạng, mà còn 
góp phần bảo tồn bản sắc tộc người trong bối cảnh 
toàn cầu hóa. Có thể kể tới một số nghi lễ lớn như: 
Cấp sắc (Qua tang hoặc Chẩu say), Cúng ông tổ 
người Dao là Bàn Vương (Piền hùng đàng), Tết 
nhảy (Nhiàng chẩm đao), Mở cửa rừng (Tảy châu 
đàng), Cầu mùa (Trẩu sun), Cúng miếu làng (Síp 
mỉu miến), Tập nhảy múa (Hồ lạp miến), Tập bói 
(Sông quá), Tảo mộ tượng trưng (Chảy châu),... 
Ngoài ra, các nghi lễ khác diễn ra trong mỗi gia đình 
Dao cũng rất độc đáo, bởi vì tuy cùng một loại nghi 
lễ nhưng ở mỗi nhóm Dao lại diễn biến khác biệt, 
chẳng hạn như các lễ cưới (hấp tíu), gọi hồn (trẩu 
vần), tang ma (pjuốp miền tải), cúng ma nhà (síp 
ông thái),... Trong các nghi lễ đó, một số như Mở 
cửa rừng, Cầu mùa, Cúng miếu làng thuộc phạm vi 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
120 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
cộng đồng, các gia đình trong làng cùng thực hiện. 
Tết nhảy, Cấp sắc 12 đèn, cúng Bàn Vương, Tập 
nhảy múa hay Tập bói chủ yếu thuộc họ tộc, mọi 
nhà trong dòng họ cùng tham gia và thường tổ chức 
tại nhà trưởng họ hoặc nhà thầy cúng có uy tín của 
dòng họ. Các nghi lễ cấp sắc 3 hoặc 7 đèn, cưới, gọi 
hồn, tang ma,... do mỗi gia đình đứng ra tổ chức.
Bên cạnh đó, sự phong phú các nghi lễ còn tùy 
thuộc vào từng nhóm Dao. Dựa vào đặc điểm trang 
phục và lịch sử di cư, có thể chia thành 7 nhóm như: 
Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, 
Dao Quần Trắng, Dao Áo Dài, Dao Thanh Y. Nếu 
dựa vào ngôn ngữ thì có: nói phương ngữ Miền gồm 
các nhóm Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Chẹt, Dao 
Lô Gang; nói phương ngữ Mùn có Dao Quần Trắng, 
Dao Áo Dài, Dao Thanh Y2. Các nghi lễ ở mỗi 
nhóm Dao đều có nét riêng, nhất là giữa các nhóm 
nói hai phương ngữ. Chẳng hạn như lễ cấp sắc, các 
nhóm nói phương ngữ Miền có các cấp bậc 3 đèn, 7 
đèn, 12 đèn; nhưng các nhóm nói phương ngữ Mùn 
chỉ có hai cấp Tam Thanh và Tam Nguyên. Trong 
khi còn khác biệt về diễn biến nghi lễ ở mỗi bậc 
cấp sắc, tuổi của người thụ lễ, đặc điểm số nhóm 
thầy cúng làm lễ, cách trang trí lễ đường, trang 
phục, lễ vật cúng,...3. Lễ tang cũng vậy, có nhóm 
Dao nói phương ngữ Mùn ở một số vùng thì hỏa 
táng thi thể người chết, các nhóm Dao nói phương 
ngữ Miền chủ yếu địa táng,... Song, điểm chung ở 
chỗ, họ không làm giỗ hàng năm cho người đã mất, 
tang ma có thể tách ra làm hai đám với khoảng thời 
gian khác nhau: ma ướt - chôn cất thi thể (pjuốp 
com) cần tiến hành ngay khi có người qua đời, ma 
khô - làm chay để đưa hồn người chết về với tổ tiên 
(pjuốp miến) sẽ tổ chức sau khi có điều kiện4. Hiện 
nay do do đời sống kinh tế khá, nên người ta thường 
kết hợp làm luôn ma ướt và ma khô. 
Đó là chưa kể tới sự khác biệt giữa các nghi lễ 
ở trong các nhóm Dao, thậm chí cùng một nhóm 
nhưng tại những địa phương khác nhau lại có những 
nét riêng. Vì thế có thể nói, các nghi lễ tín ngưỡng 
ở tộc người Dao rất đa dạng, nhưng nếu xem xét 
chúng trong mỗi nhóm Dao ở những địa bàn cư trú 
khác nhau sẽ còn nhận thấy được sự đa dạng hơn 
rất nhiều.
2.2. Giá trị di sản nghi lễ của tộc người Dao
Qua kết quả khảo sát, đối với tộc người Dao, 
mỗi nghi lễ có giá trị không chỉ về tâm linh mà còn 
mang tính di sản văn hóa. Đó là các nghi lễ: Cấp 
2. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam 
Tiến (1971), Người Dao ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà 
Nội, tr.31-33; Nguyễn Khắc Tụng (1997), Trở lại vấn đề phân loại 
các nhóm Dao ở Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.30-37.
3. Lý Hành Sơn (2002), Lễ cấp sắc và bản sắc văn hóa Dao, Tạp chí 
Dân tộc học, số 3, tr.13-23.
4. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người 
của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà 
Nội, tr.220-257.
sắc, Cúng Bàn Vương, Cầu mùa, Tết nhảy, cúng ma 
nhà, tang ma,... Các nghi lễ này vừa phản ánh rõ nét 
về thế giới quan dân gian của người Dao, vừa thể 
hiện đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo của tộc người 
này. Qua đó thấy rằng, tín ngưỡng tôn giáo ở người 
Dao là một mớ hỗn độn, gồm: Hồn linh giáo, Đạo 
giáo, Phật giáo, Nho giáo,... Trong đó, nổi bật là 
Đạo giáo, tuy đến với người Dao khá muộn nhưng 
Đạo giáo đã thâu nhận, dung nạp và cải biến nhiều 
yếu tố tôn giáo nguyên thủy của người Dao thành 
một biểu hiện của Đạo giáo, biến thần linh của Đạo 
giáo thành thần linh của người Dao. Đó là những 
đàn ông Dao muốn thắp hương lên bàn thờ để cúng 
tổ tiên, muốn tham gia vào các nghi lễ cúng bái thì 
phải trải qua cấp sắc, tức phải có “pháp danh” hay 
“tên âm”. Trong quá trình cấp sắc, người ta treo các 
bức tranh thờ phản ánh các thần Đạo giáo, các thầy 
cúng hành lễ sẽ sử dụng các bùa phép của Đạo giáo, 
thổi sừng trâu gọi Ngọc Hoàng cùng Thái Thượng 
Lão Quân và các thiên sư xuống chứng giám, làm lễ 
cho linh hồn người thụ sắc lên thăm thiên đình, tổ 
chức cúng Bàn Vương,... Tuy phải thông qua yếu tố 
Đạo giáo, song tín ngưỡng đa thần và Vật linh giáo 
- tôn giáo nguyên thủy vẫn bao trùm và thể hiện 
đậm nét trên các lĩnh vực đời sống tín ngưỡng của 
đồng bào Dao: từ quan niệm về sự sống và chết, về 
các loại ma và thần linh, thờ cúng tổ tiên, cúng các 
thần linh và ma phù hộ sức khỏe con người,... đến 
tín ngưỡng trong sản xuất, chăn nuôi, trao đổi mua 
bán, nghề thủ công,...
Hơn nữa, các nghi lễ còn góp phần duy trì bản 
sắc văn hóa tộc người Dao, nhất là các yếu tố vật 
thể như: chữ nôm Dao và sách nôm Dao ghi chép 
chương trình nghi lễ cùng các bài cúng, bài hát và 
điệu múa trong nghi lễ; nhạc cụ, lễ phục, tranh thờ; 
các loại đàn cúng bày ở trong nhà và ngoài trời 
trong quá trình thực hành lễ; các lễ vật dâng cúng và 
phục vụ nghi lễ; các hình thức trang trí cho nghi lễ, 
tiền giấy âm phủ,... Chưa kể tới các yếu tố phi vật 
thể như quan niệm và vai trò của mỗi nghi lễ đối với 
người Dao, nội dung phản ánh của các tranh thờ, 
các bài cúng, bài hát, ý nghĩa các hiện vật bày cúng 
trong nghi lễ,... Tuy nhiên, các nghi lễ không chỉ 
giúp duy trì các đặc điểm văn hóa tộc người, mà còn 
là môi trường để phát triển các đặc điểm văn hóa ấy, 
nhất là các loại hình nghệ thuật, trò chơi dân gian.
Ngoài việc giải tỏa các yếu tố tâm linh, tâm lý và 
nhiều vấn đề khác liên quan, các nghi lễ của người 
Dao bất kể nghi lễ lớn hay nhỏ với phạm vi thực 
hiện trong cộng đồng hay gia đình,... đều là sự kiện 
quan trọng để duy trì và phát huy tập quán tương 
trợ và đoàn kết, cố kết giữa các gia đình trong cộng 
đồng cư trú cũng như giữa các thành viên của dòng 
họ và trong mỗi gia đình. Theo đó, các nghi lễ còn 
có ý nghĩa giáo dục mỗi người, đặc biệt là đối với 
những người chủ gia đình và trưởng dòng họ, góp 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
121Volume 8, Issue 1
phần vào việc ổn định xã hội tộc người Dao. Chẳng 
hạn như lễ cấp sắc, đàn ông Dao khi thụ lễ không 
chỉ được các thầy cúng căn dặn về các điều cấm kỵ 
và những điều phải làm để cứu người khác,... mà 
còn cấp âm binh để trợ giúp và theo dõi việc làm 
xấu hay tốt của người ấy trong suốt cuộc đời. Hơn 
nữa, trong cấp sắc, những lời hứa sẽ không làm điều 
ác chỉ làm việc thiện của người thụ lễ đều có sự 
chứng kiến của nhiều thần linh Đạo giáo như Thập 
diện diêm vương, Tứ trực công tào,... Vì thế, những 
người đàn ông Dao - người chủ gia đình khi đã trải 
qua lễ cấp sắc đều không dám làm điều ác, sống 
hiền lành,... góp phần tạo uy tín và sự đoàn kết trong 
gia đình cũng như trong dòng họ và cộng đồng.
Bên cạnh đó, rất nhiều lễ thức, nội dung bài 
cúng và hát cũng như diễn trình nghi lễ và yếu tố 
liên quan như lễ vật dâng cúng, hình thức trang trí, 
tranh thờ,... của các nghi lễ tín ngưỡng đều là những 
thông tin, tín hiệu, dữ liệu,... về nguồn gốc, lịch sử 
và cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội 
của tộc người Dao. Do vậy, thông qua các nghi lễ, 
đặc biệt là những nghi lễ lớn như Cấp sắc, Cúng 
Bàn Vương, Tết nhảy, tang ma,... có thể biết được 
nguồn gốc của tộc người Dao cũng như quá trình di 
cư của dân tộc này vào nước ta và sự thích ứng với 
môi trường tự nhiên của họ trong quá trình tồn tại 
và phát triển,...
Rõ ràng, trong bối cảnh cơ chế thị trường và đô 
thị hóa, toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, giá trị 
các nghi lễ của tộc người Dao ở nước ta ngày càng 
được nâng lên và tô đậm thêm trong bức tranh văn 
hóa các dân tộc Việt Nam. Điều đó có nghĩa, các 
nghi lễ ấy là di sản vô cùng quý giá không chỉ của 
riêng tộc người Dao mà cả nước ta, cần được bảo 
tồn trong bất cứ hoàn cảnh nào. 
3. Một số vấn đề đặt ra và kiến nghị giải pháp 
cho việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản nghi lễ 
của tộc người Dao
3.1. Một số vấn đề đặt ra 
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986, 
nghi lễ của người Dao được các ban ngành ở địa 
phương quan tâm duy trì, thậm chí khôi phục một 
số nghi lễ đã mất nhằm phục vụ cho hoạt động văn 
hóa quần chúng hoặc để phát triển du lịch, duy trì 
tín ngưỡng truyền thống của đồng bào, tránh sự 
xâm nhập của tôn giáo ngoại lai,... Song, việc duy 
trì các nghi lễ lớn và đặc sắc của người Dao hiện 
nay và thời gian tới cũng đang đặt ra không ít vấn 
đề như sau:
Một là, vấn đề mai một và biến đổi nghi lễ, 
nhất là những nghi lễ liên quan tới trồng trọt, chăn 
nuôi, nghề thủ công. Qua thời gian, nhất là thời kỳ 
hợp tác xã, nhiều nghi lễ nông nghiệp đã mai một: 
cúng thóc giống, cúng ruộng nương vào dịp gieo 
cấy, cúng hồn lúa,... Hiện nay, một số nghi lễ nông 
nghiệp trong gia đình chỉ kết hợp cúng ma nhà khi 
có tết Nguyên đán, Rằm tháng 7 âm lịch,...; phạm 
vi cộng đồng cư trú còn có lễ cúng tại miếu làng 
hoặc trong lễ cầu mùa, mở cửa rừng,... Các nghi lễ 
khác như cầu mưa, cúng khi phát nương, cúng cơm 
mới,... đã không còn duy trì ở một số địa phương 
người Dao. Việc mai một đó là do sự thay đổi hoạt 
động kinh tế truyền thống, phải chăng vấn đề đặt 
ra là cần quan tâm tới một số nghi lễ mà nền nông 
nghiệp ở người Dao đang biến đổi và hướng tới, cụ 
thể là nghi lễ liên quan tới bảo vệ rừng đầu nguồn, 
nghi lễ bảo vệ tài nguyên nước và môi trường sông 
suối, nghi lễ tổ nghề mới,... 
Hai là, vấn đề đạo Tin lành với việc duy trì các 
nghi lễ truyền thống. Hiện nay, một bộ phận người 
Dao, nhất là Dao Áo Dài ở một vài địa phương các 
tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn,... và một số 
người Dao Đỏ ở Lạng Sơn, Bắc Kạn,... đã bị ảnh 
hưởng từ đạo Tin lành. Họ đã bỏ bàn thờ tổ tiên, 
chỉ thờ chúa Giê-su, nên đã từ bỏ các nghi lễ truyền 
thống. Tình hình này tuy làm phong phú cho văn 
hóa Dao, song nếu tín ngưỡng truyền thống không 
tự biến đổi kịp thời và cùng với đó là đổi mới một 
số nghi lễ cho phù hợp bối cảnh mới thì theo thời 
gian, số người Dao bị lôi kéo theo Tin lành sẽ ngày 
càng nhiều.
Ba là, vấn đề tự đổi mới các nghi lễ cổ truyền và 
đặc điểm tín ngưỡng tộc người cho phù hợp với sự 
biến đổi các điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ 
nhận thức của người dân, nhất là bối cảnh toàn cầu 
hóa với việc gia tăng ảnh hưởng các tôn giáo ngoại 
lai. Với người Dao, tín ngưỡng truyền thống đã có 
lâu đời do sự kết hợp giữa Vật linh giáo, Đạo giáo, 
Phật giáo,... Theo đó, thờ cúng chủ đạo là tổ tiên 
gồm tổ tiên tộc người là Bàn Vương, tổ tiên dòng 
họ, gia tiên, thổ địa, thần lúa gạo, thần chăn nuôi,... 
Song, như đã trình bày, các gia chủ, thầy cúng 
muốn thực hiện các nghi lễ thì phải trải qua cấp 
sắc, tức gia nhập Đạo giáo; có như vậy mới được 
tổ tiên và các loại ma công nhận khi hành lễ,... Hơn 
nữa, khi thực hiện các nghi lễ, đàn ông Dao còn 
bị ảnh hưởng Phật giáo về nhân quả, chay tịnh,... 
Nay do môi trường thay đổi và nhận thức của con 
người được nâng cao, nhiều yếu tố trong tín ngưỡng 
truyền thống cũng như các nghi lễ của người Dao đã 
không còn phù hợp và cần đổi mới, cụ thể như tín 
ngưỡng đa thần đối với sản xuất nông nghiệp, chăn 
nuôi...; quan niệm về các loại ma làm hại,.. ...  ơn tổ tiên, các thánh thần 
phù hộ,... để giáo dục cá nhân, cộng đồng biết ơn 
với điều kiện đời sống và phát triển hiện tại về kinh 
tế - xã hội ở vùng người Dao là nhờ các chính sách 
của Đảng và Nhà nước. Từ đó, giúp đồng bào có 
cách nhìn rõ hơn về các giá trị của đời sống, thông 
qua các thành tựu mà Đảng, Nhà nước cùng cộng 
đồng đã dày công vun đắp, tạo dựng,... để người 
Dao hôm nay có cuộc sống ổn định cả về vật chất 
và tinh thần.
Trên cơ sở tăng cường quảng bá về việc thực 
hành gia đình, dòng họ, cộng đồng đối với các nghi 
lễ trên hệ thống phương tiện truyền thông như đài, 
báo và tivi, cần chú ý xây dựng các trang mạng xã 
hội dưới nhiều hình thức để cập nhật thông tin về 
địa điểm, thời gian các gia đình, dòng họ và cộng 
đồng đã và sẽ tổ chức nghi lễ, nhất là những nghi lễ 
lớn,... Qua hình thức quảng bá này, từng bước hình 
thành mạng lưới du lịch khám phá, du lịch cộng 
đồng để khách du lịch có thể cùng tham gia tìm 
hiểu, trải nghiệm về giá trị nghi lễ ở các địa phương. 
Theo Luật Di sản Văn hóa, Nhà nước tăng 
cường các nguồn lực để: Xây dựng các thiết chế 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
123Volume 8, Issue 1
văn hóa cơ sở; Tổ chức kiểm kê, phân loại di sản 
văn hóa các dân tộc thiểu số, trong đó có các nghi 
lễ của người Dao; Xây dựng kế hoạch bảo tồn, phát 
huy giá trị cho di sản trong đời sống đương đại, bao 
gồm bảo tồn động và bảo tồn tĩnh; Xây dựng chính 
sách đãi ngộ, tôn vinh các nghệ nhân người dân tộc 
thiểu số đang nắm giữ và có công phổ biến nghệ 
thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị 
đặc biệt; Tạo nguồn kinh phí hỗ trợ các nghệ nhân 
tổ chức các lớp trao truyền tri thức, kinh nghiệm 
trong dòng họ, gia đình, cộng đồng.
Như vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản 
nghi lễ tộc người Dao đòi hỏi nỗ lực từ hai phía: Nhà 
nước và người dân. Nhà nước đảm bảo về chính 
sách, cơ chế quản lý linh hoạt, các thiết chế cơ sở 
phù hợp, hỗ trợ bảo tồn dưới dạng tĩnh,... Người 
dân thì không chỉ vừa là chủ thể vừa là người thực 
hành các nghi lễ, mà còn là người quyết định đến 
việc duy trì hay chuyển đổi, thậm chí bỏ đi những 
chi tiết trong mỗi nghi lễ hoặc những nghi lễ không 
còn phù hợp với cuộc sống mới,... Theo đó, việc 
duy trì nguyên gốc hay làm biến đổi một số chi tiết 
trong một hoặc vài nghi lễ là do sự quyết định của 
chính người dân.
- Đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở 
vùng người Dao
Một thực tế là tộc người hay một bộ phận sinh 
sống ở những nơi còn khó khăn về điều kiện cơ sở 
vật chất thì khả năng lưu giữ, thực hành các nghi lễ 
của tộc người càng nhiều hơn, nghĩa là sự “lạc hậu” 
đôi khi tỷ lệ thuận với hoạt động bảo tồn di sản văn 
hóa tộc người. Song, đây cũng là vấn đề dễ bị thế 
lực thù địch và tôn giáo ngoại lai lợi dụng, do vậy 
cần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội kết hợp 
nâng cao trình độ dân trí cho các dân tộc, trong đó 
có người Dao. Đây là mục tiêu quan trọng, tác động 
trực tiếp đến các hoạt động văn hóa ở cơ sở, trong 
đó có các nghi lễ của người Dao. Khi người dân có 
cuộc sống ổn định, có trình độ hiểu biết thì việc vận 
động họ duy trì và phát huy giá trị di sản các nghi lễ 
truyền thống sẽ thuận lợi rất nhiều, mà lại không bị 
các thế lực thù địch và tôn giáo ngoại lai lợi dụng. 
Hơn nữa, phát triển kinh tế - xã hội kết hợp nâng 
cao dân trí cho người dân ở mọi vùng miền, kể cả 
những nơi vùng sâu còn góp phần hình thành những 
giá trị văn hóa mới trong quá trình bảo tồn, phát huy 
di sản các nghi lễ truyền thống của người Dao và 
các tộc người khác, khiến cho di sản các nghi lễ đó 
ngày càng phù hợp với đời sống đương đại, với sự 
gia tăng giao lưu và hội nhập quốc tế. Qua đó, gìn 
giữ được bản sắc riêng vừa có yếu tố truyền thống 
tộc người vừa có yếu tố đương đại - bản sắc có sức 
đề kháng, khu biệt để “hòa nhập mà không hòa tan” 
trong quá trình hội nhập với văn hóa, văn minh của 
nhân loại. Đây cũng chính là nhằm giải quyết tốt 
hơn vấn đề tự đổi mới các nghi lễ truyền thống cùng 
với các yếu tố tín ngưỡng tộc người cho phù hợp 
với bối cảnh mới, không bị coi “lạc hậu”, nhưng 
quan trọng nhất là vẫn giữ được hầu hết các giá trị 
truyền thống mà không bị thế lực khác và tôn giáo 
khác lợi dụng, lôi kéo,...
- Đối với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương
Người Dao ở mỗi địa phương cần được tuyên 
truyền thường xuyên để họ tự ý thức về giá trị di 
sản các nghi lễ; cần được tham gia có hiệu quả vào 
công tác phát huy bản sắc của chính tộc người Dao. 
Vì vậy, các ban ngành ở địa phương không nên áp 
đặt mà cần kiên trì tuyên truyền, khuyến khích đồng 
bào lựa chọn đúng hướng, phù hợp với nhu cầu cá 
nhân, gia đình, cộng đồng nhưng vẫn giữ được bản 
sắc của các nghi lễ. Cộng đồng người Dao là chủ 
thể văn hóa Dao, chính quyền địa phương cần nâng 
cao nhận thức cho họ về ý nghĩa và cách bảo tồn 
văn hóa ấy. Vấn đề là lớp trẻ hiện nay ít chú trọng 
tới văn hóa dân tộc với các nghi lễ tín ngưỡng, bởi 
họ sớm giao lưu với bên ngoài và sống trong môi 
trường văn hóa hiện đại. Các ban ngành và đoàn thể 
ở địa phương cần gia tăng thời lượng tuyên truyền 
cho lớp trẻ biết trân trọng giá trị di sản các nghi lễ 
do cha ông để lại, bởi họ sẽ là chủ nhân tương lai 
giữ gìn và phát huy vốn văn hóa, bao gồm các nghi 
lễ của tộc người Dao: 
i) Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ cơ sở 
về vị trí, vai trò các nghi lễ cổ truyền của các dân 
tộc ở địa phương. Từ đó, cán bộ cơ sở sẽ được củng 
cố thêm ý thức bảo tồn văn hóa tộc người, đồng thời 
tích cực phối hợp với các trưởng thôn, trưởng các 
dòng họ, các thầy cúng tại địa phương cùng tham 
gia duy trì, thực hành nghiêm cẩn các nghi lễ tín 
ngưỡng tộc người, nhằm phát huy và làm phong 
phú thêm bản sắc các dân tộc ở trên địa bàn, tạo 
điều kiện phục vụ du lịch hoặc hướng tới phát triển 
du lịch thông qua quảng bá với nhiều hình thức.
ii) Phát huy hơn nữa vai trò các đoàn thể như 
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ,... Đặc biệt, cần đưa 
nội dung tuyên truyền về bảo tồn giá trị văn hoá 
truyền thống vào các cuộc sinh hoạt của hội, thôn/
làng; vận động các thành viên các hội, nhất là Hội 
Người cao tuổi để nhắc nhở con cháu trân trọng, 
giữ gìn các nghi lễ tín ngưỡng. Hơn nữa, đại diện 
các đoàn thể trong thôn/làng có thể đến từng hộ gia 
đình để vận động, tuyên truyền về việc giữ gìn và 
phát huy bản sắc tộc người, gồm các nghi lễ truyền 
thống.
iii) Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin 
đại chúng, vì hiện nay đa số các gia đình Dao ở các 
địa phương đều có tivi, đài, sử dụng điện thoại,... 
Cần gia tăng chương trình về trang tin địa phương 
nhằm giới thiệu các dân tộc ở Việt Nam để đồng 
bào Dao thấy sự phong phú trong hóa các dân tộc, 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
124 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
sẽ thêm trân trọng bản sắc tộc người Dao, nhất là 
các nghi lễ đặc trưng với các đặc điểm văn hóa vật 
thể liên quan như lễ phục, nhạc cụ, tranh thờ, nghệ 
thuật trang trí,...
iv) Các ban ngành và đoàn thể ở địa phương 
cần phát triển đội văn nghệ thôn làng người Dao 
với nhiều tiết mục trích xuất từ các nghi lễ của tộc 
người và khuyến khích các đội văn nghệ này hoạt 
động thường xuyên, kết hợp biểu diễn cùng với đội 
thông tin lưu động của xã, huyện và biểu diễn trong 
các nghi lễ dân tộc.
v) Cộng đồng người Dao các thôn/làng là chủ 
thể các nghi lễ của họ, ngoài việc tuyên truyền cho 
đồng bào có ý thức tự giữ gìn các nghi lễ, các ban 
ngành và đoàn thể cần thu hút họ vào các buổi sinh 
hoạt văn hoá dân tộc ở ngay thôn, làng, xã. Song, 
cần có chế độ tôn vinh, khen thưởng những thầy 
cúng có uy tín, trưởng dòng họ giữ được nhiều nghi 
lễ cổ truyền, nhằm khuyến khích họ trao truyền 
văn hoá tộc người, kể cả thực hành các nghi lễ tín 
ngưỡng cho thế hệ con cháu dưới mọi hình thức, 
nhất là dạy bảo trực tiếp con cháu trong gia đình, 
dòng họ.
- Đối với mỗi gia đình và cộng đồng người Dao
Mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng thôn làng 
người Dao và cá nhân thầy cúng cần thấy rõ việc 
thực hành đúng bài bản và nghiêm cẩn các nghi lễ 
truyền thống của dân tộc là vinh dự, góp phần duy 
trì bản sắc tộc người. Việc tổ chức các nghi lễ cần 
tiết kiện thời gian, công sức và kinh phí, song không 
vì thế mà giản lược, bỏ qua những chi tiết đặc trưng, 
tức cần phải làm đầy đủ: từ cách trang trí lễ đường, 
đàn cúng, sử dụng đầy đủ các lễ phục, lễ vật, nhạc 
cụ, tranh thờ,... cho đến các bước diễn trình, các bài 
cúng, múa, bùa chú, phép thuật, kiêng kỵ. Việc đổi 
mới cần đảm bảo không làm mất giá trị của truyền 
thống, chẳng hạn nếu mỗi câu, đoạn bài cúng buộc 
người cúng đọc 3 lần thì chỉ cần 3 người đọc cùng 
lúc sẽ giảm rất nhiều thời gian. Đa số chi tiết của 
nghi lễ nếu làm đúng tập quán sẽ ít tốn kém, lãng 
phí hiện nay chủ yếu do thương mại hóa, sự đua đòi 
về lễ vật dâng cúng, tổ chức ăn uống, trang hoàng 
nghi lễ, mời khách đến đông,... 
Trước đây, các gia đình, dòng họ, cộng đồng 
thôn/làng đều nghèo về kinh tế nhưng vẫn làm 
được các nghi lễ lớn, bởi vì lễ vật dâng cúng chỉ cần 
đủ số loại, không cần nhiều về số lượng và trọng 
lượng các con vật; các ngày chính lễ trước kia đều 
ăn chay, nay thì tổ chức linh đình; ăn uống trước 
kia chỉ vài món theo truyền thống, nay rất nhiều 
món mới đắt tiền với số lượng lớn do mời nhiều 
khách trong và ngoài thôn/làng, bạn bè, các đoàn 
thể, cán bộ địa phương,... Rõ ràng, trong bối cảnh 
cuộc sống hiện nay, nếu các nghi lễ thực hiện đúng 
tập quán cổ truyền thì không chỉ hạn chế sự lãng 
phí, tiết kiệm công sức cho gia đình, dòng họ và 
cộng đồng người Dao, mà còn đảm bảo duy trì các 
yếu tố truyền thống của nghi lễ. 
Trên cơ sở thực hành các nghi lễ đúng theo tập 
quán, mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng người Dao 
và thầy cúng có uy tín cần nâng cao tinh thần tự giác 
phát huy vai trò giáo dục con em giữ lấy những giá 
trị truyền thống như tiếng nói, chữ viết, các nghi 
lễ của gia đình, dòng họ, cộng đồng. Dịp cuối năm 
và đầu năm mới, các dòng họ và gia đình hay tổ 
chức nhiều nghi lễ, do đó cần khuyến khích các em 
học chữ nôm Dao, học các bài cúng, các điệu múa, 
sử dụng nhạc cụ dân tộc. Đây là việc làm rất quan 
trọng, thể hiện sự quan tâm của lớp người già đối 
với việc trao truyền đặc điểm văn hóa, nhất là các 
nghi lễ truyền thống của dân tộc cho lớp trẻ. Theo 
đó, lãnh đạo thôn, xã cần tìm ra những dòng họ và 
cá nhân tiêu biểu để tuyên dương, làm tấm gương 
nhân rộng,...
Thời điểm nông nhàn cuối năm, trưởng họ và 
thầy cúng có uy tín nên xin phép chính quyền địa 
phương mở lớp học theo tập quán tộc người để dạy 
cho lớp trẻ về chữ nôm, dạy các bài cúng lễ, múa, 
sử dụng nhạc cụ dân tộc, diễn trình một số nghi lễ 
lớn,... Đây là việc làm hàng năm của không ít dòng 
họ người Dao ở nhiều nơi nhằm chuẩn bị cho việc 
thụ lễ cấp sắc sắp tới. Song, lớp trẻ hiện nay thường 
không thích văn hóa dân tộc mình nhưng lại tiếp 
thu rất nhanh luồng văn hóa mới, do đó đòi hỏi sự 
nỗ lực thuyết phục của lớp người già, đặc biệt là sự 
trợ giúp của trưởng thôn, trưởng dòng họ, chủ mỗi 
gia đình. Việc làm này có ý nghĩa rất lớn, bởi vì các 
nghi lễ tín ngưỡng là tài sản quý giá của thế hệ trước 
dành tặng cho thế hệ kế tiếp, nếu bản thân chủ nhân 
văn hóa bảo tồn không tốt các nghi lễ ấy thì sẽ làm 
đứt mạch với quá khứ, tạo nguy cơ mai một các đặc 
trưng tín ngưỡng truyền thống, mở đường cho tôn 
giáo mới xâm nhập.
4. Kết luận
Người Dao có nghi lễ tín ngưỡng phong phú 
và đa dạng do có tới 2 phương ngữ, 7 nhóm địa 
phương. Đó là những nghi lễ như Cúng Bàn Vương, 
Cấp sắc, Tết nhảy, Mở cửa rừng, Tảo mộ tượng 
trưng,... Chưa kể tới các nghi lễ trong gia đình như 
cưới xin, tang ma, gọi hồn, cúng tổ tiên... Các nghi 
lễ rất có giá trị trên nhiều lĩnh vực, góp phần bảo 
tồn văn hóa tộc người Dao: từ đặc điểm tín ngưỡng 
tôn giáo, tập quán tương trợ nhau, truyền thống giáo 
dục, cố kết cộng đồng,... đến việc duy trì lễ phục, 
nhạc cụ, các điệu múa, bài cúng,...
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, có không ít vấn 
đề đặt ra. Đó là: sự mai một một số nghi lễ, nhất là 
những nghi lễ liên quan tới trồng trọt, thủ công gia 
đình; đạo Tin lành xâm nhập vào một bộ phận nhỏ 
người Dao ở một số địa phương; lớp trẻ người Dao 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
125Volume 8, Issue 1
ít quan tâm đến việc học hỏi để trở thành những 
người có khả năng thực hành các nghi lễ; vấn đề 
biến các nghi lễ của người Dao thành những sản 
phẩm hàng hóa mang lại một phần lợi ích kinh tế, 
thu hút khách du lịch,... 
Vì vậy, cần có những giải pháp cụ thể, thiết thực, 
đồng bộ và phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi 
địa phương để bảo tồn và phát huy các giá trị của 
các nghi lễ từ nhiều góc độ. Trong đó đặc biệt chú 
ý tới một số giải pháp lớn như: hệ thống chính sách 
văn hóa; sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở vùng 
dân tộc thiểu số; nâng cao nhận thức và vai trò của 
các ban ngành ở địa phương đối với bảo tồn các 
nghi lễ; phát huy vai trò của người Dao - chủ thể 
văn hóa.
CONSERVE AND PROMOTE THE VALUE OF RITUAL HERITAGE 
OF THE DAO PEOPLE IN OUR COUNTRY TODAY
Ly Hanh Son
Institute of Anthropology
Email: hmongdao@yahoo.com.vn
Received: 10/3/2019
Revised: 12/3/2019
Accepted: 18/3/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/275
Abstract: Religious rituals of the Dao people in our 
country, especially rituals of Excellent rankings, King’s 
altar, the New Year’s dance, Opening the forest door, 
The village shrine... are valuable for cultural heritage, 
contributing to preserving Dao ethnic identity: From 
the elements of religious beliefs, customary practices, 
traditional education, community cohesion... to maintain 
all kinds of vestments, musical instruments, dances, cards 
offerings, decorative arts... But, under the strong impact of 
exchanges and integration at present, it is necessary to have 
solutions suitable to the reality of each locality to preserve 
and promote thế values of such rituals from many angles. In 
particular, special attention is paid to some solutions related 
to the system of cultural policies; develop all aspects of 
economy and society in ethnic areas; raising awareness and 
the role of local departments; promote the role of the Dao 
people - cultural subjects.
Keywords: Dao people in our country; Ritual; Traditional; 
Heritage value; Preserving and promoting heritage values.
Tài liệu tham khảo
Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, 
Nguyễn Nam Tiến (1971), Người Dao ở Việt 
Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Lý Hành Sơn (2002), Lễ cấp sắc và bản sắc văn 
hóa Dao, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.13-23.
Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong 
chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở Ba 
Bể, Bắc Kạn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Khắc Tụng (1997), Trở lại vấn đề phân 
loại các nhóm Dao ở Việt Nam, Tạp chí Dân 
tộc học, số 3, tr.30-37.
Vương Xuân Tình (Chủ biên, 2018), Các dân 
tộc ở Việt Nam, Tập 4 quyển 1: Nhóm ngôn 
ngữ Hmông-Dao và Tạng-Miến, Nxb. Khoa 
học Xã hội, Hà Nội.
Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung 
ương (2010), Tổng điều tra dân số và Nhà ở 
Việt Nam năm 2009, Kết quả toàn bộ, Nxb. 
Thống kê, Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_va_phat_huy_gia_tri_di_san_nghi_le_cua_nguoi_dao_o_n.pdf