Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại thành phố Hồ Chí Minh
Mục đích của bài viết này là xác định mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố bên trong đến chất lượng thông tin kế toán trên báo
cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Nghiên cứu hỗn hợp được sử dụng trong bài báo, trong đó
nghiên cứu định tính được sử dụng trước với phương pháp tình
huống thông qua kỹ thuật thảo luận, phỏng vấn và sử dụng điểm
bão hòa. Kết quả cho thấy có 7 nhân tố ảnh hưởng để xây dựng mô
hình lý thuyết, với thuế là nhân tố phát hiện mới – đặc thù khi thực
hiện nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp theo, nghiên cứu
định lượng được dùng để kiểm định lại mô hình. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng có 4 nhân tố tác động đến chất lượng thông tin kế
toán trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết, được sắp
xếp theo mức độ ảnh hưởng giảm dần: bộ máy kế toán, nhà quản
lý, chứng từ kế toán và thuế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa ra một
số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán tại các
doanh nghiệp niêm yết trên địa bàn nghiên cứu, đồng thời đề xuất
hướng nghiên cứu cho tương lai.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại thành phố Hồ Chí Minh
Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 143 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Thành phố Hồ Chí Minh Lê Hoàng Vân Trang1*, Võ Văn Hiền2 và Nguyễn Hoàng Thơ3 1,2,3Trường Đại học Tiền Giang *Tác giả liên hệ, Email: lehoangvantrang@tgu.edu.vn THÔNG TIN TÓM TẮT DOI:10.46223/HCMCOUJS.econ. vi.15.2.246.2020 Ngày nhận: 07/01/2020 Ngày nhận lại: 11/02/2020 Duyệt đăng: 11/02/2020 Từ khóa: Báo cáo tài chính Chất lượng thông tin Doanh nghiệp niêm yết Thông tin kế toán Keywords: Financial statements The quality of information Listed enterprises Accounting information Mục đích của bài viết này là xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố bên trong đến chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu hỗn hợp được sử dụng trong bài báo, trong đó nghiên cứu định tính được sử dụng trước với phương pháp tình huống thông qua kỹ thuật thảo luận, phỏng vấn và sử dụng điểm bão hòa. Kết quả cho thấy có 7 nhân tố ảnh hưởng để xây dựng mô hình lý thuyết, với thuế là nhân tố phát hiện mới – đặc thù khi thực hiện nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp theo, nghiên cứu định lượng được dùng để kiểm định lại mô hình. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có 4 nhân tố tác động đến chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết, được sắp xếp theo mức độ ảnh hưởng giảm dần: bộ máy kế toán, nhà quản lý, chứng từ kế toán và thuế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán tại các doanh nghiệp niêm yết trên địa bàn nghiên cứu, đồng thời đề xuất hướng nghiên cứu cho tương lai. ABSTRACT The objective of this paper is to identify the internal factors affecting the quality of accounting information on financial statements of Ho Chi Minh City listed enterprises. In this paper a mixed study involved qualitative and quantitative researches. At first, qualitative research was used with case studies through discussion, interview and saturation point. The results showed that there were seven influential factors in building a theoretical model in which “tax” is a new specific factor to conduct research in Ho Chi Minh City. Then, quantitative research was used to retest the model. The research results indicated that there were four factors affecting the quality of accounting information on financial statements of listed enterprises and being sorted by the level of diminishing influence: (1) accounting networks, (2) managers, (3) accounting documents and (4) tax. Based on the study outcomes, we give some recommendations to the Ho Chi Minh city listed enterprises for improving the quality of accounting information and new directions in future research. 144 Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 1. Đặt vấn đề Thông tin kế toán (TTKT) được xem là một trong những công cụ hữu ích hỗ trợ cho các đối tượng sử dụng bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp đưa ra các quyết định có liên quan. Do đó, chất lượng thông tin công bố trên báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả ra quyết định của người sử dụng thông tin. Đối với các doanh nghiệp niêm yết (DNNY), TTKT trên BCTC đòi hỏi cao về chất lượng do: (1) người quan tâm đến TTKT trên BCTC rất đa dạng, phức tạp về trình độ và số lượng; (2) số lượng cổ đông lớn và biến động liên tục, việc theo dõi và phản ánh các nghiệp vụ vốn chủ sở hữu, phân phối lợi nhuận gặp nhiều khó khăn; (3) các TTKT đặc thù trên BCTC như thặng dư vốn cổ phần, cổ phiếu quỹ, lãi cơ bản trên cổ phiếu, việc tăng, giảm vốn chủ sở hữu trên thuyết minh BCTC và (4) việc công bố thông tin BCTC tuân thủ nghiêm ngặt hơn các doanh nghiệp thông thường. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các DNNY thường công bố những BCTC với số liệu kế toán đã được “làm đẹp” thay vì số liệu thực của nó. Chính vì vậy, khi nền kinh tế có những biến động, không ít DNNY gặp khó khăn, thậm chí phá sản. Vẫn còn nguyên đó những bài học trên thế giới như Worldcom (1999), Enron (2001), Toshiba (năm 2015), ở Việt Nam có Viglacera Từ Sơn (2007). Đặc biệt, Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) thì có Bibica (2002), Bông Bạch Tuyết (2007), Viễn Đông (2011), gần đây nhất là Descon (2018). Điều này làm mất niềm tin công chúng vào thị trường chứng khoán cũng như gây khó khăn cho cơ quan quản lý Nhà nước. Từ thực trạng trên, việc tìm hiểu và nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng chất lượng TTKT và đưa ra các khuyến nghị gia tăng chất lượng TTKT trên BCTC của các DNNY tại một trung tâm kinh tế lớn như TP.HCM là vấn đề quan trọng cần thực hiện. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Chất lượng thông tin kế toán trên BCTC Chất lượng thông tin (CLTT) Thông tin là sản phẩm của quá trình xử lý dữ liệu, làm cho dữ liệu có thêm ý nghĩa và giá trị trong những hoàn cảnh nhất định (Davenport & Prusak, 1998). Thông tin cũng có lợi trong việc ra quyết định vì nó làm giảm sự không chắc chắn và tăng tri thức cho vấn đề được đề cập (Gelinas và cộng sự, 2011). Tương tự thông tin, chất lượng cũng có rất nhiều khái niệm khác nhau. Chất lượng là sự phù hợp nhu cầu (Juran, 1988). Theo Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO), ISO 9000:2005, chất lượng mang những đặc trưng cơ bản: thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng, phù hợp với các nhu cầu khác nhau và được tiêu chuẩn hóa cụ thể. Từ hai khái niệm thông tin và chất lượng ở trên, có rất nhiều quan điểm khác nhau về CLTT. CLTT được định nghĩa như là thông tin đáp ứng những đặc điểm kỹ thuật hay đạt được các yêu cầu, sự mong đợi của người sử dụng thông tin (Khalil và cộng sự, 1999). Wang (1998) thì cho rằng CLTT là thông tin phù hợp cho việc sử dụng của người sử dụng thông tin. Theo đó, thông tin chất lượng là thông tin đảm bảo được bản chất, bối cảnh, biểu hiện và có thể truy cập được. Tóm lại, CLTT gồm các đặc tính cơ bản là chính xác, kịp thời, đầy đủ, dễ hiểu, so sánh được, có thể truy cập được và an toàn. Chất lượng TTKT trên BCTC TTKT trên BCTC về bản chất vẫn là thông tin, do đó chất lượng TTKT trên BCTC cũng cần được xây dựng dựa trên nền tảng CLTT. Theo Ủy ban chuẩn mực kế toán tài chính (FASB), chất lượng TTKT trên BCTC được chia làm 2 nhóm đặc điểm: (1) đặc điểm cơ bản gồm thích hợp và đáng tin cậy; và (2) đặc điểm thứ yếu gồm nhất quán và có thể so sánh được. Theo Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), các đặc điểm chất lượng TTKT trên BCTC gồm: có thể hiểu Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 145 được, thích hợp, đáng tin cậy và có thể so sánh được. Dự án hội tụ IASB và FASB đã xác định chất lượng TTKT có các đặc điểm như thích hợp, trung thực, có thể so sánh, có thể kiểm chứng, kịp thời và có thể hiểu được. Theo Luật kế toán Việt Nam số 88/2015/QH13 và Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01, những thuộc tính của chất lượng TTKT trên BCTC là trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, có thể so sánh và kiểm chứng được. Riêng đối với DNNY, BCTC cần phải rõ ràng, đầy đủ các thông tin đặc thù như phân phối lợi nhuận, thặng dư vốn cổ phần, cổ phiếu quỹ và lãi cơ bản trên cổ phiếu. 2.2. Các nghiên cứu liên quan chất lượng TTKT trên BCTC Fathi (2013) nghiên cứu nhân tố quản trị công ty ảnh hưởng đến chất lượng TTKT trên BCTC của các DNNY tại Pháp, xác định 4 nhân tố ảnh hưởng gồm: (1) đặc điểm tài chính doanh nghiệp (đòn bẩy, lợi nhuận, tình trạng niêm yết); (2) đặc điểm của hội đồng quản trị; (3) chất lượng kiểm toán nội bộ và (4) cơ cấu sở hữu. Kết quả là các nhân tố trên đều có tác động tích cực đến chất lượng TTKT trên BCTC. Tuy nhiên, cơ cấu sở hữu có tác động ngược chiều. Abdullah và cộng sự (2015) tìm ra mối quan hệ giữa chuẩn mực kế toán, quản trị doanh nghiệp, kiểm soát bên ngoài và tiêu chuẩn đạo đức với chất lượng TTKT trên BCTC dựa theo quan điểm của kiểm toán viên và quản lý ở Malaysia. Kết quả cho thấy các nhân tố đều ảnh hưởng đến chất lượng TTKT trên BCTC và chuẩn mực kế toán có mức ảnh hưởng cao nhất. Tại Việt Nam, khi nghiên cứu về các doanh nghiệp tại Bình Định, Tuấn (2013) xác định các nhân tố bên trong như tổ chức công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán, có ảnh hưởng đến chất lượng TTKT. Nhị & Hải (2013) qua phương pháp nghiên cứu tổng hợp lý thuyết và đúc kết từ thực tiễn, xác định các nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng TTKT trên BCTC như công tác tổ chức quản lý và người làm công tác kế toán. Nga (2014) tiến hành chọn ngẫu nhiên 155 đối tượng trong 52 DNNY để khảo sát thông qua hình thức phát phiếu khảo sát trực tiếp. Kết quả cho thấy nhân sự kế toán và nhà quản lý có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng TTKT. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa xây dựng các thang đo đo lường cụ thể cho các nhân tố tác động. Trung (2016) khi đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến chất lượng TTKT trình bày trên BCTC đã xác định 6 nhân tố bên trong doanh nghiệp như hệ thống chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, sổ sách kế toán, nhà quản lý, bộ máy kế toán và mục tiêu lập BCTC có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng TTKT. Khi nghiên cứu chất lượng TTKT với mẫu khảo sát 292 doanh nghiệp Việt Nam, Thuần (2016) chỉ ra khá nhiều yếu tố bên trong lẫn bên ngoài có ảnh hưởng như tình trạng niêm yết, hiệu quả kiểm soát nội bộ, chất lượng phần mềm kế toán, đào tạo và bồi dưỡng, năng lực nhân viên kế toán, hỗ trợ từ phía nhà quản trị, kiểm toán độc lập, hành vi quản trị lợi nhuận và quy mô doanh nghiệp. Hùng (2010) cho rằng hệ thống kiểm soát chất lượng thông tin tài chính của DNNY gồm 6 thành phần có quan hệ tương hỗ nhau và cùng tác động đến chất lượng TTKT, đó là chuẩn mực kế toán, các quy định công bố BCTC, ban Giám đốc, ban kiểm soát, hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán độc lập. Hạnh (2015) đề xuất mô hình nghiên cứu gồm hai nhóm nhân tố ảnh hưởng là nhóm đặc điểm tài chính và nhóm đặc điểm quản trị với 8 biến độc lập. Kết quả cho thấy, các nhân tố như đòn bẩy tài chính, lợi nhuận, công ty kiểm toán và hội đồng quản trị có ảnh hưởng đến chất lượng TTKT của các DNNY. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đề cập đến các nhân tố mang tính nguyên nhân bên trong chi phối việc lập BCTC của DNNY. Tóm lại, theo các nghiên cứu trước, nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng TTKT chủ yếu là nhóm nhân tố bên ngoài, nhóm đặc điểm tài chính, đặc điểm quản trị công ty mà chưa có nghiên cứu nào kiểm định sự ảnh hưởng của các nhân tố bên trong – mang tính nguyên nhân cho chất lượng TTKT trên BCTC một cách hệ thống. Nếu có, thì việc kiểm định các nhân tố ảnh hưởng này còn mang tính rời rạc như hệ thống kế toán (Hùng, 2010), hội đồng quản trị hay nhà quản lý (Fathi, 2013; Hạnh, 2015). 146 Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 Để có thể đề xuất các giải pháp thiết thực và hợp lý nâng cao chất lượng TTKT trên BCTC, trước tiên cần phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng bên trong thông qua nghiên cứu định tính để xây dựng mô hình lý thuyết và các thang đo phù hợp. Sau đó, sử dụng phương pháp định lượng để kiểm định lại mô hình lý thuyết và xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng TTKT. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp nghiên cứu định tính Được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu tình huống với kỹ thuật thảo luận và sử dụng điểm bão hòa (Thọ, 2012). Đối tượng tham gia thảo luận: Các chuyên gia tài chính kế toán, giảng viên các trường đại học (thảo luận nháp), người làm kế toán và nhà quản lý tại DNNY (thảo luận chính thức). Số lượng mẫu: Từ 12 đến 15 tình huống, nếu lớn hơn thì số lượng thông tin thu thập sẽ khá nhiều, vượt quá khả năng theo dõi của nhà nghiên cứu (Xu, 2003). Bảng 1 thể hiện tóm tắt các tình huống trong nghiên cứu định tính: Bảng 1 Mẫu cho nghiên cứu tình huống và kỹ thuật thu thập dữ liệu Tình huống Đối tượng phỏng vấn Kỹ thuật thu thập dữ liệu S1 Kế toán CTY CP Gas Petrolimex (PGC) Thảo luận nhóm (1) S2 Kế toán trưởng CTY CP Gas Petrolimex (PGC) Thảo luận nhóm (1) S3 Kế toán trưởng CTY CP Viễn thông (VTC) Thảo luận tay đôi S4 Kế toán viên CTY CP đầu tư-thương mại (SMC) Thảo luận nhóm (2) S5 Kế toán NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (STB) Thảo luận nhóm (2) S6 Kế toán CTY giống cây trồng Miền Nam (SSC) Thảo luận nhóm (2) S7 Kế toán CTY CP cơ khí Xăng dầu (PMS) Thảo luận tay đôi S8 Trưởng phòng CTY CP Hàng Hải Sài Gòn (SHC) Thảo luận tay đôi S9 PGĐ CTY CP Nam Việt (NAV) Thảo luận tay đôi S10 Kế toán trưởng CTY CP nhiên liệu SG (SFC) Thảo luận tay đôi S11 Kế toán trưởng CTY Bê tông Châu Thới (BT6) Thảo luận nhóm (3) S12 Kế toán viên CTY Bê tông Châu Thới (BT6) Thảo luận nhóm (3) Giảng viên kế toán Đại học Kinh tế TP.HCM Thảo luận nháp Nguồn: Tổng hợp từ nghiên cứu Quy trình chọn mẫu: số lượng mẫu được xác định ở mức thông tin thu thập được hầu như không có gì khác biệt so với các mẫu trước đó. Sau đó tiếp tục chọn thêm một mẫu nhằm khẳng định điểm bão hòa. Nếu không phát hiện thêm thông tin gì mới thì sẽ ngừng lại. Quy trình thực hiện theo Hình 1: Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 147 Hình 1. Quy trình chọn mẫu lý thuyết cho nghiên cứu tình huống Thu thập và phân tích dữ liệu: Được thực hiện bằng dàn bài thảo luận, các câu hỏi trong dàn bài thảo luận được kế thừa từ các nghiên cứu trước và cơ sở lý thuyết. Dựa vào mức độ tán thành của các tình huống, các nhân tố và thang đo chính thức được đưa vào mô hình nghiên cứu lý thuyết. Sau khi lấy ý kiến phản hồi, bảng câu hỏi khảo sát được hiệu chỉnh và sẵn sàng cho nghiên cứu định lượng. 3.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng Đối tượng thu thập dữ liệu: người phụ trách kế toán và nhà điều hành quản lý (Xu, 2003; Xu, 2009; Thuần, 2016). Kích thước mẫu nghiên cứu: Theo Thọ (2012), kích thước mẫu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phương pháp xử lý dữ liệu hay độ tin cậy cần thiết. Để thực hiện phân tích nhân tố khám phá EFA, kích thước mẫu sẽ được xác định bởi công thức: n = k*số biến quan sát (trong đó, k là tỷ lệ quan sát/biến quan sát, k thường là 5/1 hoặc 10/1). Vậy, với số biến quan sát của mô hình nghiên cứu là 40 và hệ số k là 5/1 thì kích thước mẫu tối thiểu là 200. Để thực hiện phân tích hồi quy bội, kích thước mẫu thường được xác định theo công thức: n 50 + 8k (trong đó, k là số biến độc lập của mô hình). Trong nghiên cứu này, với số biến độc lập của mô hình nghiên cứu là 7 thì kích thước mẫu tối thiểu là 106. Như vậy, xét các yêu cầu của phân tích EFA cũng như phân tích hồi quy bội, đồng thời xét giới hạn về mặt thời gian, số quan sát của nghiên cứu là 290 sẽ phù hợp. Phương pháp chọn mẫu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất bởi sự thuận tiện về thời gian và chi phí. Bên cạnh đó, nếu chọn mẫu phi xác suất thì người nghiên cứu có thể thay thế phần tử tham gia vào mẫu, miễn sao phần tử đó thỏa mãn các tính chất cần có của phương pháp chọn mẫu phi xác suấ ... 31 Sig. 0.000 Nguồn: Kết quả phân tích từ SPSS, 2019 Bảng 6 Ma trận nhân tố đã xoay Component 1 2 3 4 CTKT1 .666 CTKT2 .737 CTKT3 .693 CTKT4 .582 CTKT5 .763 SSKT1 .617 SSKT4 .638 BMKT1 .642 BMKT2 .705 BMKT3 .734 BMKT4 .694 BMKT5 .671 NQL1 .637 NQL2 .702 NQL3 .671 NQL4 .693 NQL5 .635 THUE1 .624 THUE2 .671 THUE3 .600 THUE4 .718 THUE5 .677 Extraction Method: Principal Component Analysis. Nguồn: Kết quả phân tích từ SPSS, 2019 154 Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 Kết quả nhóm nhân tố dựa theo bảng ma trận xoay nhân tố như sau: Nhân tố 1: gồm các biến CTKT1, CTKT2, CTKT3, CTKT4, CTKT5, SSKT1, SSKT4. Đặt tên cho nhân tố này là CTKT. Nhân tố 2: gồm các biến BMKT1, BMKT2, BMKT3, BMKT4, BMKT5. Đặt tên cho nhân tố này là BMKT. Nhân tố 3: gồm các biến THUE1, THUE2, THUE3, THUE4, THUE5. Đặt tên cho nhân tố này là THUE. Nhân tố 4: gồm các biến NQL1, NQL2, NQL3, NQL4, NQL5. Đặt tên cho nhân tố này là NQL. Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến Bảng 7 Các thông số thống kê trong mô hình hồi quy Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients T Sig. Collinearity Statistics B Std. Error Beta Tolerance VIF 1 (Constant) -1.044E-16 .043 .000 1.000 CTKT .309 .044 .309 7.091 .000 1.000 1.000 BMKT .455 .044 .455 10.447 .000 1.000 1.000 THUE .289 .044 .289 6.629 .000 1.000 1.000 NQL .372 .044 .372 8.538 .000 1.000 1.000 a. Dependent Variable: CLTT Nguồn: Kết quả phân tích từ SPSS, 2019 Phương trình hồi quy tuyến tính đa biến được viết lại như sau: CLTT = 0.309*CTKT + 0.455*BMKT + 0.289*THUE + 0.372*NQL Các biến CTKT, BMKT, THUE, NQL có Sig. < 0.01 nên tương quan có ý nghĩa với CLTT, độ tin cậy là 99%. Hệ số VIF < 5 nên không có hiện tượng đa cộng tuyến. Bảng 8 thể hiện hệ số R2 hiệu chỉnh = 0.516, có ý nghĩa là 51,6% sự thay đổi của biến phụ thuộc được giải thích bởi các biến độc lập. Còn lại 48,4% là do các yếu tố tác động khác không được nghiên cứu trong mô hình này. Chỉ số Durbin Watson = 1.388 < 3 nên không có hiện tượng tự tương quan. Bảng 8 Hệ số tóm tắt mô hình Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Durbin-Watson 1 ,724a .524 .516 .69543691 1.388 a. Predictors: (Constant), NQL, THUE, BMKT, CTKT b. Dependent Variable: CLTT Nguồn: Kết quả phân tích từ SPSS, 2019 Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 155 Kết quả phân tích ANOVA cho thấy giá trị F = 69.065 với Sig. < 0.01, có thể kết luận rằng mô hình đưa ra phù hợp với dữ liệu thực tế. Nói cách khác, các biến CTKT, BMKT, THUE, NQL có tương quan tuyến tính với biến CLTT (độ tin cậy 99%). Phân tích tương quan thể hiện CTKT, BMKT, THUE và NQL đều có mức ý nghĩa Sig. > 0.05. Như vậy, kiểm định này cho biết phương sai số dư không thay đổi. Thông qua các hệ số như R2 hiệu chỉnh = 0.516, Sig.F rất nhỏ, không có phương sai số dư thay đổi, không có hiện tượng đa cộng tuyến, nên có thể kết luận mô hình là phù hợp để giải thích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng TTKT trên BCTC của các DNNY trên địa bàn TP.HCM. 4.2. Thảo luận Mô hình hồi quy cho thấy có 4 nhân tố tác động đến chất lượng TTKT trên BCTC của DNNY tại TP.HCM. Cụ thể: CTKT với β = 0.309; BMKT với β = 0.455; THUE với β = 0.289 và NQL với β = 0.372. Tác động của các nhân tố trên đến CLTT trên BCTC được giải thích như sau: CTKT tăng thêm 1 đơn vị thì chất lượng TTKT trên BCTC tăng 0.309 đơn vị. BMKT tăng thêm 1 đơn vị thì chất lượng TTKT trên BCTC tăng 0.455 đơn vị. THUE tăng thêm 1 đơn vị thì chất lượng TTKT trên BCTC tăng 0.289 đơn vị. NQL tăng thêm 1 đơn vị thì chất lượng TTKT trên BCTC tăng 0.372 đơn vị. Trong số các nhân tố ảnh hưởng, nhân tố BMKT có tác động mạnh nhất (β = 0.455), kế đến lần lượt là NQL (β = 0.372), CTKT (β = 0.309) và THUE (β = 0.289) Bộ máy kế toán có mức ảnh hưởng mạnh nhất đến chất lượng TTKT của DNNY với β = 0.455, vì đây là bộ phận trực tiếp ghi sổ và lập BCTC. Năng lực của người làm kế toán là yếu tố quan trọng để các nghiệp vụ được hạch toán đúng và tạo ra các BCTC có chất lượng. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trung (2016) và Abdullah và cộng sự (2015). Một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra bộ máy kế toán có ảnh hưởng mạnh đến chất lượng TTKT. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở việc tổng hợp, phân tích công tác kế toán và đưa ra nhận định chứ chưa xác định mức độ ảnh hưởng (Tuấn, 2013; Nhị & Hải, 2013; Nga, 2014). Tiếp đến, nhân tố có mức ảnh hưởng mạnh thứ hai đến chất lượng TTKT trên BCTC là nhà quản lý với β = 0.372. Tuy họ không trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra thông tin kế toán, nhưng không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của họ đến chất lượng TTKT. Nhà quản lý phải đánh giá, xem xét, kiểm tra được việc ghi chép và lập BCTC của bộ phận kế toán, góp phần hạn chế sai sót thông tin, số liệu kế toán, xác nhận và cho phép công bố các BCTC ra bên ngoài. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Thuần (2016) và Trung (2016). Nhân tố chứng từ kế toán với β = 0.309 có mức ảnh hưởng mạnh thứ ba đến chất lượng TTKT. Chứng từ trong kế toán rất quan trọng, là yếu tố đầu vào cho quá trình xử lý thông tin kế toán. Do đó, chứng từ kế toán cần được lập, ghi chép, theo dõi và lưu trữ khoa học, đầy đủ. Sự ảnh hưởng của chứng từ kế toán đến chất lượng TTKT cũng được khẳng định trong nghiên cứu của Trung (2016) với β = 0.121. Nhân tố được xem là đặc thù, chưa được đề cập trong các nghiên cứu trước đó về lĩnh vực chất lượng TTKT trên BCTC là thuế (THUE) – xem xét ở khía cạnh nhân tố bên trong. Các nghiên cứu trước có đề cập đến thuế nhưng chỉ xem xét ở góc độ bên ngoài như áp lực từ cơ quan thuế (Thuần, 2016). Nhân tố thuế trong nghiên cứu của Thuần (2016) được hiểu là áp lực từ cơ quan thuế với β= -0.143, mức độ ảnh hưởng mạnh thứ 3, tác động nghịch chiều đến CLTT trên BCTC. Trong nghiên cứu này, thuế được hiểu là việc vận dụng chính sách thuế vào công tác kế toán tại doanh 156 Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 nghiệp. Khi ghi chép và lập BCTC, việc tuân thủ đúng chính sách thuế sẽ phản ánh đúng bản chất thông tin kế toán. Điều này được ủng hộ bởi Trung (2016) với β (thuế) = 0.167. Nghiên cứu đã xây dựng một mô hình lý thuyết về chất lượng TTKT tại các DNNY, cụ thể là mô hình các nhân tố bên trong mang tính nguyên nhân cho CLTT trên BCTC gồm bộ máy kế toán, nhà quản lý, chứng từ kế toán và thuế, trong đó, thuế được xem là nhân tố mới. Nghiên cứu định lượng kiểm định lại mô hình lý thuyết và xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của từng nhân tố. Ngoài ra, kết quả của nghiên cứu giúp khẳng định kết quả của các nghiên cứu trước thông qua 3 nhân tố còn lại. Từ đó, đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng TTKT tại các DNNY trên địa bàn. Tuy nhiên, việc lượng hóa chất lượng TTKT trên BCTC trong nghiên cứu này chủ yếu với đối tượng khảo sát là người cung cấp thông tin như kế toán viên và quản lý bên trong DNNY. Nghiên cứu chưa khảo sát mức độ chấp nhận (hài lòng) về chất lượng TTKT của đối tượng bên ngoài hay gọi là người sử dụng thông tin để có cái nhìn toàn diện hơn về chất lượng thông tin. Mặc dù nghiên cứu phù hợp về lý thuyết và ý nghĩa nhưng mẫu nghiên cứu chưa bao quát hết các DNNY tại TP.HCM, chưa đi sâu phân tích kiểm định có hay không sự khác biệt về chất lượng TTKT giữa các DNNY có ngành nghề kinh doanh hay chế độ kế toán áp dụng khác nhau. Hệ số R2= 0.516, tức là chỉ 51.6% sự thay đổi của chất lượng TTKT được giải thích bởi các biến độc lập, còn lại 48.4% là các nhân tố khác, có thể là chất lượng phần mềm kế toán, nhân viên kế toán, đào tạo và bồi dưỡng,... Những hạn chế trên đây cũng chính là cơ sở cho các nghiên cứu trong tương lai. 5. Kết luận và khuyến nghị 5.1. Kết luận Nghiên cứu này kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó về chất lượng TTKT, kết hợp với dữ liệu thu thập từ nghiên cứu định tính để xác định các nhân tố ảnh hưởng và xây dựng mô hình lý thuyết phù hợp với các DNNY tại TP.HCM. Nghiên cứu định lượng kiểm định lại mô hình thông qua Cronbach’s Alpha, EFA và phân tích hồi quy chỉ ra rằng có bốn nhân tố ảnh hưởng tích cực đến chất lượng TTKT trên BCTC là Bộ máy kế toán, Nhà quản lý, Chứng từ kế toán và Thuế. Các nhân tố này phát triển mạnh theo hướng tích cực thì chất lượng TTKT sẽ gia tăng. Thuế là nhân tố mới – đặc thù trong nghiên cứu này. Dựa vào đó nghiên cứu đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng TTKT trên BCTC của DNNY tại TP.HCM. 5.2. Khuyến nghị Bộ máy kế toán: Cần hoàn thiện hơn bộ máy kế toán, chú trọng vào công tác đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn của bộ phận kế toán, nâng cao tinh thần trách nhiệm và tạo điều kiện cho kế toán viên tham gia tập huấn cập nhật kiến thức nghiệp vụ khi thay đổi chính sách. Doanh nghiệp cũng cần đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức công tác kế toán như phần mềm kế toán Misa, giúp cải thiện các khâu trong lập BCTC. Nhân viên kế toán còn phải nâng cao kỹ năng đọc hiểu các BCTC chứ không chỉ dừng lại ở việc lập BCTC, việc lượng hóa chất lượng thông tin BCTC của DNNY đảm bảo các tiêu chí cơ bản của thông tin như thích hợp, trung thực, dễ hiểu, so sánh được và kịp thời, giúp cho các đối tượng sử dụng có thể đánh giá được chất lượng thông tin BCTC. Nhà quản lý: Cần nâng cao mức độ hiểu biết nhất định của họ về lĩnh vực kế toán. Nhà quản lý phải biết đánh giá, xem xét, kiểm tra được việc ghi chép và lập BCTC của bộ phận kế toán, góp phần hạn chế sai sót thông tin, số liệu kế toán do bộ phận này cung cấp. Bên cạnh đó nhà quản lý cần quan tâm hơn đến nội dung thông tin trình bày trên BCTC để ra quyết định liên quan. Nhà quản lý biết sử dụng và hiểu được thông tin từ BCTC thì sẽ tạo ra độ tin cậy cao cho Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 157 các đối tượng sử dụng BCTC. Chứng từ kế toán: Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán tốt có ảnh hưởng rất lớn và gián tiếp hỗ trợ cho việc ghi chép sổ sách, theo dõi và kiểm tra thông tin, số liệu trên BCTC, việc này đòi hỏi phải được thực hiên một cách khoa học, bài bản. Tổ chức chứng từ kế toán phải căn cứ vào quy mô sản xuất, trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp để xác định số lượng, loại chứng từ thích hợp. Các luật, quy định, thông tư liên quan cũng là cơ sở tăng cường tính pháp lý của chứng từ. Thuế: Chính sách thuế thường xuyên thay đổi. Vì vậy, nhân viên kế toán phải được tập huấn và cập nhật kiến thức về thuế. Tuân thủ các chính sách thuế, hướng dẫn của cơ quan thuế sẽ đảm bảo việc hạch toán các nghiệp vụ liên quan và trình bày rõ ràng trên BCTC. Tùy loại hình kinh doanh, những loại hàng hóa dịch vụ được miễn, giảm thuế mà các DNNY phải quản lý, theo dõi, ghi chép riêng để thực hiện đúng nghĩa vụ đối với Nhà nước. Hạn chế thực trạng trốn thuế, bị truy thu thuế, bị phạt nộp chậm ở các DNNY. Cần lưu trữ có hệ thống, đầy đủ các hóa đơn, chứng từ liên quan để phục vụ cho công tác thanh tra của cơ quan thuế. Tài liệu tham khảo Abdullah, Z. I. B., Almsafir, M. K., & Al-Smadi, A. A. M. (2015). Transparency and reliability in financial statement: Do they exist? Evidence from Malaysia. Open Journal of Accounting, 4(4), 29. Bộ Tài chính (2002). Chuẩn mực số 01: Chuẩn mực chung. Ban hành, công bố theo quyết định 165/2002/QĐ – BTC, ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Retrieved from https://atconline.vn/threads/chuan-muc-ke-toan-so-1-chuan muc-chung.5/ Davenport, T. H., & Prusak, L. (1998). Working knowledge: How organizations manage what they know. Harvard Business Press. Fathi, J. (2013). The determinants of the quality of financial information disclosed by French listed companies. Mediterranean Journal of Social Sciences, 4(2), 319. Financial Accounting Standards Board (FASB). (2010). Conceptual Framework for Financial Reporting. Chapter 3 “Qualitative Characteristics of Useful Financial Information.” Statement of Financial Accounting Concepts No. 8. Gelinas, U. J., Dull, R. B., & Wheeler, P. (2011). Accounting information systems. Cengage learning. Lê, T. M. H. (2015). Minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Đinh, P. H. (2011). Phương pháp nghiên cứu định lượng & những nghiên cứu thực tiễn trong kinh tế phát triển – nông nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Phương Đông. Nguyễn, Đ. H. (2010). Hệ thống kiểm soát sự minh bạch thông tin tài chính công bố của các công ty niêm yết tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. IASB, E. D. (2010). The conceptual framework for financial reporting. International Accounting Standards Board (IASB). Juran, J. M. (1988). Juran on planning for quality. Collier Macmillan. 158 Lê H. V. Trang và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(3), 143-158 Khalil, O. E., Strong, D. M., Kahn, B. K., & Pipino, L. L. (1999). Teaching information quality in information systems undergraduate education. Informing Science: The International Journal of an Emerging Transdiscipline, 2, 53-60. Nguyễn, T. H. N. (2014). Tiêu chuẩn đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán. Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, 131, 30-33. Võ, V. N., & Trần, T. T. H. (2013). Một số ý kiến về chất lượng báo cáo tài chính của DNNVV ở Việt Nam. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương, 6(2), 3-12. Quốc hội (2015). Luật kế toán. Ban hành theo Luật số 88/2015/QH13, ngày 20 tháng 11 năm 2015 của Chủ tịch Quốc hội. Retrieved from https: //thuvienphapluat.vn/van ban/ke-toan-kiem- toan/Luat-ke-toan-2015 298369.aspx Nguyễn, Đ. T. (2012). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. Phạm, Q. T. (2016). Các nhân tố tác động đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàng, T., & Chu, N. M. N (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS. TP. HCM: NXB Hồng Đức. Phạm, T. T. (2016). Đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến chất lượng thông tin trình bày trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn, T. A. (2013). Công tác kế toán trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Bình Định, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Đà Nẵng. Wang, R. Y., & Strong, D. M. (1996). Beyond accuracy: What data quality means to data consumers. Journal of management information systems, 12(4), 5-33. Xu, H. (2003). Critical success factors for accounting information systems data quality, Doctoral dissertation, University of Southern Queensland. Xu, H. (2009). Data quality issues for accounting information systems' implementation: Systems, stakeholders, and organizational factors. Journal of Technology Research, 1, 1-11.
File đính kèm:
- cac_nhan_to_anh_huong_den_chat_luong_thong_tin_ke_toan_tren.pdf