Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá đối với doanh nghiệp
Chuyển giá là hiện tượng thường gặp trong các nền kinh tế hội nhập.
Các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá nhằm thay đổi giá
của hàng hóa và dịch vụ vì các mục đích khác nhau, đặc biệt là mục
đích thuế. Chính vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần có biện
pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn và hạn chế các tác động tiêu cực
của chuyển giá. Bài viết này nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến
tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, thông qua việc tổng quan các
nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát chuyển giá. Kết quả nghiên cứu là
cơ sở cho các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố tới hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, phân
tích thực trạng, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường tính
hiệu lực của kiểm soát chuyển giá đối với các doanh nghiệp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá đối với doanh nghiệp
25 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 196- Tháng 9. 2018 Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá đối với doanh nghiệp CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Bùi Thị Minh Hải Ngày nhận: 31/07/2018 Ngày nhận bản sửa: 20/08/2018 Ngày duyệt đăng: 18/09/2018 Chuyển giá là hiện tượng thường gặp trong các nền kinh tế hội nhập. Các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá nhằm thay đổi giá của hàng hóa và dịch vụ vì các mục đích khác nhau, đặc biệt là mục đích thuế. Chính vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần có biện pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn và hạn chế các tác động tiêu cực của chuyển giá. Bài viết này nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, thông qua việc tổng quan các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát chuyển giá. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, phân tích thực trạng, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá đối với các doanh nghiệp. Từ khóa: chuyển giá, kiểm soát, kiểm soát chuyển giá đối với doanh nghiệp 1. Đặt vấn đề ền kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế luôn tiềm ẩn những khuyết tật do động cơ kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp thường chạy theo lợi ích. Lợi ích khiến cho một số doanh nghiệp luôn tính toán nhằm lợi dụng những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý, sự buông lỏng quản lý của các cơ quan chức năng để tư lợi, trong đó có các chiêu trò chuyển giá. Chính vì vậy, để khắc phục những khiếm khuyết này, nhà nước phải làm tốt vai trò của mình trong quản lý kinh tế. Các hoạt động kiểm tra, kiểm soát đối với chuyển giá cần được các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước thực hiện một cách phù hợp và hiệu quả nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện của hoạt động chuyển giá trái với quy định của pháp luật, từ đó loại bỏ hoặc hạn chế các tác động tiêu cực của hoạt động chuyển giá đối với nền kinh tế. Hiệu lực của kiểm soát chuyển giá phản ánh khả năng hoàn thành các mục tiêu đã định và có thể được đo lường và đánh giá thông qua các chỉ báo phản ánh các mục tiêu mà các quốc gia hướng tới. Kiểm soát chuyển giá phải ngăn ngừa và phát hiện kịp thời các vi phạm CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018 pháp luật liên quan đến các hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp, loại bỏ hoặc hạn chế các tác động tiêu cực của chuyển giá đến nền kinh tế. Thông qua đó, kiểm soát chuyển giá góp phần đảm bảo và tăng cường nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, đảm bảo tính minh bạch của nền kinh tế, là cơ sở đạt được sự công bằng và bình đẳng cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh. Về phía người tiêu dùng, kiểm soát chuyển giá có thể ngăn chặn được các hành vi thao túng, độc quyền trên thị trường, từ đó đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng trong dài hạn. Về phía Nhà nước, kiểm soát chuyển giá là phương sách hữu hiệu để đảm bảo tính hiệu lực của quản lý nhà nước, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp lý và tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước. Trên cơ sở tổng quan nghiên cứu, bài viết này phân tích, tổng hợp để nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực của kiểm soát chuyển giá. Nghiên cứu này là cơ sở cho các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá mức độ ảnh hưởng, cũng như thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, qua đó có các giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực kiểm soát chuyển giá. 2. Nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực kiểm soát chuyển giá đối với doanh nghiệp Kiểm soát là quá trình mà trong đó chủ thể kiểm soát tác động lên khách thể kiểm soát để thực hiện được các mục tiêu đã định (Nguyễn Thị Phương Hoa, 2006). Kiểm soát cần được áp dụng phù hợp với mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm soát trong các hoàn cảnh và các điều kiện khác nhau (Nguyễn Quang Quynh, 2008). Chuyển giá là hành vi của các chủ thể kinh doanh trong các giao dịch liên kết nhằm thay đổi giá trị trao đổi của hàng hóa và dịch vụ với mục đích tư lợi. Kiểm soát chuyển giá là hoàn toàn cần thiết vì hậu quả của chuyển giá, về cơ bản, gây ra nhiều tác động tiêu cực trên phạm vi rộng, ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều bên và có tác động xấu đối với nền kinh tế. Kiểm soát chuyển giá của nhà nước đối với doanh nghiệp- dựa trên bản chất cơ bản của kiểm soát là một quá trình mà chủ thể kiểm soát là các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước tác động lên khách thể kiểm soát là các doanh nghiệp trong các giao dịch liên kết nhằm mục đích ngăn chặn và loại trừ các ảnh hưởng tiêu cực của chuyển giá đến nền kinh tế. Là một quá trình nên kiểm soát chuyển giá bao gồm tập hợp nhiều hoạt động, từ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đối với chuyển giá cho đến việc thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện các trường hợp vi phạm pháp luật liên quan đến chuyển giá đã được ban hành, từ đó có biện pháp xử lý phù hợp với các vi phạm trong chuyển giá. Hiệu lực của kiểm soát chuyển giá thể hiện ở việc đạt được các mục tiêu mà nhà nước mong muốn, trong đó cơ bản là các mục tiêu như tạo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng, minh bạch, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và đảm bảo luật pháp được thực thi nghiêm minh. Hiệu lực của kiểm soát chuyển giá chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố liên quan đến chủ thể thực hiện kiểm soát, khách thể chịu sự kiểm soát trong môi trường kiểm soát nhất định. Chính vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát chuyển giá bao gồm ba nhóm: (i) Nhóm nhân tố thuộc về chủ thể kiểm soát; (ii) nhóm nhân tố thuộc về khách thể kiểm soát và (iii) nhóm nhân tố thuộc về môi trường kiểm soát. 2.1. Nhóm nhân tố thuộc về chủ thể kiểm soát Chủ thể kiểm soát đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế là các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước được phân công và chịu trách nhiệm thực hiện các chức năng thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động chuyển giá do các doanh nghiệp thực hiện. Trong một quốc gia, thông thường chủ thể kiểm soát có thể là cơ quan thuế, hải quan, cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và các cơ quan khác có liên quan như các Bộ Khoa học công nghệ, ngân hàng trung ương, Bộ Kế hoạch đầu tư được Chính CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 27Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 196- Tháng 9. 2018 phủ phân công chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm thuộc về kiểm soát chuyển giá. Hiệu lực của kiểm soát chuyển giá phụ thuộc nhiều vào các nhân tố phản ánh các kỳ vọng, yêu cầu hoặc vai trò mà Chính phủ tại từng nước xác lập đối với chủ thể kiểm soát và năng lực của chủ thể kiểm soát trong tổ chức thực hiện kiểm soát chuyển giá. Yêu cầu đối với hoạt động kiểm soát chuyển giá mà Chính phủ từng quốc gia đặt ra tạo thành: (i) Áp lực đối với chủ thể kiểm soát. Các yêu cầu có thể khác nhau giữa các quốc gia, tuy nhiên, một trong những điểm chung nhất là kiểm soát chuyển giá cần được thực hiện do xuất phát từ quan điểm và nhận thức của các nhà lãnh đạo về sự cần thiết của kiểm soát chuyển giá, hoặc từ những hệ lụy mà hoạt động chuyển giá gây ra làm thất thu ngân sách nhà nước (NSNN) khiến kiểm soát chuyển giá phải thực hiện để truy thu số tiền thuế mà doanh nghiệp chiếm đoạt, hoặc do xu hướng các doanh nghiệp lợi dụng các kẽ hở của hệ thống luật pháp để thực hiện hành vi chuyển giá ngày càng tăng. Trước, trong cuộc thanh tra, kiểm tra hoạt động chuyển giá, chủ thể kiểm soát chịu áp lực từ nhiều nhân tố khác nhau. Cụ thể: Nhân tố thời gian cho một cuộc thanh, kiểm tra chuyển giá (đối với cơ quan thuể là thanh tra/kiểm tra, đối với kiểm toán là kiểm tra/kiểm toán): Doanh nghiệp chịu sự tác động của hoạt động chuyển giá từ nhiều bên như cơ quan quản lý nhà nước (cơ quan thuế) và tổ chức kiểm tra độc lập (công ty kiểm toán độc lập). Nguyễn Văn Phượng (2015) và Nguyễn Đại Thắng (2016) cho rằng các cơ quan quản lý Nhà nước thường thực hiện hoạt động kiểm tra, kiểm soát chuyển giá trong khoảng thời gian hạn hẹp. Kiểm soát chuyển giá là hoạt động phức tạp, nghiệp vụ chuyển giá phát sinh không những giữa các công ty nội bộ chuyển giá với nhau, hoạt động chuyển giá diễn ra ở nhiều quốc gia và nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Vì vậy, sức ép về thời gian thanh tra, kiểm tra đối với hành vi chuyển giá là thử thách đối với cơ quan thuế và công ty kiểm toán, khiến cho chất lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra chuyển giá không đảm bảo. Các gian lận hoặc sai sót trong hoạt động chuyển giá sẽ có cơ hội bị bỏ qua. Các bằng chứng về chuyển giá do cơ quan thuế thu thập có thể không đủ về số lượng và đảm bảo yêu cầu về tính thích hợp. Nếu thời gian thanh tra, kiểm tra chuyển giá được cho phép dài hơn sẽ tạo điều kiện cho cơ quan thuế thực hiện cuộc thanh tra, kiểm tra kỹ hơn, chất lượng tốt hơn. Nhờ vậy, kết luận thanh tra, kiểm tra sẽ đảm bảo tính hợp lý và xác đáng. Áp lực của nhà quản lý cấp trên các cơ quan Nhà nước: Quan điểm và triết lý điều hành, tính chính trực và giá trị đạo đức, sự am hiểu về luật pháp và tinh thần tuân thủ pháp luật của lãnh đạo cấp trên có ảnh hưởng lớn đến kiểm soát chuyển giá. Nếu lãnh đạo cấp trên của các cơ quan nhà nước (ví dụ như người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ) nhận thức rõ những mối nguy và hệ quả từ kiểm soát chuyển giá tác động đối với nền kinh tế, đối với sự cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp hoặc lợi ích của người tiêu dùng, đối với sự thượng tôn pháp luật và tính hiệu lực trong quản lý nhà nước thì các hoạt động chuyển giá sẽ không có điều kiện thuận lợi để phát triển. Áp lực của nhà quản lý cấp trên đối với hoạt động kiểm soát chuyển giá được hiểu là việc nhà quản lý đặt ra những yêu cầu khắt khe, các mục tiêu nghiêm túc nhằm ngăn chặn và giảm thiểu các hành vi chuyển giá do các doanh nghiệp thực hiện, từ đó các cơ quan trong bộ máy nhà nước như cơ quan thuế, cơ quan hải quan, kiểm toán nhà nước, thanh tra sẽ phải thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm tương ứng và nghiêm túc trong kiểm soát chuyển giá. Chính vì vậy, áp lực của nhà quản lý cấp trên của các cơ quan nhà nước được coi là nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động kiểm soát chuyển giá. Áp lực từ việc giao chỉ tiêu số tiền truy thu, truy hoàn thuế từ doanh nghiệp: Thuế là nguồn thu chủ yếu trong ngân sách quốc gia. Việc cân đối nguồn thu nhằm đảm bảo các khoản chi là điều kiện tiên quyết để các quốc gia kiểm CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018 soát tốt rủi ro thanh khoản do bội chi ngân sách. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc cho NSNN do luật pháp quy định đối với các pháp nhân và thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Ngân sách bị thất thu là do Nhà nước không thu được thuế theo quy định của luật pháp và theo các chỉ tiêu pháp lệnh đã được thiết lập trong năm dự toán. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan dẫn đến nguồn thu sụt giảm, thì các hành vi trốn hoặc tránh thuế (trong đó có liên quan đến chuyển giá) của những đơn vị nộp thuế là nguyên nhân chủ quan cơ bản dẫn đến thất thu ngân sách. Nhu cầu tìm kiếm các nguồn lực tài chính để cân đối ngân sách quốc gia được coi là áp lực lên các cơ quan thuế để họ phải có những chính sách và hành động thích hợp nhằm thu được ngân sách nhiều hơn. Chính vì vậy, việc Nhà nước giao chỉ tiêu về số tiền truy thu và truy hoàn thuế từ các đơn vị nộp thuế cho các cơ quan thuế có tác động trực tiếp đến việc thanh, kiểm tra hoạt động chuyển giá. Chỉ tiêu truy thu và hoàn thuế giao cho các cơ quan thuế có tác động thuận chiều đến số lượng và tính phức tạp của các cuộc thanh, kiểm tra thuế. Trong các cuộc thanh, kiểm tra thuế liên quan đến các giao dịch liên kết, việc thanh tra hoạt động chuyển giá đã dần được coi là nội dung thanh tra cơ bản và trọng tâm mà cơ quan thuế cần thực hiện. Tại Romania, Cơ quan quản lý ngân sách quốc gia (2011) đã xác định tầm quan trọng của việc thanh tra hoạt động chuyển giá trong Chiến lược của ngành thuế từ năm 2010 đến 2013. Theo đó, các cơ quan thuế cần tập trung vào ba vấn đề cơ bản: (1) Nhận diện các đơn vị liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài tại các địa phương có kết quả kinh doanh lỗ; (2) rà soát các tài liệu về chuyển giá do các đơn vị nộp thuế báo cáo; (3) xem xét giá giao dịch giữa các bên liên kết có được xác định theo nguyên tắc giá giao dịch độc lập hay không. Áp lực từ việc giao chỉ tiêu số lượng doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá phải thanh tra theo kế hoạch: Việc kiểm soát giá chuyển giao cũng chịu áp lực từ việc Nhà nước giao chỉ tiêu số lượng các cuộc thanh, kiểm tra và số lượng các doanh nghiệp cần thanh tra dấu hiệu chuyển giá. Vì vậy, cán bộ thanh tra, kiểm tra chịu áp lực từ các bên như lãnh đạo cấp trên về số cuộc thanh tra và số lượng doanh nghiệp phải thanh tra theo kế hoạch được giao. Chẳng hạn, tại Romania, theo yêu cầu của Cơ quan quản lý ngân sách quốc gia (2011), mỗi cơ quan thuế địa phương phải thực hiện ít nhất một cuộc thanh tra chuyển giá trong tháng. Kết quả là, chỉ trong năm 2010, tổng số các cuộc thanh tra chuyển giá cho các cơ quan thuế tại Romania thực hiện lên đến 150 cuộc. Tổng giá trị điều chỉnh từ các hoạt động chuyển giá bị thanh tra khoảng 8,5 triệu Bảng, trong đó, cuộc thanh tra có giá trị điều chỉnh lớn nhất là 2 triệu Bảng. Chính vì vậy, việc giao chỉ tiêu số cuộc thanh tra và số lượng các doanh nghiệp cần phải thanh tra dấu hiệu chuyển giá có tác động thuận chiều tới kiểm soát giá chuyển giao. (ii) Trình độ chuyên môn, thâm niên công tác của chủ thể kiểm soát: Trình độ chuyên môn và thâm niên công tác của chủ thể kiểm soát là nhân tố quan trọng tác động hoạt động kiểm soát chuyển giá. Ngoài những yêu cầu chung đặt ra với các cán bộ thực hiện thanh, kiểm tra (như có bằng tốt nghiệp đại học phù hợp với chuyên môn thuộc ngành, lĩnh vực công tác; có chứng chỉ bồi dường nghiệp vụ; có chứng chỉ ngoại ngữ, sử dụng thành thạo tin học văn phòng; có thâm niên công tác) thì các cán bộ thanh, kiểm tra cần có kiến thức chuyên sâu về chuyển giá trong các doanh nghiệp. Sự am hiểu của chủ thể kiểm soát về các hình thức chuyển giá, các dấu hiệu chuyển giá và phương pháp chuyển giá là nền tảng kiến thức cơ bản hỗ trợ để giúp các chủ thể kiểm soát phát hiện hành vi chuyển giá tại doanh nghiệp. Đội ngũ chủ thể kiểm soát đòi hỏi phải được đào tạo đúng chuyên ngành về kế toán, kiểm toán, thuế, và chủ động trong cập nhậ ... năm chiếm 44%- 51% so với tổng số doanh nghiệp FDI, trong đó năm 2015 là 51% và năm 2016 là 50%. Đây là điều bất hợp lý vì doanh thu của khối doanh nghiệp này vẫn tăng trưởng với tốc độ khá cao với tình hình kinh doanh khá thuận lợi. Năm 2016 doanh thu của khối doanh nghiệp này tăng 21,7% so với năm 2015 (Thu Lê, 2018) và cao hơn mức độ tăng tài sản (18,6%) và tăng vốn chủ sở hữu (15,5%). Như vậy, NSNN thất thu lớn do không thể thu thuế đối với khoảng ½ số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mặc dù hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI nói chung tương đối cao. Theo Thu Lê (2018), năm 2016, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu là 16,3% và tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản là 5,82%. Doanh thu nghìn tỷ, liên tục mở rộng kinh doanh, nhưng doanh nghiệp vẫn lỗ triền miên, đóng góp khiêm tốn cho ngân sách. Đó là thực tế đang diễn ra tại nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, dẫn đến hệ quả gây mất bình đẳng trong cạnh tranh và gia tăng sự không minh bạch trên thị trường. Điển hình trong lĩnh vực vận tải hành khách, trong những năm gần đây, các hãng taxi nội địa truyền thống kinh doanh rất khó khăn do có sự xuất hiện của một loại hình kinh doanh mới là taxi công nghệ của Uber và Grab. Các hãng này liên tục có các chương trình khuyến mại giảm giá cước nhằm chiếm lấy khách hàng của taxi truyền thống. Từ năm 2014 đến 2017, Grab và Uber liên tục mở rộng quy mô và hoạt động kinh doanh, nhưng Nhà nước không thể thu được thuế vì hai đơn vị này liên tục báo lỗ. Theo Ngọc Thủy (2017), trong năm 2016, số lượng xe hoạt động như taxi của Grab tăng lên gần 10.000 chiếc. Kể từ khi hoạt động tại Việt Nam tháng 2/2014 đến hết 2017, với số vốn đầu tư 20 tỷ đồng ban đầu, Grab đã lỗ lũy kế hơn 938 tỷ đồng. Riêng năm 2016, Grab đạt doanh thu 192 tỷ đồng nhưng báo lỗ 443 tỷ đồng. Sự xuất hiện của Uber và Grab, trong ngắn hạn đã gây ra những thiệt hại rõ ràng cho các công ty taxi truyền thống và NSNN. Trong dài hạn, người tiêu dùng có thể gánh chịu hậu quả từ độc quyền khi các hãng taxi công nghệ này đủ sức thôn tính các đối thủ cạnh tranh và thâu tóm phần lớn thị trường vận tải hành khách bằng taxi tại Việt Nam. Trong bối cảnh NSNN eo hẹp và thường xuyên có bội chi ngân sách hàng năm, kiểm soát chuyển giá thực sự cần thiết để giảm bớt gánh nặng nợ công và thâm hụt ngân sách tại Việt Nam. Tuy nhiên tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá tại Việt Nam còn thấp. Sở dĩ tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá tại Việt Nam còn hạn chế là do những nguyên nhân khác nhau, chịu chi phối bởi các nhân tố khác nhau, đặc biệt là các nhân tố thuộc về chủ thể kiểm soát và môi trường kiểm soát. Trên cơ sở nhận diện và phân tích các nguyên nhân cơ bản, tác giả khuyến nghị các giải pháp CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018 nhằm tăng cường tính hiệu lực của kiểm soát đối với các doanh nghiệp tại Việt Nam, cụ thể: Trước hết, về cơ sở dữ liệu: Các cơ quan thanh kiểm tra thuế thiếu cơ sở dữ liệu phục vụ cho phân tích, so sánh để xác định giá chuyển giao trong các giao dịch liên kết. Một trong các điều kiện tiên quyết để thực hiện kiểm soát chuyển giá thành công là cần phải có hệ thống cơ sở dữ liệu về giá của các hàng hóa và dịch vụ được xác lập trong các giao dịch độc lập, đặc biệt là các giao dịch được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay các cơ quan chức năng chưa có một hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ phục vụ cho việc phân tích, so sánh giữa giá của hàng hóa, dịch vụ trong các giao dịch liên kết với giao dịch độc lập; cơ sở dữ liệu về giá trong nước chưa kết nối và liên thông với cơ sở dữ liệu về giá trên các thị trường quốc tế. Việc mua cơ sở dữ liệu từ nước ngoài gặp nhiều trở ngại do chi phí cao và cơ sở dữ liệu thường xuyên thay đổi. Cơ sở dữ liệu về người nộp thuế cũng có nhiều hạn chế do thiếu thông tin, thông tin không chính xác, dữ liệu về ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh của người nộp thuế còn chưa sát, chưa đúng với thực tế doanh nghiệp. Hơn nữa hệ thống thông tin dữ liệu về người nộp thuế không được cập nhật thường xuyên. Đây được coi là trở ngại rất lớn ảnh hưởng đến tính khả thi trong quá trình thực hiện các phương thức kiểm soát chuyển giá do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thực hiện. Thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, các cơ quan thuế đã phát hiện được những dấu hiệu có gian lận trong kiểm soát chuyển giá, hoặc rủi ro có chuyển giá ở một số doanh nghiệp trên địa bàn phụ trách được đánh giá ở mức độ cao. Tuy nhiên, do không có đầy đủ cơ sở dữ liệu để so sánh, nên việc thu thập, tìm kiếm bằng chứng chứng minh có chuyển giá trong một số các giao dịch liên kết không thể thực hiện được. Chính vì vậy, việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu của người nộp thuế, tăng cường trao đổi thông tin giữa Việt Nam và các nước trên thế giới về dữ liệu của các giao dịch liên kết sẽ là giải pháp hữu hiệu để thu thập bằng chứng đầy đủ, thích hợp, đưa ra kết luận xác đáng về các sai phạm trong các giao dịch liên kết với mục đích chuyển giá do doanh nghiệp thực hiện. Thứ hai, về nguồn nhân lực: Các hoạt động chuyển giá được thực hiện rất phức tạp, với nhiều phương thức khác nhau trên phạm rộng, không chỉ đơn giản giữa các doanh nghiệp liên kết trong nước mà thường diễn ra giữa một doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp liên kết ở nước ngoài. Các hoạt động chuyển giá trong các giao dịch liên kết thường được tính toán kỹ lưỡng với sự trợ giúp của đội ngũ tư vấn, luật sư dày dạn kinh nghiệm tại các công ty đa quốc gia. Trong khi đó, lực lượng cán bộ thực hiện kiểm tra, thanh tra chuyển giá hiện nay tại Việt Nam còn tương đối mỏng. Ví dụ ở Thành phố Hồ Chí Minh, trung bình một cán bộ thuế quản lý 500 hộ cá thể và 160 doanh nghiệp nộp thuế. Bên cạnh đó, các cán bộ thực hiện chức năng thanh kiểm tra lại chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu về kiến thức, nghiệp vụ liên quan đến các hoạt động chuyển giá. Khi triển khai các bước công việc và áp dụng các phương pháp xác định giá chuyển giao và lựa chọn cơ sở dữ liệu phục vụ cho phân tích so sánh còn gặp nhiều khó khăn và lúng túng, dẫn đến tính hiệu lực trong kiểm soát chuyển giá tại Việt Nam còn nhiều hạn chế. Như vậy để tăng cường tính hiệu lực đối với kiểm soát chuyển giá, nhất thiết phải tăng cường đào tạo về kiến thức và kỹ năng cần thiết cho cán bộ thanh kiểm tra và tăng cường đội ngũ nhân lực cho thanh kiểm tra chuyển giá. Thứ ba, về phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong kiểm soát chuyển giá. Hiện nay việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền và chức năng trong thanh, kiểm tra để kiểm soát chuyển giá vẫn chưa chặt chẽ. Chưa có đầu mối để cơ quan thuế, cơ quan công an, hải quan và các cơ quan có liên quan cùng tham gia, theo dõi sát các hoạt động chuyển giá diễn ra. Ví dụ, chưa có đầu mối tập hợp và xử lý CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 37Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 196- Tháng 9. 2018 thông tin để phát hiện các dấu hiệu chuyến giá như kê khai giá trị nhập hàng hóa và dịch vụ rất thấp để giảm thuế nhập khẩu, hoặc nhập máy móc, nguyên liệu đầu vào với giá cao nhằm tăng chi phí để giảm lợi nhuận và thuế thu nhập doanh nghiệp Như vậy, cần có sự quy định rõ ràng chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước trong tổ chức bộ máy kiểm soát chuyển giá, đồng thời có cơ chế phối hợp hợp lý và hiệu quả giữa các cơ quan này. Thứ tư, về áp lực thời gian trong thanh, kiểm tra chuyển giá. Một trong những khó khăn trong kiểm soát chuyển giá là thời gian thực hiện thanh kiểm tra đối với các giao dịch liên kết quá ngắn. Thời gian thanh kiểm tra quá ngắn, kết hợp với những khó khăn về cơ sở dữ liệu, nguồn nhân lực khiến kiểm soát chuyển giá tại Việt Nam không thu được hiệu quả cao. Thời gian thanh tra trung bình đối với doanh nghiệp tại Việt Nam chỉ khoảng 1/10 thời gian cho một cuộc thanh tra thuế theo thông lệ của các nước trên thế giới. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), thời gian trung bình để thực hiện một cuộc thanh tra giá chuyển nhượng trên thế giới là 573 ngày làm việc. Trong khi đó theo quy định của Luật Thanh tra số 56/2010/QH12, một cuộc thanh tra của cơ quan thuế tại Việt Nam thường phải thực hiện trong vòng 45 ngày, nếu công việc thanh tra phức tạp thì chủ thể kiểm soát có thể kéo dài thời gian thanh tra nhưng không được quá 70 ngày. Đối với công ty kiểm toán, thời gian thực hiện kiểm toán thường thực hiện trong vòng từ 1 tuần đến 1 tháng (nếu khách thể kiểm toán quy mô lớn và phức tạp). Chính vì vậy, cần có quy định phù hợp hơn để giảm tải áp lực thời gian cho cơ quan thanh tra. Trên thực tế, việc thanh tra một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Big C, Metro kéo dài hơn 1 năm để chờ doanh nghiệp cung cấp và bổ sung tài liệu và cơ quan thuế thu thập dữ liệu. Hiện nay Bộ Tài chính đã có đề xuất thời gian thanh tra các doanh nghiệp có giao dịch liên kết xuyên biên giới không quá 360 ngày làm việc tại trụ sở của người nộp thuế (không bao gồm thời gian cung cấp tài liệu, trao đổi thông tin và tạm dừng, tạm hoãn). Theo quan điểm của tác giả, đề xuất này hoàn toàn cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tăng cường tính hiệu lực của các cuộc thanh, kiểm tra giá chuyển nhượng và tạo điều kiện cần thiết cho các cơ quan chức năng thực hiện các hoạt động kiểm soát chuyển giá với kết quả tốt. Thứ năm, hoàn thiện khung pháp lý về chuyển giá. Việc ban hành Nghị định 20/2017/ NĐ-CP ngày 24/2/2017 và sau đó là 41/2017/TT-BTC ngày 22/6/2017 đã thể hiện những nỗ lực của Việt Nam trong kiểm soát chuyển giá trên cơ sở tiệm cận với các thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, hiện các văn bản trên đã bộc lộ một số bất cập khiến việc áp dụng trên thực tế còn gây lúng túng và khó khăn cho chủ thể và khách thể trong các cuộc thanh, kiểm tra hoạt động chuyển giá. Một số nội dung trong các văn bản trên cần rà soát và hướng dẫn cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho cả các cơ quan thanh, kiểm tra và người nộp thuế tuân thủ một cách nghiêm túc và có hiệu quả, đồng thời tránh các xung đột hoặc bất đồng về lợi ích giữa các cơ quan thuế với người nộp thuế, ví dụ quy định về khấu trừ chi phí cho mục đích tính thuế (Điều 8- Thông tư 41), hoặc quy định về nghĩa vụ kê khai và thời hạn nộp các báo cáo liên quan đến các bên trong giao dịch liên kết, cách thức cơ quan thuế điều chỉnh giá trong giao dịch liên kết Thứ sáu, các chế tài xử lý các vi phạm về thuế nói chung và chuyển giá nói riêng tại Việt Nam còn chưa nghiêm, tính hiệu lực chưa cao và chưa có tác dụng răn đe để ngăn ngừa và hạn chế các hành vi trốn tránh thuế. Để ngăn chặn và răn đe các vi phạm pháp luật về chuyển giá, cần điều chỉnh các chế tài xử phạt theo hướng tăng nặng cả về hình thức và quy mô phạt đối với các bên trong giao dịch liên kết. ■ CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018 Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Thị Phương Hoa (2006), Kiểm soát quản lý, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2006. 2. Thu Lê (2018), Gần 50% doanh nghiệp FDI báo lỗ: Kẽ hở chuyển giá. Truy cập tại nuoc-ngoai-tai-Viet-Nam/Gan-50-doanh-nghiep-FDI-bao-lo-Ke-ho-chuyen-gia/341155.vgp ngày 27/7/2018 3. Nguyễn Thanh Nhàn (2015), Bàn về hoạt động chuyển giá nội địa ở Việt Nam hiện nay thuvien.thanglong.edu.vn:8081/ dspace/bitstream/DHTL.../Lê%20Thanh%20Nhàn.pdf 4. Hàn Ni (2017), Cả hệ thống chính trị phải vào cuộc, Truy cập tại cuoc-364576.html 5. OECD (2013), Draft handbook on transfer prcing risk assessment Truy cập tại https://www.oecd.org/.../transfer-pricing/ Draft-Handbook-TP-Risk-Ass... 6. Roman Oleksiienko (2017), The need for greater convergence and coordination between customs and tax authorities over the issue of transfer pricing Truy cập tại biblio.umsf.dp.ua/jspui/bitstream/.../1/CSJ_special-edition-91-102.pdf 7. Nguyễn Văn Phượng (2015), Kiểm soát nhà nước đối với gian lận chuyển giá tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 8. Matthew Pepitt, Earnst & Young (2009), Tax Due Diligence, Spiramus Press February 1, 2009 p.165 ISBN: 9781904905462. 9. Nguyễn Quang Quynh (2008), Lý thuyết kiểm toán, NXB Đại học Kinh tế quốc dân. 10. Nguyễn Đại Thắng (2016), Kiểm soát chuyển giá đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính. 11. Price Waterhouse and Cooper (2013), Transfer pricing perspective PwC Thought leadership journal. Truy cập tại https:// www.pwc.com/na/.../thought-leadership-event-presentations.htm... 12. The Romania National Agency for Fiscal Administration (2011), Tranfer Pricing demand increases in Romania. Truy cập tại www.transferpricing.ro/.../232c480999947f8ca8e3fd4d93c545c4.pdf 13. The World Bank, The performance indicator for tax administrations - The Toolkit for Tax Administration Diagnogis - some essential questions to identify tax administration weaknesses, environmental comstraints, and reform priorities. Truy cập tại siteresources.worldbank.org/INTTPA/Resources/focussedtoolkit.doc 14. Ngọc Thủy (2017), Đã tới lúc phải sòng phẳng với Uber và Grab. Truy cập tại https://nhipcaudautu.vn/nhan-vat/da-toi-luc- phai-song-phang-voi-uber-va-grab-3318208/ 15. Tony Dong at al (2017), Transfer Pricing in China: overview. Truy cập tại https://uk.practicallaw.thomsonreuters.com/w- 007-8954?transitionType=Default&contextData=(sc.Default)&firstPage=true&comp=pluk&bhcp 16. Anh Vũ (2014), Hàng loạt doanh nghiệp FDI trốn thuế: Kỳ 2 không thể nhân nhượng. Truy cập tại https://thanhnien.vn/tai- chinh-kinh-doanh/hang-loat-doanh-nghiep-fdi-chuyen-gia-tron-thue-ky-2-khong-the-nhan-nhuong-385787.html Thông tin tác giả Bùi Thị Minh Hải, Tiến sĩ Viện Kế toán- Kiểm toán, Đại học Kinh tế quốc dân Emai: havpco@yahoo.com.vn Summary Factors that influence effectiveness of control over transfer pricing in enterprises in Vietnam Transfer pricing is normal part of commerce in context of intergrated economies. While companies can manipulate related parties prices for different purposes, especially for tax advantage, authorities need to prevent and limit transfer pricing’s adverse impact. This paper studies and identifies determinants of transfer pricing control. Based on assessement result, this paper gives recommendations to enhance effectiveness of transfer pricing control in Vietnam. Keywords: transfer pricing, control, transfer pricing in enterprises. Hai Thi Minh Bui, PhD. School of Accounting and Auditing, National Economics University
File đính kèm:
- cac_nhan_to_anh_huong_den_tinh_hieu_luc_cua_kiem_soat_chuyen.pdf