Các nhân tố tác động đến việc áp dụng kế toán quản trị nhằm kiểm soát chi phí và tài chính của các doanh nghiệp sản xuất tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập

Tóm tắt: Hệ thống kế toán đóng một vai trò quan trọng đối với bất kỳ tổ chức nói chung và

doanh nghiệp sản xuất (DNSX) nói riêng. Các nghiên cứu đã cho thấy các nhân tố ngẫu nhiên

ảnh hưởng việc áp dụng kế toán quản trị (KTQT) nhằm kiểm soát chi phí và tài chính trong tổ

chức là các nhân tố: Môi trường không ổn định, thị trường cạnh tranh, chiến lược, quy mô và

cấu trúc. Nghiên cứu này áp dụng lý thuyết ngẫu nhiên để xác định các nhân tố chính bên

trong và bên ngoài doanh nghiệp (DN) tác động đến việc áp dụng KTQT nhằm kiểm soát chi

phí và tài chính trong tổ chức. Bằng việc sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính

với phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả đã xác định được năm nhân tố gồm: Môi

trường không ổn định; Thị trường cạnh tranh; Quy mô DN; Cơ cấu tổ chức; và Chiến lược

cạnh tranh là có tác động đến việc áp dụng KTQT nhằm góp phần kiểm soát chi phí và tài

chính trong các DNSX tại TP.HCM.

pdf 15 trang yennguyen 5640
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố tác động đến việc áp dụng kế toán quản trị nhằm kiểm soát chi phí và tài chính của các doanh nghiệp sản xuất tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố tác động đến việc áp dụng kế toán quản trị nhằm kiểm soát chi phí và tài chính của các doanh nghiệp sản xuất tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập

Các nhân tố tác động đến việc áp dụng kế toán quản trị nhằm kiểm soát chi phí và tài chính của các doanh nghiệp sản xuất tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 68 
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC ÁP DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ 
NHẰM KIỂM SOÁT CHI PHÍ VÀ TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT 
TẠI TP. HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 
#PGS.TS. Trần Văn Tùng - Trường ĐH Công Nghệ TP.HCM 
Ths. NCS. Võ Tấn Liêm – Trường ĐH Văn Hiến 
Tóm tắt: Hệ thống kế toán đóng một vai trò quan trọng đối với bất kỳ tổ chức nói chung và 
doanh nghiệp sản xuất (DNSX) nói riêng. Các nghiên cứu đã cho thấy các nhân tố ngẫu nhiên 
ảnh hưởng việc áp dụng kế toán quản trị (KTQT) nhằm kiểm soát chi phí và tài chính trong tổ 
chức là các nhân tố: Môi trường không ổn định, thị trường cạnh tranh, chiến lược, quy mô và 
cấu trúc. Nghiên cứu này áp dụng lý thuyết ngẫu nhiên để xác định các nhân tố chính bên 
trong và bên ngoài doanh nghiệp (DN) tác động đến việc áp dụng KTQT nhằm kiểm soát chi 
phí và tài chính trong tổ chức. Bằng việc sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính 
với phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả đã xác định được năm nhân tố gồm: Môi 
trường không ổn định; Thị trường cạnh tranh; Quy mô DN; Cơ cấu tổ chức; và Chiến lược 
cạnh tranh là có tác động đến việc áp dụng KTQT nhằm góp phần kiểm soát chi phí và tài 
chính trong các DNSX tại TP.HCM. 
Từ khóa: Kiểm soát chi phí và tài chính, DN sản xuất, KTQT 
1. Giới thiệu 
Với quá trình toàn cầu hóa và phát triển công nghệ, thương mại giữa các quốc gia đã 
có một khía cạnh nhận thức mới. Việc trao đổi các phương pháp và áp dụng KTQT tại các 
DN chiếm một vị trí nổi bật trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Việc áp dụng KTQT 
bị tác động bởi các nhân tố ngẫu nhiên và những nhân tố này ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức 
và hoạt động của các DN (Reid & ctg, 2000). Theo đó, các DN đối mặt với nhiều sự lựa chọn 
trong việc áp dụng KTQT cho tổ chức, tuy nhiên điểm mấu chốt cuối cùng cần xác định là các 
DN phải thiết kế một hệ thống KTQT nhằm đáp ứng các yêu cầu quản trị mới. Trong bối cảnh 
này, nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để xác các nhân tố có ảnh hưởng đến sự lựa chọn áp 
dụng KTQT cho các DN (Helsinki và cộng sự, 2006). 
Hệ thống kế toán của DN là một phần quan trọng trong việc vận hành của cơ cấu tổ 
chức. Các đặc điểm riêng của mỗi hệ thống quản lý nói chung và KTQT nói riêng nhằm đáp 
ứng sự thích hợp trong việc cung cấp thông tin phục vụ quản lý sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh 
thực tế mà DN phải đối mặt (Otley, 1980). Một số nghiên cứu cho thấy các nhân tố ngẫu 
nhiên ảnh hưởng quan trọng đến cấu trúc tổ chức là sự không ổn định về môi trường (Gull et 
al (1994), công nghệ sản xuất (Woodward 1965), chiến lược kinh doanh (Naranjo, 2004) và 
quy mô tổ chức (Mitchell, 2002). Như vậy, dựa trên lý thuyết ngẫu nhiên, nghiên cứu này xác 
định các nhân tố ảnh hưởng đến áp dụng KTQR để kiểm soát chi phí và tài chính ở các DNSX 
tại TP.HCM. Để trả lời câu hỏi này, nghiên cứu đã tiến hành một nghiên cứu thăm dò một 
mẫu gồm các DNSX tại TP.HCM. 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 69 
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Lý thuyết ngẫu nhiên xác định cách tiếp cận để thiết kế và áp dụng KTQT cho đơn vị 
Kế toán quản trị: Sự phát triển được điều chỉnh nhằm ra quyết định 
Theo Johnson và cộng sự (1987), KTQT là một trong những "thế hệ tiếp nối" của kế 
toán tài chính. Nó không phải là kết quả của một sự kiện đột ngột, mà là kết quả của một hiệu 
ứng. Trong sự kết nối với môi trường bên ngoài thì kế toán là một đối tượng bị ảnh hưởng bởi 
những thay đổi quan trọng của môi trường bên ngoài. Những thay đổi trong lĩnh vực KTQT 
đã trở thành chủ đề của nhiều cuộc thảo luận. Theo đó, những thay đổi này nhằm đáp ứng lại 
nhu cầu hiện tại của môi trường kinh doanh của DN. Một số kỹ thuật đã được phát triển, để 
đáp ứng những thay đổi trong môi trường cạnh tranh và đổi mới công nghệ sản xuất trong 
thực tiễn. Trong bối cảnh này, Scapens (1990) nhấn mạnh rằng, những thay đổi này đồng 
nghĩa với tiến sự bộ lớn. Chúng hoạt động như một sự mở rộng của kế toán tài chính, để lập 
kế hoạch và kiểm soát chi phí và tài chính. Với luồng thông tin từ KTQT cung cấp cho nhà 
quản trị, các kỹ thuật ra quyết định trở nên linh hoạt hơn. Đối với Simon (1979), quyết định 
trong tính toán đòi hỏi sự tập trung dữ liệu của DN trong một nguồn dữ liệu rộng lớn để tạo 
điều kiện, nhằm phân tích dữ liệu và ra quyết định. Với sự phát triển này, dữ liệu kế toán đang 
được sử dụng cho việc đưa ra quyết định, dựa trên cơ sở kiến thức và chỉ đạo chiến lược từ 
cấp trên về chi phí và tài chính, để có phản ứng kịp thời với môi trường khi vẫn còn thời gian 
để can thiệp. Ra quyết định là một hành động chủ động. Mục tiêu chính của việc ra quyết định 
này là quản trị hiệu quả hoạt động mà cơ bản nhất là kiểm soát chi phí và tài chính. KTQT 
được sử dụng để tối đa hoá khả năng tạo ra lợi nhuận và lợi ích cho DN. 
Lý thuyết ngẫn nhiên 
Lý thuyết về sự ngẫu nhiên cho rằng, không có lý thuyết hay phương pháp nào có thể 
được áp dụng trong mọi trường hợp. Nói cách khác, không có một phương pháp nào là tốt 
nhất để thiết kế, lãnh đạo hoặc quản lý một tổ chức bất kỳ (Donaldson, 2001). Từ quan điểm 
ngẫu nhiên, khái niệm về cách áp dụng KTQT trong thực tiễn tốt nhất phải được nghiên cứu 
trong một bối cảnh cụ thể, hay nói cách khác là đối với một tổ chức cụ thể sẽ có những nhân 
tố khác nhau, vì tác động của mỗi nhân tố thích hợp hay không phụ thuộc hoàn toàn vào môi 
trường hoạt động của chính tổ chức đó (Ketokivi et al, 2004). Điều này ngụ ý rằng, không có 
một cơ cấu hiệu quả cho tất cả các tổ chức; Một cấu trúc chỉ có thể đạt được sự tối ưu khi thay 
đổi theo các yếu tố ngẫu nhiên nhất định. Mặc dù cách tiếp cận ngẫu nhiên được phát triển ở 
góc độ về lý thuyết tổ chức trong nửa đầu những năm 1960. 
Lý thuyết ngẫu nhiên hướng đến việc nghiên cứu các hệ thống thông tin kế toán mà cụ 
thể trong nghiên cứu này là KTQT. Điều này là hợp lý khi giả định rằng, các nhà quản trị 
hành động với mục tiêu trong một tổ chức cụ thể sẽ phải thích nghi với những thay đổi của 
các yếu tố cụ thể thuộc về tổ chức đó nhằm mục tiêu cuối cùng là cải thiện hoạt động kinh 
doanh của DN đó. Theo nghĩa này, các nhà nghiên cứu cố gắng xác định sự tương ứng giữa 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 70 
các yếu tố bên ngoài và bên trong DN để hướng đến hiệu quả hoạt động cao. Theo Vroom và 
cộng sự (1973), hiệu quả khi ra quyết định phụ thuộc vào một số khía cạnh: 
- Tầm quan trọng, chất lượng và khả năng được nhất trí của các quyết định. 
- Số lượng thông tin phù hợp mà các nhà lãnh đạo cấp cao và bộ phận có được từ hệ 
thống KTQT cung cấp. 
- Khả năng nhóm ra quyết định phối hợp để đưa ra quyết định tốt. 
Điều này hàm ý rằng, lý thuyết ngẫu nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu 
về hệ thống kế toán nói chung và KTQT nói riêng. Bằng cách chấp nhận sử dụng cách tiếp 
cận ngẫu nhiên này, thông tin KTQT được xem như là một phần không thể thiếu trong hệ 
thống thông tin chung của tổ chức, được điều chỉnh bởi các yếu tố đặc trưng về bối cảnh mà 
công ty hoạt động đang có. Nó phải thích ứng với một bộ các biến ngẫu nhiên, cụ thể là quy 
mô, cấu trúc sở hữu (Lavigne (1999)), lĩnh vực hoạt động (Dupuy (1990)) và thời gian họat 
động của DN (Ngongang 2013), chiến lược cạnh tranh của DN (Hoque, 2011) và thị trường 
cạnh tranh (Ghasemi & ctg, 2015) và văn hoá quốc gia (Anderson& ctg., 2004). 
2.2. Kiểm soát tài chính và chi phí 
Nghiên cứu này dựa trên cách tiếp cận được sử dụng bởi Abdelkader và cộng sự 
(2008) theo mô hình IFAC (1998). IFAC (1998) cung cấp một mô hình giải thích sự phát triển 
của KTQT theo mô hình gồm "4 giai đoạn". Trọng tâm chính của giai đoạn đầu (sự phát triển 
này diễn ra trước năm 1950) là " kiểm soát chi phí và tài chính". Trong giai đoạn này, DN áp 
dụng KTQT nhằm kiểm soát được chi phí và tài chính hay nhằm có được thông tin để lập kế 
hoạch và kiểm soát hay để giảm được sự lãng phí trong việc sử dụng nguồn lực kinh tế cũng 
như tạo ra được giá trị cho DN khi sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả. KTQT trong 
giai đoạn này chủ yếu quan tâm đến các vấn đề nội bộ, đặc biệt là ở khâu sản xuất nhằm tạo ra 
lợi nhuận cao nhất bằng cách kiểm soát chi phí và tài chính thật tốt trong tổ chức hoặc DN. 
Trong nửa đầu của thế kỷ 20, việc lập dự toán và kế toán chi phí đã trở nên phổ biến, DN 
muốn kiểm soát được chi phí và tài chính, được cung cấp thông tin để lập kế hoạch và kiểm 
soát, giảm được sự lãng phí trong việc sử dụng nguồn lực kinh tế, tạo ra được giá trị khi sử 
dụng các nguồn lực có hiệu quả. 
3. Giả thuyết nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 
3.1. Giả thuyết nghiên cứu 
3.1.1. Các nhân tố bên ngoài 
Một tổ chức không thể phát triển một cách đơn giản, để đạt được các mục tiêu hoặc vì 
động cơ của tổ chức đó hoặc nhu cầu của các thành viên hoặc lãnh đạo. Nó phải tuân thủ các 
ràng buộc bởi các mối quan hệ của nó với môi trường. Do đó, tính không ổn định và cạnh 
tranh của môi trường có ý nghĩa đáng kể đối với hệ thống KTQT (Jones (1985)). 
Các nhân tố bên ngoài tác động đến việc áp dụng KTQT tại DN bao gồm: 
Môi trường không ổn định 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 71 
Môi trường không ổn định là một trong những yếu tố đầu tiên để nghiên cứu ảnh 
hưởng của nó đến áp dụng KTQT. Gull và cộng sự (1994) cho thấy rằng, khi biết được mức 
độ môi trường không ổn định được xác định là thấp, ban lãnh đạo có thể đưa racác dự đoán 
tương đối chính xác trên thị trường. Trong năm 2008, Abdelkader và cộng sự (2008) nhận 
thấy rằng, các công ty nhận thấy mức độ không chắc chắn về môi trường cao sẽ chấp nhận 
việc áp dụng KTQT nhằm kiểm soát chi phí và tài chính là cao hơn so với các công ty thấy 
được môi trường không ổn định thấp. Dựa trên khuôn khổ này, chúng tôi xây dựng giả thuyết 
sau: 
H1: Các công ty hoạt động trong một môi trường không ổn định cao sẽ cần áp dụng 
KTQT để kiểm soát chi phí và tài chính cao hơn. 
Thị trường cạnh tranh 
Mia và al (1999) đã kiểm tra mối quan hệ giữa mức độ thị trường cạnh tranh và việc 
sử dụng thông tin của các nhà quản trị. Kết quả của họ cho thấy, sự gia tăng mức độ cạnh 
tranh trên thị trường có liên quan đến việc gia tăng sử dụng thông tin KTQT. Các nghiên cứu 
trước đây ví dụ như của Hoque (2004) và Krishnan và cộng sự (2002) cho thấy rằng, các DN 
ngày nay cần có các hệ thống KTQT để có thể cung cấp thông tin kịp thời, linh hoạt và thích 
hợp trong nhiều vấn đề bao gồm chi phí sản phẩm, chất lượng, dịch vụ khách hàng, sự hài 
lòng của khách hàng và lợi nhuận. Bromwich (1990) lập luận rằng, cần phải sửa đổi hoặc phát 
triển hệ thống KTQT để tập trung vào các hoạt động giá trị gia tăng của DN so với đối thủ 
cạnh tranh. Như vậy, giả thuyết thứ hai có thể được xây dựng như sau: 
H2: Các công ty đối mặt nhiều với sự cạnh tranh thị trường khốc liệt cần áp dụng 
KTQT để kiểm soát chi phí và tài chính. 
3.1.2 Các nhân tố bên trong DN 
Các yếu tố nội bộ của công ty liên quan đến cơ cấu tổ chức, quy mô tổ chức và chiến 
lược cạnh tranh mà nó theo đuổi (Tijani Amara*, Samira Benelifa, trang 49). 
Cơ cấu tổ chức 
Trong các khía cạnh, khi xem xét đến tầm quan trọng của cấu trúc tổ chức đã nhận 
được rất nhiều sự quan tâm, đó là những vấn đề liên quan đến việc xác định mức độ tập trung 
hay phân tán khi ra quyết định. Abdelkader và cộng sự (2008) và Chia (1995) đã tìm ra mối 
quan hệ tích cực giữa việc phân quyền và thực hiện KTQT để cung cấp thông tin, nhằm kiểm 
soát chi phí và tài chính của DN. Trong bối cảnh này, nghiên cứu này đưa ra giả thuyết: 
H3: Các DN có cấu trúc phân quyền khi ra quyết định sẽ cần các thông tin để kiểm 
soát chi phí và tài chính cao hơn so với các công ty có cấu trúc tập trung trong việc áp 
dụng KTQT. 
Quy mô tổ chức 
Quy mô của tổ chức là một nhân tố chính về cấu trúc "Desreumaux (1992)". Trong bối 
cảnh này, tổ chức nhỏ hơn thường có hệ thống thông tin kế toán đơn giản hơn và mức độ tinh 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 72 
vi thấp hơn (Vallerand và cộng sự, 2008). Đối với Lavigne (2002) ), quy mô đại diện cho yếu 
tố thiết yếu của cấu trúc ngẫu nhiên, giải thích cho việc sử dụng các công cụ kiểm soát, cụ thể 
là kiểm soát chi phí và tài chính của nhà quản trị. Do đó, giả thuyết của nghiên cứu đưa ra là 
như sau: 
H4: Các tổ chức lớn cần áp dụng KTQT để kiểm soát chi phí và tài chính hơn các 
tổ chức nhỏ. 
Chiến lược cạnh tranh 
Việc hiểu được mối quan hệ chiến lược cạnh tranh và áp dụng KTQT đã được nghiên 
cứu từ nhiều góc độ. Langfield (1997) nhận thấy rằng, hệ thống KTQT trong việc kiểm soát 
chi phí và tài chính bị tác động tích cực hơn trong các DN thông qua chiến lược cạnh trạnh 
của DN. Cadez và cộng sự (2012) dự đoán rằng, một hệ thống KTQT cần ưu tiên kết hợp với 
chiến lược thích hợp để cải thiện hiệu suất. Chiến lược cạnh tranh cũng được Anderson và 
cộng sự (1999) kiểm tra như là một biến quan trọng trong mối quan hệ ngẫu nhiên và áp dụng 
KTQT để kiểm soát chi phí và tài chính. 
H5: Chiến lược cạnh tranh có tác động tích cực việc áp dụng KTQT để kiểm soát 
chi phí và tài chính của các DN. 
3.2. Phương pháp nghiên cứu 
3.2.1. Nghiên cứu sơ bộ 
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Từ mô hình nghiên cứu đề xuất lần 1 ở trên, 
tác giả đã trình bày mô hình nghiên cứu đề xuất lần 1 với một số chuyên gia về KTQT, giảng 
viên chuyên ngành KTQT của một số trường đại học ở TP.HCM, cán bộ kế toán tại các 
DNSX tại TP.HCM. Các chuyên gia đã góp ý bảng câu hỏi phần khảo sát các nhân tố ảnh 
hưởng theo thang đo Likert, cần phải khảo sát cả về thực trạng kiểm soát chi phí và tài chính 
tại các DN đã khảo sát. Các chuyên gia cũng đồng tình với nhận định, các nhân tố bên trong 
và bên ngoài DN gồm: Môi trường không ổn định; Thị trường cạnh tranh; Cơ cấu tổ chức; 
Quy mô tổ chức và Chiến lượng cạnh tranh có ảnh hưởng đến việc áp dụng KTQT, nhằm mục 
đích kiểm soát chi phí và tài chính trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. 
Phương pháp thảo luận nhóm: Tác giả đã thực hiện thảo luận và được tiến hành với 
một nhóm 6 giảng viên chuyên giảng dạy KTQT và có nhiều kinh nghiệm làm việc thực tế 
của khoa và bộ môn kế toán của một số trường đại học trên địa bàn TP.HCM. 
Theo Tijani Amara &ctg (2017) thì không có mô hình cơ cấu nào thích nghi với tất 
cả các môi trường nhưng các cấu trúc được điều chỉnh để thích nghi với một môi trường cụ 
thể. Căn cứ vào mô hình nghiên cứu của Tijani Amara & ctg, đồng thời căn cứ vào kết quả 
thảo luận nhóm, tác giả đã xác định các yếu tố ngẫu nhiên được phân loại thành các yếu tố 
bên ngoài và bên trong DN tác động đến việc áp dụng KTQT nhằm mục đích kiểm soát chi 
phí và tài chính cho các DNSX tại TP.HCM như sau: 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 73 
Hình 1: Mô hình tác giả đề xuất 
3.2.2.Nghiên cứu chính thức bằng phương pháp nghiên cứu định lượng 
Mục đích của bước nghiên cứu này là để kiểm định lại mô hình nghiên cứu đã được đề 
xuất ở trên, và đo lường các nhân tố trong mô hình nghiên cứu. Nghiên cứu chính thức được 
hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua các bước sau: 
Bước 1: Xây dựng bảng câu hỏi 
Bảng câu hỏi khảo sát được ... ân tích nhân tố khám phá (EFA) 
Khi phân tích nhân tố, nghiên cứu đặt ra 2 giả thuyết: 
Giả thuyết Ho: Các biến trong tổng thể không có tương quan với nhau. 
Giả thuyết H1: Các biến trong tổng thể có tương quan với nhau. 
- Phân tích nhân tố khám phá biến phụ thuộc 
Bảng 3: Hệ số KMO và kiểm định Bartlett các thành phần 
Kiểm tra KMO and Bartlett's 
Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) .745 
Giá trị Chi-Square 190.520 
Bậc tự do 6 
Mô hình kiểm tra của Bartlett 
Sig (giá trị P – value) .000 
Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả 
Kết quả kiểm định Bartlett's cho thấy giữa các biến trong tổng thể có mối tương 
quan với nhau (sig = 0.000<0.05, bác bỏ H0, nhận H1). Đồng thời, hệ số KMO = 0,679 
lớn hơn 0,5 (> 0,5), chứng tỏ phân tích nhân tố để nhóm các biến lại với nhau là thích 
hợp và dữ liệu phù hợp cho việc phân tích. 
Bảng 4: Phương sai trích biến phụ thuộc 
Giá trị Eigenvalues Chỉ số sau khi trích 
Nhân 
tố Tổng Phương sai trích % 
Tích lũy phương 
sai trích % Tổng 
Phương 
sai trích % 
Tích lũy phương 
sai trích % 
1 2.562 64.049 64.049 2.562 64.049 64.049 
2 .728 18.191 82.240 
3 .467 11.667 93.907 
4 .244 6.093 100.000 
Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả 
Kết quả cho thấy với phương pháp rút trích Principal components và phép quay 
Varimax, có 1 yếu tố được rút trích ra từ biến quan sát. Phương sai trích là 64.049% > 
50% đạt yêu cầu. 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 76 
- Phân tích nhân tố khám phá EFA biến độc lập 
Bảng 5: Hệ số KMO và kiểm định Barlett. 
Kiểm tra KMO and Bartlett's 
Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) .591 
Giá trị Chi-Square 2756.438 
Bậc tự do 136 
Mô hình kiểm tra của Bartlett 
Sig (giá trị P – value) .000 
Kết quả kiểm định Barlett cho thấy giữa các biến trong tổng thể có mối tương quan 
với nhau (sig = 0.00 0,5. 
Chứng tỏ phân tích nhân tố để nhóm các biến lại với nhau là thích hợp và dữ liệu phù hợp cho 
việc phân tích. 
Bảng 6: Bảng phương sai trích 
Giá trị Eigenvalues Chỉ số sau khi trích Chỉ số sau khi xoay 
Nhân 
tố Tổng 
Phương sai 
trích % 
Tích lũy 
phương sai 
Tổng
Phương sai 
trích % 
Tích lũy 
phương sai 
Tổng 
Phương sai 
trích % 
Tích lũy 
phương sai 
1 5.688 33.459 33.459 5.688 33.459 33.459 3.547 20.865 20.865 
2 3.663 21.548 55.007 3.663 21.548 55.007 3.444 20.259 41.124 
3 2.070 12.174 67.181 2.070 12.174 67.181 3.106 18.269 59.393 
4 2.020 11.883 79.064 2.020 11.883 79.064 2.777 16.338 75.730 
5 1.258 7.400 86.465 1.258 7.400 86.465 1.825 10.734 86.465 
6 .577 3.396 89.860 
7 .497 2.924 92.784 
Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả 
Từ kết quả bảng số liệu sau khi chạy Fixed number of factors ta thấy phương sai trích 
là 86.465% > 50% đạt yêu cầu. Với phương pháp rút trích Principal components và phép 
quay Varimax, có 5 yếu tố được rút trích ra từ các biến quan sát. Điều này cũng có nghĩa 5 
yếu tố rút trích ra thể hiện khả năng giải thích được 86.465% sự thay đổi của biến phụ thuộc 
trong tổng thể. 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 77 
- Kết quả mô hình EFA: 
Bảng 7: Ma trận xoay 
Component 
 1 2 3 4 5 
Cocautochuc1 .962 
Cocautochuc2 .931 
Cocautochuc3 .900 
Cocautochuc4 .878 
Quymodoanhnghiep2 .938 
Quymodoanhnghiep1 .925 
Quymodoanhnghiep4 .891 
Quymodoanhnghiep3 .812 
Mucdocanhtranhcuathitruong2 .910 
Mucdocanhtranhcuathitruong1 .909 
Mucdocanhtranhcuathitruong4 .869 
Mucdocanhtranhcuathitruong3 .707 
Moitruongkhongondinh1 .906 
Moitruongkhongondinh3 .900 
Moitruongkhongondinh2 .849 
Chienluoccanhtranh1 .946 
Chienluoccanhtranh2 .928 
Extraction Method: Principal Component Analysis. 
 Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. 
a. Rotation converged in 6 iterations. 
Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả 
Kết quả phân tích EFA cho thấy các biến được gom thành 5 nhóm. Hệ số tải 
nhân tố (Factor Loading) của các biến đều lớn hơn 0,5 và hiệu số giữa các thành phần 
trong cùng yếu tố đều lớn hơn 0,3. 
Kết quả các nhóm yếu tố được gom lại gồm 5 nhóm với 17 biến quan sát, cụ thể như 
sau: 
Nhóm 1 (yếu tố Cơ cấu tổ chức) gồm 4 biến: CC1, CC2, CC3, CC4. 
Nhóm 2 (yếu tố Quy mô DN) gồm 4 biến: QM1, QM2, QM3, QM4. 
Nhóm 3 (yếu tố Mức độ cạnh tranh của thị trường) gồm 4 biến: CT1, CT2, CT3, CT4. 
Nhóm 4 (yếu tố Môi trường không ổn định) gồm 3 biến: MT1, MT2, MT3. 
Nhóm 5 (yếu tố Chiến lược cạnh tranh) gồm 2 biến: CL1, CL2. 
4.3. Phân tích hồi quy bội 
Để nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến áp dụng KTQT để kiểm soát chi phí và tài 
chính trong các DNSX tại TP.HCM, mô hình tương quan tổng thể có dạng: CFC = f (MT, CT, 
CC, QM, CL) 
Trong đó: 
CFC: Biến phụ thuộc (Áp dụng kế tóan quản trị để kiểm soát chi phí và tài chính) 
Biến độc lập: (1) CC: Cơ cấu tổ chức, (2) QM: Quy mô DN, (3) CT: Mức độ cạnh 
tranh của thị trường, (4) MT: Môi trường không ổn định, (5) CL: Chiến lược cạnh tranh. 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 78 
Việc xem xét trong các nhân tố độc lập, nhân tố nào thật sự tác động đến việc áp dụng 
kế toán quản trị để kiểm soát chi phí và tài chính một cách trực tiếp sẽ được thực hiện 
bằng phương trình hồi quy tuyến tính: 
CFC = b0 + b1CC + b2QM + b3CT + b4MT+ b5CL +ei 
(Trong đó, các biến đưa vào phân tích hồi quy được xác định bằng cách tính điểm của 
các nhân tố (Factor score – nhân số). 
Bảng 8: Thông số thống kê trong mô hình hồi qui bằng phương pháp Enter 
Hệ số chưa chuẩn hóa Hệ số chuẩn hóa Thống kê đa cộng tuyến 
Mô hình 
B Sai số chuẩn Beta 
T Sig. 
Hệ số Tolerance Hệ số VIF 
(Constant) .712 .341 2.086 .039 
CC .248 .067 .229 3.708 .000 .877 1.140 
QM -.338 .057 -.405 -5.957 .000 .725 1.379 
CT .321 .066 .312 4.857 .000 .811 1.234 
MT .477 .054 .610 8.774 .000 .694 1.441 
CL .088 .043 .126 2.069 .041 .911 1.098 
Biến phụ thuộc: (Y) 
Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả 
Trong bảng số liệu khi xét tstat và tα/2 của các biến để đo độ tin cậy thì các biến độc 
lập CC, QM, CT, MT, CL đều đạt yêu cầu và các giá trị Sig thể hiện độ tin cậy khá cao, đều 
0,5 cho 
thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra . 
Bảng 9: Đánh giá mức độ phù hợp của mô hình hồi qui tuyến tính đa biến 
Thống kê thay đổi Hệ số 
Mô 
hình Hệ số R 
Hệ số 
R
2 Hệ số R2 - 
hiệu chỉnh 
Sai số 
chuẩn của 
ước lượng Hệ số R
2 
sau 
khi đổi 
Hệ số F khi 
đổi 
Bậc tự do 
1 
Bậc tự 
do 2 
Durbin- 
Watson 
1 .773a .598 .581 .39421 .598 35.642 5 120 1.609 
a Biến độc lập: (Constant) : CC, QM, CT, MT, CL 
b Biến phụ thuộc: AD 
Nguồn: Phân tích dữ liệu của tác giả 
Bảng trên cho thấy, giá trị hệ số tương quan là 0.773 > 0.5. Do vậy, đây là mô hình 
thích hợp để sử dụng đánh giá mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập. 
Ngoài ra hệ số xác định của mô hình hồi quy R2 hiệu chỉnh là 0.581. Nghĩa là mô hình 
hồi quy tuyến tính đã xây dựng phù hợp với dữ liệu 58.1%. Điều này cho biết khoảng 58.1% 
sự biến thiên của biến phụ thuộc (AD) là do tác động của các biến độc lập (CC, QM, CT, 
MT, CL), các phần còn lại là do sai sót của các yếu tố khác. Kiểm định Durbin Watson = 
1.609 trong khoảng 1< D < 3 nên không có hiện tượng tự tương quan của các phần dư. 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 79 
Kiểm tra các giả định mô hình hồi quy 
Kiểm tra các giả định sau: 
+ Phương sai của sai số (phần dư) không đổi. 
+ Các phần dư có phân phối chuẩn. 
+ Không có mối tương quan giữa các biến độc lập. 
Nếu các giả định này bị vi phạm thì các ước lượng không đáng tin cậy nữa (Hoàng 
Trọng – Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). 
Kiểm định giả định phương sai của sai số (phần dư) không đổi 
Để kiểm định giả định phương sai của sai số (phần dư) không đổi, ta sử dụng đồ thị 
phân tán của phần dư đã được chuẩn hóa (Standardized Residual) và giá trị dự báo đã được 
chuẩn hóa (Standardized predicted value). 
Hình 2: Đồ thị phân tán giá trị dự đoán và phần dư từ hồi quy 
Từ hình trên cho thấy các phần dư ngẫu nhiên phân tán quay trục O (quanh giá trị 
trung bình của phần dư) trong một phạm vi không đổi. 
Kiểm tra giả định các phần dư có phân phối chuẩn. 
Phần dư có thể không tuân theo phân phối chuẩn vì những lý do như sử dụng sai mô 
hình, phương sai không phải là hằng số, số lượng các phần dư không đủ nhiều để phân tích. 
Biểu đồ tần số (Histogram, Q-Q plot, P-P plot) của các phần dư (đã được chuẩn hóa) được sử 
dụng để kiểm tra giả định này. 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 80 
Hình3: Đồ thị P-P plot của phần dư–đã chuẩn hóa 
Hình 4: Đồ thị Histogram của phần dư – đã chuẩn hóa 
Kết quả từ biểu đồ tần số Histogram của phần dư cho thấy, phân phối của phần dư xấp 
xỉ chuẩn (trung bình Mean lệch với 0 vì số quan sát khá lớn, độ lệch chuẩn Std. Dev = 0.980). 
Điều này có nghĩa là giả thuyết phân phối chuẩn của phần dư không bị vi phạm. 
Kết quả từ biểu đồ tần số P-P plot cho thấy các điểm phân tán xung quanh được kỳ 
vọng và cho thấy giả định phân phối chuẩn của phần dư không bị vi phạm. 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 81 
5. Kết luận, hảm ý chính sách và hướng nghiên cứu tiếp theo 
5.1. Kết luận 
Như vậy, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra 5 nhân tố chính (gồm 2 nhân tố bên ngoài và 3 
nhân tố bên trong DN) tác động đến mục đích kiểm soát chi phí và tài chính khi áp dụng 
KTQT trong các DNSX ở TP.HCM . Kết quả của nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với các 
kết quả nghiên cứu trước (Jones, 1985; Mia & ctg, 1999; Gordon và Narayanan, 1984; Baird 
và ctg, 2004; Govindarajan & Fisher, 1990). Theo đó, các hệ số hồi quy được chuẩn hóa như 
sau: 
Biến độc lập Giá trị tuyệt đối 
Môi trường không ổn định 0.610 
Mức độ cạnh tranh của thị trường 0.312 
Cơ cấu tổ chức 0.229 
Chiến lược cạnh tranh 0.126 
Quy mô DN (ngược chiều) 0.405 
Biến Môi trường không ổn định đóng góp 61.0%, biến Mức độ cạnh tranh của thị 
trường đóng góp 31.2%, biến Cơ cấu tổ chức, Chiến lược cạnh tranh đóng góp lần lượt là 
22.9%; 12.6% và quy mô DN đóng góp 40.5% (ngược chiều). 
Chúng ta có thể thấy rằng, đối với những DNSX có quy mô lớn tại TP.HCM thì khả 
năng kiểm soát chi phí và tài chính của nhà quản trị là rất khó khăn, do đó áp dụng KTQT là 
một phương án tối ưu nhằm giúp họ quản trị DN tốt hơn. Bên cạnh đó, khi DN đang theo đuổi 
một chiến lược có ý nghĩa sống còn thì việc kiểm soát chi phí và tài chính là công cụ hỗ trợ 
nhà quản trị hướng chiến lược đã đặt ra đi đúng hướng hoặc có điều chỉnh kịp thời khi cần 
thiết. 
Ngoài ra, trong môi trường ổn định nhà quản trị có thể ra các quyết định khá chính 
xác, tuy nhiên trong môi trường hiện nay các diễn biến bất ngờ luôn xảy ra, sự ra đời của 
những DN mới thì sự cạnh tranh càng gay gắt đòi hỏi các nhà quản trị muốn DN đạt hiệu quả 
hoạt động cao, ra quyết định nhanh và chính xác thì nhu cầu cần áp dụng KTQT để kiểm soát 
chi phí và tài chính càng mạnh mẽ. 
5.2 Hàm ý chính sách. 
Các DN sản xuất tại TP.HCM cần áp dụng KTQT một cách mạnh mẽ để kiểm soát chi 
phí và tài chính. Cụ thể, kiểm soát chi phí sản phẩm nằm trong mục tiêu chi phí để DN có thể 
cạnh tranh về giá với các đối thủ, cũng như có những kế hoạch hoặc quyết định tài chính đúng 
đắn và khôn ngoan nhằm đạt được lợi nhuận cao. Để đạt được những mục đích này, các 
doanh nghiệp cần: 
(1) Hệ thống KTQT: cần cung cấp nhiều thông tin phi tài chính về những biến động 
của môi trường bên ngoài và các vấn đề bên trong mà DN phải đối mặt, nâng cao tần số báo 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 82 
cáo cho nhà quản để nhà quản trị ra được những quyết định nhanh chóng, chính xác và hiệu 
quả. 
(2) Chiến lược cạnh tranh: DN phải có chiến lược cạnh tranh tối ưu để tồn tại trong 
thời đại cạnh tranh khốc liệt trên thị trường và sử dụng hệ thống KTQT một cách hiệu quả 
theo đuổi chiến lược và tạo hướng đi đúng hoặc có điều chỉnh kịp thời. 
(3) Cơ cấu: Tùy vào quy mô cũng như điều kiện cụ thể tại DN mà DN phải lựa chọn 
cơ cấu tổ chức hợp lý. Cụ thể, đối với các DN lớn, sự phân quyền lớn cho nhà quản trị cấp 
trung gian ra quyết định trong việc phát triển sản phẩm hay dịch vụ, khoản đầu tư lớn, giá nên 
cao để DN phản ứng kịp với sự biến đổi của môi trường hay nói cách khác là không bỏ lỡ cơ 
hội kinh doanh và phù hợp với sự áp dụng KTQT để kiểm soát chi phí và tài chính. 
5.3. Hướng nghiên cứu tiếp theo 
Nghiên cứu này có cỡ mẫu nhỏ, chỉ 126 DN và cũng trong lĩnh vực TP.HCM nên tính 
đại diện cho tổng thể còn hạn chế. Nghiên cứu này chỉ khảo sát các nhân tố chủ yếu trong và 
ngoài DN, bên cạnh đó còn nhiều nhân tố khác như: Văn hóa DN, công nghệ, phong cách của 
nhà quản trịmà nghiên cứu này chưa khảo sát đến.Đây cũng là những hướng nghiên cứu trong 
tương lai.‡ 
-------------------------- 
Tài liệu tham khảo 
[1]. Abdelkader, M., Luther, R. (2008). The impact of firm characteristics on management accounting practices: A UK-
based empirical analysis, The British Accounting Review,402–27. 
[2]. Baird, K. M., Harrison, G. L., & Reeve, R. C. (2004). Adoption of activity management practices: a note on the extent of 
adoption and the influence of organizational and cultural factors. Management accounting research, 15(4), 383-399. 
[3]. Gordon, L.A., Narayan, V.K. (1984). Management accounting systems, perceived environmental uncertaintyand 
organization structure: an empirical investigation», Accounting, Organization and Society, Vol. 9, No 1, pp.33-47. 
[4]. Govindarajan, V., & Fisher, J. (1990). Strategy, control systems, and resource sharing: Effects on business-unit 
performance. Academy of Management journal, 33(2), 259-285. 
[5]. Gull, A.F., Chla, N.M. (1994). The effects of management accounting system, perceived environmental uncertainty and 
decentralization on managerial uncertainty and decentralization on managerial performance: a test of three-way, 
Accounting organizational and society, Vol 19, No 15,pp413-426. 
[6]. Jones,C.S.(1985). Anempiricalstudyoftheevidencefor contingency theories of management accounting systems in 
conditions of rapid change, Accounting Organizations and Society, Vol. 10, No. 3, pp. 303-328,1985. 
[7]. Mia, L., Clarke, B. (1999). Market competition, management accounting systems and business unit Performance, 
Management Accounting Research, No10, 1-58. 
[8]. Mitchell, F. (2002). Research and practice in management accounting: improving integration and communication.The 
European Accounting Review, 11 (2), 277–289. 
[9]. Wooward, J. (1965). Industrial Organization: Theory and Practice. London: Oxford UniversityPress. 
[10]. Naranjo-Gil, D. (2004). The Role of Sophisticated Accounting System in Strategy Management.The International 
Journal of Digital Accounting Research Vol. 4, N. 8, 2004, pp.125-144. 
[11]. Otley, D. (1980). Extending the boundaries of management accounting research: developing systems for 
performance management.British Accounting Review(2001) 33,243–261. 
[12]. Reid, G., Smith, J. (2000). The impact of contingencies on management accounting system development. 
Management Accounting Research, No 11,427–450. 
[13]. Tijani Amara*, Samira Benelifa (2017). International Journal of Finance and Accounting 2017, 6(2): 46-58. 
-------------------------- 

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_tac_dong_den_viec_ap_dung_ke_toan_quan_tri_nham.pdf