Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ phù hợp của vị trí quy hoạch đối với cán bộ nữ: Nghiên cứu trường hợp tại thành phố Hồ Chí Minh
trí quy hoạch với chuyên ngành đào tạo, nguyện vọng, sở trường của cán bộ nữ ục tiêu nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ phù hợp của vị
(CBN) trong diện quy hoạch tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Thông tin được thu thập
từ 288 CBN trong diện quy hoạch tại 5 quận/huyện và 7 Sở, ban ngành của TP. Kết quả phân
tích nhân tố khám phá và hồi quy bội với các mô hình kiểm soát cho thấy, “Mức độ cập nhật
và hiểu biết về chính sách tạo nguồn quy hoạch” là yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với sự
phù hợp cả về chuyên ngành đào tạo cũng như nguyện vọng, sở trường của CBN. Các yếu tố
có tác động mạnh và tích cực đến mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch là “Năng lực -
Hiểu biết”, “Trình độ học vấn (chuyên môn)” và “Năng lực - Tố chất, đạo đức công vụ” của
CBN. Đặc biệt, mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch chịu tác động tiêu cực bởi yếu tố
“Rào cản trong chính sách quy hoạch”. Qua đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện
công tác quy hoạch, tạo nguồn CBN quản lý, lãnh đạo trên địa bàn TP trong tương lai.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ phù hợp của vị trí quy hoạch đối với cán bộ nữ: Nghiên cứu trường hợp tại thành phố Hồ Chí Minh
1. Giới thiệu Yếu tố con người được các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý công nhận là một trong những yếu tố chính mà qua đó tổ chức có thể đạt được thành công (Porter, M.E., 1990). Lựa chọn nhân sự là quá trình đánh giá ứng viên theo nhiều khía cạnh khác nhau để xác định mức độ phù hợp của họ đối với vị trí dự kiến đảm nhiệm (Pattanayak, B., 2005). Đây là khâu quan trọng trong công tác cán bộ nói chung, quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý (LĐQL) nói riêng nhằm đảm bảo nguồn cán bộ kế cận. Ngày nay, trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, phụ nữ tham gia trong hệ thống chính trị ngày càng tăng và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Tăng cường bình đẳng giới (BĐG) và nâng cao năng lực, vị thế cho phụ nữ là tiêu chuẩn của một xã hội tiến bộ và hiện đại, là một trong 8 mục tiêu của thiên niên kỷ và là một trong những mục tiêu quan trọng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, công tác CBN luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm. Việc ban hành Luật BĐG (2006), Nghị quyết số 11- NQ/TW (2007) của Bộ Chính trị về công tác nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 - 2020 và nhiều nghị quyết quan trọng là những bằng chứng về cam kết chính trị trong việc trao quyền cho phụ nữ. Để thúc đẩy các cơ hội cho phụ nữ phát triển trong lĩnh vực chính trị, TP.HCM đã ban hành các văn bản về công tác CBN, thể hiện sự quyết tâm của thành phố trong việc thực hiện các mục tiêu về BĐG và vì sự phát triển của phụ nữ như Chương trình hành động số 31-CTr/TU của Thành ủy TPHCM ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2008 về thực hiện Nghị 53 Sè 127/2019 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ PHÙ HỢP CỦA VỊ TRÍ QUY HOẠCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ NỮ: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Minh Hòa Trường Đại học Lao động - Xã hội Email: nguyenthiminhhoa1212@yahoo.com Ngày nhận: 22/01/2019 Ngày nhận lại: 06/03/2019 Ngày duyêt đăng: 12/03/2019 M ục tiêu nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ phù hợp của vị trí quy hoạch với chuyên ngành đào tạo, nguyện vọng, sở trường của cán bộ nữ (CBN) trong diện quy hoạch tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Thông tin được thu thập từ 288 CBN trong diện quy hoạch tại 5 quận/huyện và 7 Sở, ban ngành của TP. Kết quả phân tích nhân tố khám phá và hồi quy bội với các mô hình kiểm soát cho thấy, “Mức độ cập nhật và hiểu biết về chính sách tạo nguồn quy hoạch” là yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với sự phù hợp cả về chuyên ngành đào tạo cũng như nguyện vọng, sở trường của CBN. Các yếu tố có tác động mạnh và tích cực đến mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch là “Năng lực - Hiểu biết”, “Trình độ học vấn (chuyên môn)” và “Năng lực - Tố chất, đạo đức công vụ” của CBN. Đặc biệt, mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch chịu tác động tiêu cực bởi yếu tố “Rào cản trong chính sách quy hoạch”. Qua đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quy hoạch, tạo nguồn CBN quản lý, lãnh đạo trên địa bàn TP trong tương lai. Từ khóa: nữ quản lý, lãnh đạo, cán bộ nữ trong diện quy hoạch, TP. Hồ Chí Minh. quyết 11-NQ/TW, Quyết định 4249/QĐ- UBND của UBND TP.HCM ngày 07 tháng 9 năm 2011 về ban hành Chương trình thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐG trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2011 - 2020. Tuy nhiên, ở Việt Nam và TP. HCM vẫn tồn tại khoảng cách giới về quyền lực giữa nam và nữ. Mặc dù tỷ lệ nữ tham gia các cơ quan dân cử ở Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng chiếm chưa tới 30% ở tất cả các cấp: nhiệm kỳ 2016 - 2021, tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện và xã tương ứng là 26,8%, 26,46%, 27,51% và 26,7% (HLHPN Việt Nam, 2016). So với cả nước, TP. HCM có tỷ lệ nữ tham chính vượt trội, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 40%, vượt so với quy định của Trung ương, song tỷ lệ nữ trong các vị trí quản lý cấp trưởng vẫn duy trì ở mức thấp, đại đa số ở vị trí cấp phó. Tính đến tháng 12/2017, chỉ có 13,33% nữ là giám đốc sở, ban, ngành; 16,67% là chủ tịch UBND quận/huyện (Sở Nội vụ TP.HCM, 2018). Như vậy, nữ giới vẫn tiếp tục chiếm tỷ lệ thấp hơn so với nam giới, quyền quyết định ở các cấp vẫn chủ yếu là nam giới. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra những cản trở và thách thức đối với sự thăng tiến của phụ nữ trong khu vực công. Một là, quy định khác nhau về tuổi nghỉ hưu. Khuôn khổ pháp lý thiếu đồng bộ và các chính sách công có sự đối xử khác nhau giữa nam và nữ, tạo ra một môi trường cạnh tranh không bình đẳng giữa nam và nữ, cản trở nữ giới tham chính (Ngân hàng thế giới, 2011; Jean Munro, 2012; UNDP (2012) Đặng Ánh Tuyết, 2016). Hai là, chính sách về tạo nguồn quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm CBN. Báo cáo của Jean Munro (2012), UNDP (2012) cho thấy, có ít quy hoạch cán bộ nhằm tăng tỷ lệ nữ trong các vị trí cao cấp của chính phủ. Ba là, thiếu cam kết của các tổ chức và các nhà lãnh đạo trong thực thi các chính sách về BĐG trong công tác cán bộ. Việt Nam không có quy định cá nhân hoặc tổ chức cụ thể nào chịu trách nhiệm thực hiện các mục tiêu, thiếu các biện pháp khuyến khích và kỷ luật để hỗ trợ thực hiện các chỉ tiêu về đại diện nữ (Jean Munro, 2012; UNDP, 2012). Bốn là, định kiến giới. Điều này được biểu hiện trong việc đánh giá sai lệch về vai trò, năng lực lãnh đạo của nữ giới, khi mà quan điểm vai trò lãnh đạo vốn thường được đảm nhiệm bởi nam giới. Đây được coi là một trong những cản trở hàng đầu đối với sự vươn lên làm lãnh đạo của nữ giới (Astrid S.Tuminez, 2012; Herminia Ibarra, 2013; Nguyễn Thị Thu Hà, 2011; UNDP (2012). Có thể thấy rằng, các nghiên cứu sâu vấn đề rào cản đối với nữ trong diện quy hoạch LĐQL về sự phù hợp với chuyên môn, nguyện vọng và sở trường của họ chưa nhiều. Đặc biệt, hiếm có các nghiên cứu lượng hóa được tác động của các yếu tố về trình độ, năng lực đồng thời với khía cạnh rào cản về chính sách đối với công tác quy hoạch. Như vậy, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ phù hợp của vị trí quy hoạch với chuyên ngành đào tạo, nguyện vọng, sở trường của nữ LĐQL trên địa bàn TP.HCM là rất cần thiết. Thông qua nghiên cứu này các cơ quan hữu quan có thể cân nhắc áp dụng các giải pháp được đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tạo nguồn, quy hoạch CBN LĐQL ở TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung. 2. Cơ sở lý thuyết, giả thuyết và mô hình nghiên cứu 2.1. Khung lý thuyết Các lý thuyết cổ điển theo trường phái hành vi được khởi xướng từ quan điểm quản trị của Mayo, Maslow, Follet, Barnard, McGregor, Likert, Argyris, Herzberg từ thập niên 30 của thế kỷ trước cho tới các lý thuyết quản trị nguồn nhân lực hiện đại Beer và cộng sự, Arthur, Huselid, MacDuffie, Gust, Schular và Jackson, Gomez-Meija và Balkin và những người khác đều nhấn mạnh tính phù hợp với công việc, sự gắn kết của nhân viên với tổ chức (Beer và cộng sự, 1985; Tichy, Fombrun và Devanna, 1982). Lựa chọn nhân sự là một môn khoa học, bắt đầu vào khoảng năm 1900, khi các nguyên tắc và phương pháp của tâm lý học đã được áp dụng cho các quyết định nhân sự ở Sè 127/201954 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học châu Âu và Hoa Kỳ (Salgado, Anderson và Hülsheger, 2010; Vinchur và Koppes Bryan, 2012). Các chủ đề truyền thống bao gồm phân tích công việc, đo lường hiệu quả, các đặc điểm, phẩm chất khác biệt cá nhân, thiết kế nghiên cứu và đánh giá dữ liệu nhằm đưa ra sự lựa chọn chính xác nhân lực phù hợp với nhiệm vụ đảm nhận trong tương lai (Schmitt, N., và Chan, D. (1998). Để phát hiện sớm những người có thể đáp ứng được yêu cầu công việc trong tương lai cần phải dựa trên kết quả đánh giá năng lực, đây là nội dung cốt lõi của công tác nhân sự. Có rất nhiều quan điểm, cách nhìn về năng lực, nhưng đơn giản và cô đọng nhất theo Boyatzis (1982) thì năng lực được coi là “một đặc điểm cơ bản của một người mang lại hiệu suất hoặc hiệu quả cao trong công việc”. Một số nhà khoa học lại nhấn mạnh năng lực phải được thể hiện rõ qua những đặc điểm cụ thể (Cooper, 2000; Parry, 1996; Shippmann và cộng sự, 2000). Tuy nhiên, từ một góc nhìn khác, việc đánh giá thông qua “Năng lực cốt lõi” của nhân viên được Prahalad, C. K. và Hamel, G. (1990) khởi xướng cho phép tổ chức lựa chọn nhân sự nhanh chóng, đơn giản. Cách tiếp cận “một công cụ phù hợp với mọi người” do Mansfield (1996) xây dựng bao gồm một bộ tiêu chuẩn năng lực được xác định cho tất cả nhân viên hoặc nhóm nhân viên (ví dụ: người quản lý). Mô hình được kế thừa dựa trên các mô hình hiện có, từ khảo cứu tài liệu hoặc phát triển từ các cuộc họp với nhân viên. Theo quan điểm quản trị, tổ chức có thể đạt được lợi thế cạnh tranh tốt nhất bằng cách cải tiến chính sách nhân sự và cơ cấu tổ chức; nói cách khác, thông qua việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực (Beer và cộng sự, 1985; Tichy, Fombrun và Devanna, 1982). Trên cơ sở lý thuyết quản trị dựa trên nguồn lực, việc giữ chân các nhân viên giỏi liên quan đến vấn đề sống còn của tổ chức, hơn nữa, không phải là dễ để thu hút được những người có tài (David, G. Collings và Kamel Mellahi, 2009), vì vậy các nhà lãnh đạo luôn tìm cách tăng mức độ hài lòng của nhân viên. Nhiều nhà khoa học cho rằng, chính các vị trí đảm nhiệm của nhân viên trong tổ chức góp phần tạo nên các khát vọng vươn lên của người lao động, đặc biệt đối với nữ. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy, các vị trí đảm nhiệm của nam và nữ nhân viên, chứ không phải là giới tính định hình thái độ làm việc của họ (Cassirer, N, và Reskin, B., 2000). Moyes, Shao và Newsome (2008) đã chỉ ra rằng sự hài lòng của nhân viên được thể hiện thông qua mức độ hài lòng với vị trí mà người đó nắm giữ. Các nhân viên có được sự hài lòng từ công việc khi kết hợp nguyện vọng, sở trường của họ và tạo hiệu quả thực sự với tổ chức (Valentine, S. và Fleischman, G., 2008). Như vậy, có thể thấy rằng, công tác nhân sự vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi phải đảm bảo các khâu từ chuẩn bị tới sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của tổ chức về mặt chuyên môn và phù hợp với nguyện vọng, sở trường của nhân viên. 2.2. Giả thuyết nghiên cứu (1) Trình độ chuyên môn Ngày nay, nhân viên của tổ chức phải đảm bảo về năng lực (với hàm ý rộng), bao gồm trình độ chuyên môn và cả thể lực, để tạo hiệu quả công việc tối đa cho tổ chức. Cho dù các vị trí được lựa chọn có thể chịu tác động từ một số yếu tố như lý lịch tư pháp, chính trị hoặc hoàn cảnh xuất thân, nhưng đó không phải là ưu tiên chính (một cách chủ quan) so với những người khác mà yếu tố năng lực phải là tiêu chí duy nhất được đặt lên hàng đầu để lựa chọn ứng viên (Pinnington, A., Macklin, R., Campbell, T., 2007). Trước tiên, nhân sự được lựa chọn phải là người đáp ứng các đòi hỏi về tiêu chuẩn chuyên môn. Giả thuyết H1a: Trình độ chuyên môn có tác động tích cực đến sự phù hợp với chuyên ngành đào tạo của nữ cán bộ ở vị trí được quy hoạch. Giả thuyết H1b: Trình độ chuyên môn có tác động tích cực đến sự phù hợp với nguyện vọng, sở trường của nữ cán bộ ở vị trí được quy hoạch. (2) Năng lực: bao gồm 3 thành phần chính, cụ thể: 55 Sè 127/2019 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học Hiểu biết Ngày càng có nhiều chuyên gia nhận ra rằng sự thành công của một tổ chức được xác định bởi một loạt kiến thức, hiểu biết liên quan đến sản phẩm/dịch vụ, khuyếch trương, phân phối hoặc quy trình khác với đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh thu được thông qua nguồn nhân lực là mục tiêu của tất cả các tổ chức hiện đại. Tuy nhiên, vai trò của họ chưa được công nhận đúng mức trong hầu hết các tổ chức. Một tập hợp các quy tắc (Cấu trúc VRIN) cần được tôn trọng để đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua nhân viên (Probst, G. và cộng sự, 1998): Tài nguyên phải có giá trị - con người là một nguồn lợi thế cạnh tranh khi họ tham gia vào mục tiêu hiệu quả; Hiếm - có nghĩa là kiến thức, kỹ năng và khả năng phải là duy nhất; Khó bắt chước - có nghĩa là những tài nguyên này không nằm trong số các nhân viên của các đối thủ cạnh tranh khác; và Không thể thay thế được - có nghĩa là nhân sự này sở hữu những kiến thức, kỹ năng độc đáo mà người khác không có. Giả thuyết H2a: Mức độ hiểu biết có tác động tích cực đến sự phù hợp với chuyên ngành đào tạo của nữ cán bộ ở vị trí được quy hoạch. Giả thuyết H2b: Mức độ hiểu biết có tác động tích cực đến sự phù hợp với nguyện vọng, sở trường của nữ cán bộ ở vị trí được quy hoạch. Kỹ năng Năng lực có thể là tự nhiên (cá tính), đạt được (giáo dục, kỹ năng và kinh nghiệm) và thích nghi (kết quả nghề nghiệp, khả năng sử dụng các kỹ năng tự nhiên và kỹ năng đạt được) của ứng cử viên (Roberts, G., 2004). Kỹ năng quản lý dẫn dắt một tổ chức làm cho kỹ năng sản xuất và phát triển trở thành một vectơ chính về hiệu quả và tạo ra giá trị trong tổ chức. Kỹ năng quản lý liên quan đến việc sắp xếp các nguồn lực nội bộ, đó là lợi thế cạnh tranh của tổ chức. Đo lường và đánh giá kỹ năng của ứng cử viên là các hoạt động khó khăn hơn chúng ta tưởng. Năng lực được định nghĩa là “khả năng của cá nhân trong việc huy động nguồn lực đa dạng của mình để có thể đáp ứng các yêu cầu trong những tình huống cụ thể” (Perrenaud, 2000, trích trong Lê Quân, 2016). Có thể nói rằng, công tác chuẩn bị nhằm phát triển nguồn nhân lực bao gồm một tập hợp các hành động mà tổ chức thực hiện để thu hút các ứng cử viên với các kỹ năng cần thiết cho việc tuyển dụng ngay lập tức hoặc trong tương lai đối với vị trí đảm nhiệm (Pinnington A., Macklin R., Campbell T., 2007). Giả thuyết H3a: Kỹ năng có tác động tích cực đến sự phù hợp với chuyên ngành đào tạo của nữ cán bộ ở vị trí được quy hoạch. Giả thuyết H3b: Kỹ năng có tác động tích cực đến sự phù hợp với nguyện vọng, sở trường của nữ cán bộ ở vị trí được quy hoạch. Tố chất, đạo đức công vụ Các tổ chức công tồn tại vì lợi ích công cộng và sử dụng công chức để cung cấp dịch vụ nhằm đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho tất cả mọi người. Theo Boyne (2006), đạo đức đề cập đến chuẩn mực theo đó các hành vi của nhân viên trong các tổ chức công phải tuân theo. Các biểu hiện của hành vi phi đạo đức có thể kể đến quản lý kém công khai, thiếu trung thực và tham nhũng (Gildenhuys, 1991). Bên cạnh tố chất kiểm soát bản thân, nhân viên có đạo đức công vụ được tuyển dụng nhằm đảm bảo rằng một bộ phận hoặc một mục tiêu của tổ chức đạt được thông qua hiệu quả hoạt động của nhiệm vụ. Điều kiện tiên quyết để thành công là hành vi đạo đức và tính chuyên nghiệp, một trong những chức năng của nhân viên (Shafritz và Russel, 2005). Nói khác đi, có rất ít hoặc thậm chí không có hy vọng thành công trong việc cung cấp dịch vụ nếu công chức không chuyên nghiệp và hành vi của họ là phi đạo đức. Giả thuyết H4a: Tố chất, đạo đức công vụ có tác động tích cực đến sự phù hợp với chuyên ... Trung caáp 1 0,3 Cao ñaúng 4 1,4 Ñaïi hoïc 237 82,3 Cao hoïc 46 16,0 Toång soá 288 100.0 Kết quả hồi quy với biến phụ thuộc là “Mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch với chuyên ngành được đào tạo” cho thấy: các cán bộ nữ có “Trình độ học vấn (chuyên môn)”, “Năng lực bản thân_Hiểu biết”, “Mức độ cập nhật hiểu biết về chính sách tạo nguồn” càng cao thì Vị trí được quy hoạch càng phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Đặc biệt, các rào cản về chính sách quy hoạch đối với cán bộ nữ có tác động tiêu cực tới mức độ phù hợp nói trên. Kết quả ước lượng có ý nghĩa thống kê (xem Bảng 3). Như vậy, giả thuyết H1a, H2a, H5a và H6a được ủng hộ. Kết quả hồi quy với biến phụ thuộc là “Mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch với nguyện vọng, sở trường” cho thấy: Các cán bộ nữ có “Năng lực bản thân_Hiểu biết”, “Năng lực bản thân_Tố chất, đạo đức công vụ”, “Mức độ cập nhật hiểu biết về chính sách tạo nguồn” càng cao thì Vị trí được quy hoạch Sè 127/201960 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học Bảng 2: Hệ số tải nhân tố và hệ số tin cậy Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2018 Nhaân toá Caâu hoûi Heä soá taûi Cronbach’ s Anpha Naêng löïc baûn thaân - Hieåu bieát Kieán thöùc chuyeân moân hieän coù .667 .854 Hieåu bieát veà ñòa phöông thuoäc thaåm quyeàn quaûn lyù .688 Hieåu bieát veà cô quan, ñôn vò thuoäc thaåm quyeàn quaûn lyù .762 Hieåu bieát Phaùp luaät lieân quan coâng vieäc .786 Hieåu bieát Chuû tröông ñöôøng loái chính saùch lieân quan ñeán coâng vieäc .717 Naêng löïc baûn thaân - Kyõ naêng Kyõ naêng laõnh ñaïo nhoùm .623 .905 Kyõ naêng xaây döïng vaø phaùt trieån moái quan heä .551 Kyõ naêng vaän ñoäng, taäp hôïp, daãn daét .710 Kyõ naêng ñònh höôùng tuyeân truyeàn .714 Kyõ naêng chæ ñaïo, ñieàu haønh .770 Kyõ naêng toå chöùc, trieån khai coâng vieäc .665 Kyõ naêng uûy quyeàn .757 Kyõ naêng khích leä ñoäng vieân .768 Kyõ naêng kieåm soaùt giaûi quyeát xung ñoät .701 Naêng löïc baûn thaân - Toá chaát, ñaïo ñöùc Quaûn trò baûn thaân .694 .808 Baûn lónh töï chòu traùch nhieäm .810 Coù ñaïo ñöùc coâng vuï .861 Raøo caûn quy hoaïch Raøo caûn Quy ñònh tuoåi quy hoaïch, nghæ höu .836 .911 Raøo caûn quy ñònh cô caáu caùn boä quy hoaïch .897 Quy ñònh thaønh phaàn caùc hoäi nghò phuïc vuï coâng taùc quy hoaïch .907 Quy ñònh thuû tuïc trieån khai coâng taùc quy hoaïch .904 Phuø hôïp chuyeân ngaønh Vò trí quy hoaïch phuø hôïp vôùi chuyeân ngaønh/ngheà ñöôïc ñaøo taïo K K Phuø hôïp nguyeän voïng, sôû tröôøng Vò trí quy hoaïch phuø hôïp vôùi nguyeän voïng, sôû tröôøng baûn thaân K K 61 Sè 127/2019 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học Bảng 3: Kết quả hồi quy với mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch với chuyên ngành đào tạo là biến phụ thuộc Chú thích: a có ý nghĩa thống kê ở mức 90%; * mức 95%; ** mức 99%; *** mức 99,9% Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2018 Bieán ñoäc laäp Moâ hình kieåm soaùt 1 Moâ hình kie åm soaùt 2 Moâ hình ñaày ñuû Tuoåi -.069 -.050 -.043 Caáp laõnh ñaïo (1-Tænh, 2-Huyeän, 3-Xaõ) .052 .045 .027 Trình ñoä hoïc vaán (chuyeân moân) .124 * .098 .103 a Thaân nieân giöõ chöùc danh quaûn lyù/laõnh ñaïo .015 .010 .019 Trình ñoä Anh ngöõ .049 .048 .055 Trình ñoä tin hoïc .023 .013 .016 Naêng löïc baûn thaân_Hieåu bieát .293 *** .247 ** .250 ** Naêng löïc baûn thaân_Kyõ naêng .036 .016 .014 Naêng löïc baûn thaân_Toá chaát, ñaïo ñöùc coâng vuï -.027 -.046 -.038 Möùc ñoä caäp nhaät vaø hieåu bieát veà chính saùch taïo nguoàn quy hoaïch .169 ** .157 * Caùc Raøo caûn taïo nguoàn quy hoaïch CB nöõ -.103 a R2 .123 *** .145 * .155 a Thay ñoåi R2 .022 .010 R2 ñieàu chænh .094 *** .114 * .121 *** Bảng 4: Kết quả hồi quy với Mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch với với nguyện vọng, sở trường là biến phụ thuộc Chú thích: a có ý nghĩa thống kê ở mức 90%; * mức 95%; ** mức 99%; *** mức 99,9% Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát năm 2018 Bieán ñoäc laäp Moâ hình kieåm soaùt 1 Moâ hình kieåm soaùt 2 Moâ hình ñaày ñuû Tuoåi -.127 * -.093 -.086 Caáp laõnh ñaïo (1-Tænh, 2-Huyeän, 3-Xaõ) -.126 -.138 * -.156* Trình ñoä hoïc vaán (chuyeân moân) -.039 -.088 -.083 Thaân nieân giöõ chöùc danh quaûn lyù/laõnh ñaïo .069 .060 .069 Trinh ñoä Anh ngöõ .077 .076 .083 Trình ñoä tin hoïc .044 .025 .028 Naêng löïc baûn thaân_Hieåu bieát .208 ** .123 a .126 a Naêng löïc baûn thaân_Kyõ naêng .027 -.010 -.013 Naêng löïc baûn thaân_Toá chaát, ñaïo ñöùc coâng vuï .167 * .131 * .139 * Möùc ñoä caäp nhaät vaø hieåu bieát veà chính saùch taïo nguoàn quy hoaïch .318 *** .308 *** Caùc Raøo caûn taïo nguoàn quy hoaïch CB nöõ -.101 a R2 .205 *** .241 ** .250 a Thay ñoåi R2 .035 .009 R2 ñieàu chænh .185 *** .213 ** .220 a càng phù hợp với nguyện vọng, sở trường. Tương tự như trên, các rào cản về chính sách quy hoạch đối với cán bộ nữ có tác động tiêu cực tới mức độ phù hợp với nguyện vọng, sở trường của cán bộ. Kết quả ước lượng có ý nghĩa thống kê (xem Bảng 4). Như vậy, giả thuyết H2b, H4b, H5b và H6b được ủng hộ. Đặc biệt, mức độ phù hợp với nguyện vọng, sở trường có mối liên quan chặt chẽ với cấp lãnh đạo (hành chính). Cán bộ cấp hành chính cao hơn có mức độ phù hợp với nguyện vọng, sở trường cao hơn. (Cấp tỉnh phù hợp hơn cấp huyện, cấp huyện phù hợp hơn cấp xã) (hệ số âm và có ý nghĩa thống kê). 5. Bàn luận và hàm ý chính sách 5.1. Bàn luận Vị trí lãnh đạo, quản lý được quy hoạch phù hợp với chuyên ngành đào tạo của cán bộ nhưng không phải lúc nào cũng đồng nhất với việc phù hợp với nguyện vọng, sở trường của bản thân người đó. Đây là hai khía cạnh hoàn toàn khác nhau. Chính vì vậy, các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ phù hợp của vị trí quy hoạch cũng khác nhau. Kết quả quy hoạch sẽ thật sự hoàn hảo nếu như vị trí được quy hoạch vừa phù hợp với chuyên ngành đào tạo lại vừa phù hợp với nguyện vọng, sở trường của cán bộ. Trên thực tế, công tác quy hoạch cán bộ phụ thuộc vào mục tiêu, chiến lược của tổ chức, vì vậy khó có thể cùng một lúc đạt được sự phù hợp ở cả hai khía cạnh này. Việc nhìn nhận đúng vấn đề để phân công đúng người, đúng việc là rất quan trọng. Điều này giúp cho công việc được giải quyết nhanh và đạt hiệu quả cao. Như vậy, công tác quy hoạch đúng nhóm đối tượng, đúng mục đích, yêu cầu là rất cần thiết. Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý là chuẩn bị và tạo nguồn cán bộ làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh LĐQL các cấp trong hệ thống chính trị. Trong khi đó, đối với các cán bộ, công chức có chuyên môn, có tài năng nhưng không có sở trường LĐQL thì cần quy hoạch, bồi dưỡng họ nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trong công tác quy hoạch tại TP.HCM, mức độ cập nhật và hiểu biết về chính sách tạo nguồn quy hoạch của CBN là yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với sự phù hợp cả về chuyên ngành đào tạo cũng như nguyện vọng, sở trường của nữ cán bộ. Yếu tố tác động tích cực và mạnh nhất đến sự phù hợp của vị trí được quy hoạch với chuyên ngành đào tạo là “Hiểu biết” của cán bộ nữ. Tiếp đến là yếu tố “Mức độ cập nhật và hiểu biết về chính sách tạo nguồn quy hoạch” và “Trình độ học vấn (chuyên môn)” quyết định sự phù hợp này. Trong khi đó, vị trí được quy hoạch có sự phù hợp với nguyện vọng, sở trường của cán bộ nữ (tương ứng theo thứ tự mức độ ảnh hưởng) lại do yếu tố “Mức độ cập nhật và hiểu biết về chính sách tạo nguồn quy hoạch”, “Năng lực_Tố chất, đạo đức công vụ” và tiếp đến là “Năng lực_Hiểu biết” tác động. Khả năng, kinh nghiệm của cán bộ cần phải xác định liên quan đến thực tế công việc chứ không phải chỉ dựa trên cơ sở thời gian đảm nhiệm. Năng lực có thể tích lũy, học hỏi thông qua nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trí thông minh, mức độ nhanh nhạy của cá nhân hoặc có môi trường phát triển tốt. Việc yêu cầu cụ thể về thâm niên đối với vị trí được quy hoạch có thể gây bất lợi cho cán bộ, đặc biệt là CBN. Đặc biệt, CBN cấp Tỉnh/TP cho thấy rằng vị trí được quy hoạch của họ phù hợp với nguyện vọng, sở trường hơn so với CBN cấp Quận/Huyện và tương tự, CBN cấp Quận/Huyện cho thấy mức độ phù hợp cao hơn cấp Xã/Phường. Điều này có thể lý giải là do công tác quy hoạch ở tuyến trên đã chú ý hơn không những đối với chuyên ngành được đào tạo mà còn đối với cả nguyện vọng, sở trường của nữ cán bộ. Yếu tố kỹ năng trong cả 2 mô hình đều không có tác động tới mức độ phù hợp của nữ Sè 127/201962 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học cán bộ trong diện quy hoạch, đây là vấn đề cần lưu tâm, nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn. Điều này có thể được lý giải là do yếu tố kỹ năng của CBN sẽ được cấp trên xem xét, cân nhắc kỹ hơn khi bổ nhiệm hoặc đơn giản là nữ cán bộ trong diện quy hoạch chưa có được điều kiện, thời gian, cơ hội để bộc lộ các kỹ năng này. Mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch với chuyên ngành đào tạo, nguyện vọng, sở trường đều chịu tác động tiêu cực bởi Yếu tố rào cản trong chính sách quy hoạch. Rào cản này càng lớn thì vị trí được quy hoạch càng kém phù hợp với chuyên ngành, nguyện vọng và sở trường của CBN trong diện quy hoạch. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi không phải là không có giới hạn. Trên thực tế, trong nghiên cứu này, thông tin dữ liệu mới chỉ được thu thập và phân tích trên địa bàn TP.HCM. Do đó, nghiên cứu trong tương lai có thể tận dụng các lập luận ở đây để so sánh trường hợp tại các địa phương khác hoặc cũng có thể thu thập thêm số liệu tại những tỉnh/thành phố khác trên cả nước. Qua đó, các nghiên cứu sâu hơn có thể giúp cung cấp một câu trả lời chính xác và rõ ràng hơn. 5.2. Hàm ý chính sách Cần phổ biến rộng rãi, công khai, minh bạch kế hoạch triển khai công tác quy hoạch cán bộ LĐQL, từ việc nêu rõ mục đích, yêu cầu, vị trí và các nguyên tắc quy hoạch; đối tượng và phạm vi quy hoạch; tiêu chuẩn cho mỗi chức danh quy hoạch cho đến quy trình và thời gian thực hiện. Không ngừng thúc đẩy đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực và tu dưỡng đạo đức cho cán bộ nói chung và đặc biệt là CBN nói riêng, nhằm đảm bảo đội ngũ cán bộ vừa có phẩm chất vừa có kiến thức. Giảm thiểu dần tiến tới xóa bỏ rào cản về chính sách quy hoạch tạo nguồn đối với CBN, giúp họ có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với nam giới, cụ thể: - Đối với quy định về độ tuổi, nên linh hoạt, không quá khắt khe đối với cán bộ nữ về điều kiện độ tuổi trong quy hoạch, bổ nhiệm cũng như yêu cầu phải đủ thời gian công tác. Nghiên cứu nâng mức quy định tuổi nghỉ hưu của phụ nữ. - Đối với cơ cấu thành phần: nên phân bổ hạn ngạch với tỷ lệ tương đương ở cả 2 giới khi lựa chọn tạo nguồn, quy hoạch. Hơn nữa, cơ cấu thành phần không chỉ đơn thuần thể hiện ở mặt “lượng” (tỷ lệ) mà còn phải đảm bảo ở cả mặt “chất” (quy hoạch vào vị trí cấp trưởng). Cần phân định rõ công tác quy hoạch cán bộ LĐQL và quy hoạch cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ. Cuối cùng, công tác quy hoạch cần phải chú trọng tới mức độ phù hợp với chuyên ngành được đào tạo, nguyện vọng, sở trường của nữ cán bộ không chỉ ở tuyến trên mà cả ở tuyến cơ sở (ở xã/phường cũng như quận/huyện). 6. Kết luận Nghiên cứu này tìm hiểu mối quan hệ giữa các nhân tố trình độ, năng lực và rào cản trong công tác CBN với sự phù hợp của vị trí được quy hoạch tại TP.HCM. Số liệu khảo sát đã phần nào trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Các yếu tố rào cản đối với CBN trong công tác quy hoạch, mặc dù không phải là yếu tố chính, tuy nhiên nó thực sự có tác động tiêu cực tới mức độ phù hợp của vị trí được quy hoạch. Việc lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch vị trí lãnh đạo, quản lý đều chủ yếu dựa trên trình độ và năng lực của cán bộ. Tuy nhiên, đối với CBN, họ phải phấn đấu, hoàn thiện bản thân hơn so với nam giới để đạt được sự tin tưởng của cấp trên cũng như các đồng nghiệp khi được lựa chọn quy hoạch vào những vị trí LĐQL. Vì vậy, so với các đồng nghiệp nam, những rào cản trong công tác quy hoạch CBN sẽ càng thách thức hơn đối với họ. Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng để cung cấp các khuyến nghị cho các nhà hoạch định chính sách trong công tác quy 63 Sè 127/2019 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học hoạch cán bộ LĐQL, đặc biệt đối với CBN. Các nghiên cứu trong tương lai có thể khắc phục những hạn chế của nghiên cứu này để có được kết quả chính xác hơn. Tài liệu tham khảo: 1. Boyatzis, R. E. (1982), The competent manager: A model for effective performance, John Wiley & Sons. 2. Campbell, J.P., Knapp, D.J. (2001), Exploring the limits in personnel selection and classification, US Army Research Institute for the behavioral and social sci- ences, 2001, pp. 3-15. 3. Lê Quân, Tạ Huy Hùng, Mai Hoàng Anh, (2015), Nghiên cứu ứng dụng khung năng lực vào phát triển nhân lực lãnh đạo, quản lý khu vực hành chính công vùng Tây Bắc, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Tập 31, Số 1 (2015), trang 6-18. 4. Lê Quân, (2016), Khung năng lực lãnh đạo, quản lý khu vực hành chính công, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Mansfield, R.S. (2005), Practical Questions in Building Competency Models, Workitect, Inc. 6. Moyes, G.D., Shao, P.L., and Newsome, M. (2008), Comparative Analysis Of Employee Job Satisfaction In The Accounting Profession, Journal of Business & Economics Research (JBER): Vol 6 No 2 (2008), pp. 65 - 82. 7. Naila Kabeer, Trần Thị Vân Anh, Vũ Mạnh Lợi. (2005), Chuẩn bị cho tương lai: các chiến lược ưu tiên nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam, Worlbank and United Nation, Hà Nội. 8. Schmitt, N., & Chan, D. (1998), Personnel selection: a theoretical approach, Thousand Oaks, CA: Sage Publications. Summary The objective of the study is to determine the factors affecting the relevance of prospec- tive female cadres’ planning position with the specialization of training, aspiration and strengths in Ho Chi Minh City (HCMC). Information was collected from 288 staff in planning sources in 5 districts and 7 depart- ments of the city. The results of exploratory factor analysis and multiple regressions with control models have indicated that, "The level of updating and understanding of policy of creating planning sources" is an important factor for the appropriateness between the profession and expectations of female cadres. Factors that have a strong and positive impact on the relevance of the planned position are "Competence - Understanding", "Education level (specialization)" and "Competence - Quality, work ethics”. In particular, the suit- ability of the planned position is negatively affected by the factor "Barriers in planning policies". Thereby, this study aims at propos- ing solutions to complete the planning work, creating sources of management and leader- ship for the city in the future. Sè 127/201964 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học
File đính kèm:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_muc_do_phu_hop_cua_vi_tri_quy_hoach.pdf