Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Bài nghiên cứu này phân tích số liệu của 27 ngân hàng thương mại

cổ phần (NHTMCP) đang hoạt động tại Việt Nam từ năm 2005- 2016

để kiểm định tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm ngân

hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP. Sử dụng phương pháp hồi

quy GMM sai phân với ưu điểm có thể khắc phục hiện tượng nội

sinh, phương sai thay đổi và tự tương quan, bài nghiên cứu phát hiện

thấy rằng các đặc điểm ngân hàng có tác động đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ

nợ xấu của ngân hàng ở năm trước càng cao thì sẽ làm cho tỷ lệ nợ

xấu của ngân hàng hiện tại càng gia tăng. Đồng thời, các ngân hàng

càng có chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng cao, chi phí

hoạt động càng cao, lợi nhuận của ngân hàng càng cao thì sẽ giúp

các ngân hàng giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Kết quả của

nghiên cứu này cũng cho thấy các biến số kinh tế vĩ mô như tốc độ

tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu của

các ngân hàng. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số ý kiến

nhằm cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam

pdf 10 trang yennguyen 4360
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 194- Tháng 7. 2018
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của 
các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Phạm Dương Phương Thảo
Nguyễn Linh Đan
Ngày nhận: 30/03/2018 Ngày nhận bản sửa: 03/05/2018 Ngày duyệt đăng: 22/05/2018
Bài nghiên cứu này phân tích số liệu của 27 ngân hàng thương mại 
cổ phần (NHTMCP) đang hoạt động tại Việt Nam từ năm 2005- 2016 
để kiểm định tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm ngân 
hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP. Sử dụng phương pháp hồi 
quy GMM sai phân với ưu điểm có thể khắc phục hiện tượng nội 
sinh, phương sai thay đổi và tự tương quan, bài nghiên cứu phát hiện 
thấy rằng các đặc điểm ngân hàng có tác động đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ 
nợ xấu của ngân hàng ở năm trước càng cao thì sẽ làm cho tỷ lệ nợ 
xấu của ngân hàng hiện tại càng gia tăng. Đồng thời, các ngân hàng 
càng có chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng cao, chi phí 
hoạt động càng cao, lợi nhuận của ngân hàng càng cao thì sẽ giúp 
các ngân hàng giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Kết quả của 
nghiên cứu này cũng cho thấy các biến số kinh tế vĩ mô như tốc độ 
tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu của 
các ngân hàng. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số ý kiến 
nhằm cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam.
Từ khóa: Nợ xấu, ngân hàng thương mại cổ phần, đặc điểm ngân 
hàng, kinh tế vĩ mô, phương pháp hồi qui GMM
1. Giới thiệu
ệ thống ngân 
hàng đóng 
vai trò quan 
trọng đối với 
sự phát triển 
của nền kinh tế, là cầu nối 
cho vốn được luân chuyển 
từ nơi thừa vốn đến nơi có 
nhu cầu sử dụng. Do đó, sự 
ổn định của ngành ngân hàng 
được xem là yếu tố then chốt 
đối với sự phát triển của nền 
kinh tế. Theo Kwambai và 
Wandera (2013), các NHTM 
đóng vai trò quan trọng ở thị 
trường mới nổi- nơi mà người 
đi vay khó tiếp cận với thị 
trường vốn. Các NHTM chính 
là trung gian tài chính phân 
bổ vốn giữa người gửi tiền 
và người đi vay. Tuy nhiên, 
trong thời gian gần đây, các 
ngân hàng trở nên thận trọng 
hơn trong công tác cho vay do 
vấn đề nợ xấu. Hoạt động cho 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
vay mang đến rủi ro tín dụng 
cho ngân hàng- được xem là 
rủi ro nghiêm trọng nhất khi 
mà các khoản nợ xấu trực tiếp 
làm giảm lợi nhuận của ngân 
hàng và hiệu quả hoạt động 
trong dài hạn. Khi nợ xấu 
gia tăng lên một cách đáng 
kể trong danh mục cho vay 
của ngân hàng thì sẽ gây ra 
các ảnh hưởng nghiêm trọng 
đối với quá trình hoạt động 
kinh doanh của ngân hàng. 
Một mức nợ xấu càng cao cho 
thấy sự tồn tại của các hạn 
chế tài chính và sự ảnh hưởng 
đến hoạt động quản lý ngân 
hàng và cơ quan quản lý. Nợ 
xấu còn ảnh hưởng đáng kể 
đến các chức năng của ngân 
hàng thông qua sự suy yếu 
tài sản ngân hàng và sự suy 
giảm trong thu nhập khi các 
khoản nợ không thu hồi được 
ngày càng lớn. Trong trường 
hợp xấu nhất, một tỷ lệ nợ 
xấu cao trong hệ thống ngân 
hàng có thể cho thấy tồn tại 
rủi ro hệ thống, từ đó có thể 
ảnh hưởng đến lượng tiền gửi 
và hạn chế hoạt động của các 
trung gian tài chính, kết quả 
là sẽ có tác động tiêu cực đến 
sự tăng trưởng đầu tư và kinh 
tế (Ahmed và các cộng sự, 
2006). Chi phí tài chính của 
các khoản nợ xấu cũng rất 
đáng kể. Việc giải quyết các 
khoản nợ xấu thường được 
xử lý bởi các doanh nghiệp 
quản lý tài sản được lập ra 
dưới sự quản lý của nhà nước. 
Nhiệm vụ chính của các doanh 
nghiệp này là tiếp nhận và xử 
lý các khoản nợ xấu của các 
tổ chức tài chính. Hậu quả 
là, nguồn thu ngân sách của 
chính phủ sẽ bị giảm. Theo 
Galindo và Tamayo (2000), 
việc xử lý nợ xấu của các 
ngân hàng sẽ chiếm từ 10% 
đến 20% tổng GDP của quốc 
gia. Vì thế nghiên cứu về nợ 
xấu nhằm giảm thiểu chúng 
là một vấn đề thu hút được 
nhiều sự quan tâm của các nhà 
nghiên cứu lẫn các nhà quản 
trị ngân hàng và các nhà điều 
hành chính sách của quốc gia 
trên thế giới (Boudriga và các 
cộng sự, 2009). 
Trong năm 2016 tại Việt Nam, 
tỷ lệ nợ xấu của hệ thống 
NHTM là dưới 3% tổng dư 
nợ, đã đạt yêu cầu mà Chính 
phủ đặt ra. Tuy nhiên, việc 
xử lý nợ xấu chưa có nhiều 
triển vọng, chỉ giảm nhẹ từ 
2,9% năm 2015 xuống 2,8%. 
Dù tiếp tục giảm nhẹ và một 
lượng lớn nợ được xử lý 
nhưng Ủy ban Giám sát Tài 
chính Quốc gia đánh giá, nợ 
xấu chờ xử lý và nợ xấu tiềm 
ẩn trong tái cơ cấu vẫn lớn. 
Sang năm 2017, nợ xấu lại có 
xu hướng tăng. Xuất phát từ 
thực tiễn về nợ xấu của ngân 
hàng Việt Nam và ảnh hưởng 
của nợ xấu đối với ngành ngân 
hàng, đối với nền kinh tế, 
bài nghiên cứu này phân tích 
tác động của các yếu tố kinh 
tế vĩ mô và đặc điểm ngân 
hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các 
NHTM cổ phần với kỳ vọng 
từ kết quả nghiên cứu, tác giả 
đề xuất một số ý kiến nhằm 
cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các 
ngân hàng Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Yếu tố đặc điểm của 
ngân hàng ảnh hưởng đến 
nợ xấu
2.1.1. Quy mô ngân hàng
Các nghiên cứu trước đây 
cung cấp bằng chứng cho 
thấy, tồn tại mối tương quan 
ngược chiều giữa quy mô 
ngân hàng và nợ xấu của các 
ngân hàng (Salas và Saurina, 
2002; Hu và các cộng sự, 
2004; Cole và các cộng sự, 
2004; Micco và các cộng 
sự, 2007; García-Marco và 
Robles-Fernández, 2008; 
Swamy, 2012). Theo Hu 
và các cộng sự (2004), các 
ngân hàng có quy mô lớn sẽ 
có nhiều nguồn lực và kinh 
nghiệm hơn trong công tác xử 
lý và phân tích các vấn đề sự 
lựa chọn đối nghịch (adverse 
selection) và rủi ro đạo đức 
(moral hazard). Trong khi đó 
các ngân hàng có quy mô nhỏ 
không thể giải quyết tốt vấn 
đề sự lựa chọn đối nghịch do 
thiếu năng lực và kinh nghiệm 
để đánh giá chất lượng tín 
dụng của người đi vay. Do 
vậy, các ngân hàng có quy mô 
nhỏ thường có tỷ lệ nợ xấu 
cao trong danh mục cho vay 
hơn so với các ngân hàng có 
quy mô lớn.
2.1.2. Mức độ sử dụng chi phí 
hoạt động
Trong thực tế, nợ xấu và chi 
phí hoạt động có tương quan 
với nhau nhưng mối quan hệ 
giữa hai biến này vẫn chưa 
rõ ràng. Do đó, ảnh hưởng 
của chi phí hoạt động lên tỷ 
lệ nợ xấu của các ngân hàng 
có thể là cùng chiều hoặc 
ngược chiều. Hughes và 
Moon (1995) tìm thấy rằng 
khi hiệu quả của việc sử 
dụng chi phí thấp thì tỷ lệ nợ 
xấu của các ngân hàng tăng. 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
3Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
Các nhà nghiên cứu tìm thấy 
sự thất bại của các ngân hàng 
dường như có liên quan đến 
vấn đề quản trị của các ngân 
hàng (Berger và Humphery, 
1992; Barr và Siems, 1994; 
DeYoung và Whalen, 1994; 
Wheelock và Wilson, 1994; 
Berger và DeYoung, 1997), 
họ cho rằng, có mối tương 
quan cùng chiều giữa mức 
độ sử dụng chi phí hoạt động 
và nợ xấu; quản trị yếu kém 
thì tốn kém chi phí và nợ xấu 
tăng. Lập luận cơ bản của các 
nhà nghiên cứu này là, khi 
hiệu quả của việc sử dụng chi 
phí là thấp cho thấy khả năng 
quản trị của các nhà quản trị 
ngân hàng yếu kém, do đó có 
thể tác động lớn đến hành vi 
cung cấp tín dụng của ngân 
hàng. Theo đó, các tác giả 
xác định sự quản trị yếu kém 
là do: (1) Yếu kém kỹ năng 
trong việc xếp hạng tín dụng 
và do đó sẽ có thể quyết định 
cho vay các khoản vay không 
sinh lời hoặc thậm chí làm cho 
ngân hàng mất vốn; (2) không 
có trình độ thẩm định tài sản 
đảm bảo của khoản vay đúng; 
(3) khó kiểm soát và theo dõi 
mục đích sử dụng vốn của 
khách hàng sau khi cấp tín 
dụng cho khách hàng. Mặt 
khác, hiệu quả chi phí thấp lại 
có thể tác động ngược chiều 
đến nợ xấu của các ngân hàng. 
Berger và DeYoung (1997) 
cho rằng có sự đánh đổi giữa 
việc phân bổ các nguồn lực 
để theo dõi khoản vay và hiệu 
quả chi phí. Nói cách khác, 
các ngân hàng ít nỗ lực trong 
việc đảm bảo chất lượng 
khoản vay thì dường như sẽ có 
hiệu quả chi phí tốt hơn, tuy 
nhiên, trong dài hạn nợ xấu sẽ 
gia tăng.
2.1.3. Hiệu quả hoạt động
Hiệu quả hoạt động của ngân 
hàng thường có liên quan 
đến hành vi chấp nhận rủi 
ro của các nhà quản trị ngân 
hàng (Hu và các cộng sự, 
2004; Jimenez và Saurina, 
2006; Boudriga và các cộng 
sự, 2009; Nikolaidou và 
Vogiazas, 2011). Theo Hu và 
các cộng sự (2004), các ngân 
hàng càng có lợi nhuận cao 
sẽ ít có động cơ tham gia vào 
các hoạt động rủi ro bởi vì các 
ngân hàng này ít bị áp lực bởi 
việc tạo ra lợi nhuận. Đồng 
thời các ngân hàng có lợi 
nhuận càng cao thì sẽ có cơ 
hội để lựa chọn ra các khách 
hàng có khả năng tài chính 
tốt và rủi ro thấp. Do đó, khi 
lợi nhuận của các ngân hàng 
gia tăng, xác suất mà các nhà 
quản trị ngân hàng tham gia 
vào các dự án đầu tư rủi ro 
sẽ giảm và do đó xác suất mà 
các khoản vay của ngân hàng 
chuyển sang nợ xấu cũng sẽ 
giảm tương ứng. Ngược lại, 
các ngân hàng không có lợi 
nhuận (hoặc hoạt động không 
hiệu quả) thì sẽ tham gia vào 
các hoạt động cho vay có rủi 
ro khi các nhà quản trị bị áp 
lực về việc tạo ra lợi nhuận 
trong ngắn hạn. Khi các nhà 
quản trị tham gia vào các 
hoạt động rủi ro sẽ làm gia 
tăng khả năng các khoản vay 
chuyển sang nợ xấu, và do đó 
sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu 
của các ngân hàng.
2.1.4. Đa dạng hóa thu nhập
Các nhà nghiên cứu trước 
đây đã ủng hộ lý thuyết đa 
dạng hóa danh mục đầu tư có 
thể giúp các ngân hàng giảm 
thiểu rủi ro bởi việc đa dạng 
hóa danh mục sẽ giúp cho các 
ngân hàng có thể bù đắp phần 
tổn thất từ một sản phẩm bởi 
thu nhập của sản phẩm khác 
(Winton, 1999; Templeton 
và Severiens, 1992; Gallo 
và các cộng sự, 1996). Do 
đó, những tổn thất tiềm tàng 
của hoạt động cho vay có thể 
được bù đắp bởi doanh thu 
từ các hoạt động kinh doanh 
phi truyền thống. Mặt khác, 
các nhà nghiên cứu trước đây 
như Maksimovic và Philips 
(2002), DeYoung và Roland 
(2001) và Stiroh (2006) đã 
lập luận rằng đa dạng hóa thu 
nhập không phải là một đảm 
bảo cho mức độ nợ xấu thấp 
ở các ngân hàng. Bởi vì quá 
nhiều hoạt động kinh doanh 
thì sẽ làm cho các ngân hàng 
không thể tập trung vào lĩnh 
vực chuyên môn và do đó 
làm giảm hiệu quả giám sát 
của các khoản vay, kết quả là 
sẽ làm gia tăng khả năng các 
khoản vay chuyển sang nợ 
xấu. Do đó, các ngân hàng nên 
tập trung vào một mảng kinh 
doanh thì sẽ có thể tận dụng 
được kinh nghiệm của nhà 
quản trị trong việc làm giảm 
xác suất xảy ra nợ xấu.
2.2. Các biến số kinh tế vĩ mô 
ảnh hưởng đến nợ xấu
Bên cạnh các yếu tố gây ra 
bởi đặc điểm của ngân hàng, 
các nhà nghiên cứu còn cho 
rằng nợ xấu và khủng hoảng 
ngân hàng xảy ra còn do môi 
trường kinh tế vĩ mô tác động 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
(Festic và cộng sự, 2011; 
Louzisvà cộng sự, 2012; 
Nkusu, 2011) như kinh tế suy 
giảm, thất nghiệp gia tăng, 
lãi suất, lạm phát. Llewellyn 
(2002) còn quan sát thấy rằng 
các rắc rối và rủi ro xảy ra cho 
ngân hàng thường được dẫn 
dắt bởi sự yếu kém về cấu trúc 
của nền kinh tế và hệ thống tài 
chính. 
Vì vậy, kế thừa từ nghiên cứu 
của Chaibi và Ftiti (2015), 
nghiên cứu của chúng tôi sẽ 
kiểm định mức độ tác động 
của các biến số vĩ mô sau đây 
lên nợ xấu của các ngân hàng:
Tăng trưởng kinh tế: Các 
nghiên cứu trước đây như 
Salas và Suarina (2002), 
Jajan và Dhal (2003), Fofack 
(2005), Jimenez và Saurina 
(2005), Pasha và Khemraj 
(2009), Louzis và các cộng sự 
(2012) và Saba và các cộng 
sự (2012) đã cho rằng tồn 
tại mối quan hệ ngược chiều 
giữa tốc độ tăng trưởng kinh 
tế với mức độ nợ xấu của các 
NHTM. Các nghiên cứu giải 
thích cho kết quả này như là 
sự thay đổi trong chu kỳ kinh 
doanh có tác động đến khả 
năng thanh toán lãi vay và nợ 
của người đi vay. Do đó, tốc 
độ tăng trưởng kinh tế sẽ có 
tương quan cùng chiều với 
thu nhập của các cá nhân lẫn 
tổ chức trong nền kinh tế, kết 
quả là sẽ cải thiện khả năng 
thanh toán lãi vay và nợ của 
người đi vay, và do đó sẽ làm 
giảm tỷ lệ nợ xấu của các 
ngân hàng. Ngược lại, khi nền 
kinh tế suy thoái (chẳng hạn 
như tốc độ tăng trưởng kinh 
tế thấp hoặc âm), các hoạt 
động kinh tế nhìn chung sẽ 
suy giảm, lượng tiền mặt được 
nắm giữ bởi các tổ chức kinh 
doanh hoặc các hộ gia đình 
cũng sẽ suy giảm theo. Những 
yếu tố này sẽ làm giảm khả 
năng trả nợ của người đi vay, 
và dẫn đến gia tăng xác suất 
các khoản vay của ngân hàng 
thành các khoản nợ xấu.
Lạm phát: Lạm phát sẽ có ảnh 
hưởng đáng kể đến khả năng 
thanh toán lãi vay và trả nợ 
của các khách hàng vay của 
ngân hàng thông qua nhiều 
kênh khác nhau, và do đó tác 
động của lạm phát đến nợ 
xấu có thể là cùng chiều hoặc 
ngược chiều (Fofack, 2005; 
Pasha và Khemraj, 2009; 
Nkusu, 2011). Các nghiên cứu 
giải thích mối quan hệ này 
như là lạm phát cao có thể 
làm cải thiện năng lực trả nợ 
của các khách hàng bởi việc 
làm giảm giá trị thực của các 
khoản vay khi lãi suất cho 
vay là cố định (các ngân hàng 
không thể điều chỉnh lãi suất 
nhưng lạm phát lại thay đổi 
suất sinh lợi thực của khoản 
vay này). Tuy nhiên, lạm phát 
cũng có thể làm giảm năng lực 
trả nợ của các khách hàng bởi 
việc làm giảm thu nhập thực 
của các khách hàng. Hơn thế 
nữa, khi lãi suất cho vay là thả 
nổi, thì lạm phát sẽ làm giảm 
năng lực trả nợ của khách 
hàng khi các ngân hàng điều 
chỉnh lãi suất cho vay nhằm 
duy trì lãi suất thực áp dụng 
cho các khách hàng, kết quả 
là sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu 
của các ngân hàng. Do đó, 
mối quan hệ giữa lạm phát và 
nợ xấu có thể là cùng chiều 
hoặc ngược chiều.
Tỷ giá hối đoái: Giống như 
lạm phát, sự thay đổi trong 
tỷ giá hối đoái cũng có thể 
ảnh hưởng đến khả năng trả 
nợ của các khách hàng thông 
qua các kênh khác nhau và 
do đó tác động của tỷ giá 
hối đoái đến nợ xấu có thể là 
cùng chiều hoặc ngược chiều 
(Nkusu, 2011). Như đã được 
đề cập bởi Pasha và Khemraj 
(2009), tỷ giá hối đoái bị định 
giá thấp có tác động đáng 
kể đến khả năng trả nợ của 
khách hàng. Một mặt, sự định 
giá thấp này có thể cải thiện 
năng lực cạnh tranh của các 
doanh nghiệp có hoạt động 
xuất khẩu. Bởi khi đó các 
doanh nghiệp này có thể đẩy 
mạnh doanh thu nhờ vào chi 
phí thấp. Do đó, sự định giá 
thấp của tỷ giá hối đoái có 
thể cải thiện năng lực trả nợ 
của các khách hàng có hoạt 
động xuất khẩu. Mặt khác, tỷ 
giá hối đoái bị định giá thấp 
có tác động ngược chiều đến 
khả năng trả nợ của các doanh 
nghiệp có tham gia vào hoạt 
động nhập khẩu.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Đặc điểm mẫu nghiên 
cứu
Trên cơ sở khung lý thuyết 
trên, nghiên cứu thu thập số 
liệu từ các báo cáo tài chính 
(bảng cân đối kế toán, bảng 
kết quả hoạt động kinh doanh 
và thuyết minh báo cáo tài 
chính) của các NHTMCP đang 
hoạt động tại Việt Nam từ 
năm 2005 đến năm 2016. Các 
báo cáo này được tổng hợp 
bởi Hệ thống FiinPro. Mẫu 
nghiên cứu được lựa chọn sau 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
5Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
khi thực hiện (i) loại trừ các 
NHTMCP không công bố đầy 
đủ báo cáo tài chính cũng như 
số liệu về nợ xấu của ngân 
 ... g. Từ đó cho thấy, ngân 
hàng đang có nhiều sự quan 
tâm vào công tác kiểm soát 
các khoản vay sau khi giải 
ngân, từ đó có thể giúp ngân 
hàng nhận diện được các 
khoản vay có vấn đề và có thể 
thương lượng, đàm phán với 
khách hàng nhằm mục đích 
tránh chuyển nhóm nợ. Do đó 
có thể làm giảm tỷ lệ nợ xấu ở 
các ngân hàng này.
Chi phí hoạt động cũng thể 
hiện tác động ngược chiều ở 
mức ý nghĩa 5%. Điều này 
Bảng 3. Kết quả hồi quy ảnh hưởng các yếu tố đến tỷ lệ nợ 
xấu của các NHTMCP Việt Nam
Npl Tên biến Phương trình (1)
Phương trình 
(2)
Npl(-1) tỷ lệ nợ xấu năm trước
0.2709***
(8.27)
0.1853***
(3.27)
Llp tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
-0.9472***
(-2.58)
-0.9787**
(-2.03)
Cost hiệu quả chi phí -0.0378**(-1.93)
-0.0442***
(-2.62)
Lev đòn bẩy của ngân hàng
-0.0458
(-0.71)
0.0368
(0.46)
Nonint thu nhập phi lãi 0.0085(0.89)
Size quy mô của ngân hàng
0.0040
(1.00)
-0.0056
(1.14)
Roe lợi nhuận ngân hàng -0.1472***(-2.87)
-0.1869***
(-2.92)
Inf lạm phát 0.0280(0.72)
0.0478***
(3.64)
Gdpgr tốc độ tăng trưởng kinh tế
-0.5337***
(-4.09)
-0.6452***
(-5.21)
Longint lãi suất dài hạn 0.0445(0.59)
Unemploy tỷ lệ thất nghiệp -0.0028(-0.73)
0.0036
(0.85)
Exrate tỷ giá hối đoái 0.0147(0.72)
0.0694**
(2.21)
AR(1) 0.007 0.027
AR(2) 0.774 0.507
Sargan Test 0.19 0.214
Kiểm định AR(1) và AR(2) và bậc 2 với giả thuyết H
0
: không tồn tại 
hiện tượng tự tương quan. Kiểm định Sargan xem xét tính giá trị của 
các biến công cụ sử dụng trong phương pháp GMM với giả thuyết H
0
: 
các biến công cụ không tương quan với phần dư của mô hình. Giá trị 
thống kê t được trình bày trong dấu ngoặc đơn (). Ngoài ra, *, **, *** 
lần lượt thể hiện mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.
Nguồn: Tác giả tính toán với phần mềm Stata 13
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
8 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
cho thấy rằng các ngân hàng 
càng có chi phí hoạt động 
càng cao (hiệu quả chi phí 
càng thấp) thì sẽ làm giảm 
thiểu được tỷ lệ nợ xấu của 
các ngân hàng. Kết quả này 
có phần trái ngược với bằng 
chứng thực nghiệm được tìm 
thấy bởi Berger và DeYoung 
(1997), Louzis và các cộng 
sự (2012) và Chaibi và Ftiti 
(2015) nhưng kết quả này lại 
phù hợp với sự kỳ vọng của 
giả thuyết hà tiện (skimping 
hypothesis) và phát hiện của 
Nguyễn Tuấn Kiệt và Đình 
Hưng Phú (2016). Có thể giải 
thích rằng có sự đánh đổi 
giữa việc phân bổ các nguồn 
lực để theo dõi khoản vay và 
hiệu quả chi phí. Nói cách 
khác, các ngân hàng ít nỗ 
lực trong việc đảm bảo chất 
lượng khoản vay cao thì sẽ 
tiết kiệm chi phí, tuy nhiên 
trong dài hạn nợ xấu sẽ gia 
tăng. Do đó các ngân hàng có 
đủ nguồn vốn để theo dõi các 
khách hàng vay, đánh giá tài 
sản đảm bảo và giám sát, kiểm 
soát các khách hàng sau khi 
vay thì dường như hiệu quả 
chi phí sẽ giảm trong ngắn 
hạn. Tuy nhiên, so với các 
ngân hàng không đủ vốn để 
đảm bảo chất lượng khoản vay 
tốt thì nợ xấu vẫn thấp hơn.
Lợi nhuận sau thuế trên vốn 
chủ sở hữu cũng cho thấy mối 
quan hệ ngược chiều với tỷ 
lệ nợ xấu của các ngân hàng 
trong mẫu nghiên cứu ở mức 
ý nghĩa 1%. Kết quả này cho 
thấy rằng, khi lợi nhuận của 
các ngân hàng càng được cải 
thiện thì sẽ giúp cho các ngân 
hàng giảm thiểu nợ xấu trong 
danh mục dư nợ cho vay của 
mình. Điều này tương tự với 
phát hiện của Louzis và các 
cộng sự (2012), Chaibi và 
Ftiti (2015). Có thể giải thích 
kết quà này như là các ngân 
hàng càng có lợi nhuận càng 
cao sẽ ít có động cơ tham gia 
vào các hoạt động rủi ro bởi vì 
các ngân hàng này ít bị áp lực 
bởi việc tạo ra lợi nhuận (Hu 
và các cộng sự, 2004). Đồng 
thời các ngân hàng có lợi 
nhuận càng cao thì sẽ có cơ 
hội để lựa chọn ra các khách 
hàng có khả năng tài chính 
tốt và rủi ro thấp. Do đó, khi 
lợi nhuận của các ngân hàng 
gia tăng, xác suất mà các nhà 
quản trị ngân hàng tham gia 
vào các dự án đầu tư rủi ro 
sẽ giảm và do đó xác suất mà 
các khoản vay của ngân hàng 
chuyển sang nợ xấu cũng sẽ 
giảm tương ứng. Ngược lại, 
các ngân hàng không có lợi 
nhuận (hoặc hoạt động không 
hiệu quả) thì sẽ tham gia vào 
các hoạt động cho vay có rủi 
ro khi các nhà quản trị bị áp 
lực về việc tạo ra lợi nhuận 
trong ngắn hạn. Khi các nhà 
quản trị tham gia vào các hoạt 
động rủi ro thì sẽ làm gia tăng 
khả năng mà các khoản vay 
chuyển sang nợ xấu, và do đó 
sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu 
của các ngân hàng.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 
ảnh hưởng ngược chiều đến tỷ 
lệ nợ xấu của các ngân hàng 
trong mẫu nghiên cứu ở mức ý 
nghĩa 1%. Điều này có nghĩa 
là khi nền kinh tế Việt Nam 
tăng trưởng thì sẽ giúp các 
NHTM cổ phần giảm thiểu nợ 
xấu của các ngân hàng trong 
danh mục dư nợ cho vay. Kết 
quả này tương tự với bằng 
chứng thực nghiệm được tìm 
thấy bởi Salas và Suarina 
(2002), Jajan và Dhal (2003), 
Fofack (2005), Jimenez và 
Saurina (2005), Pasha và 
Khemraj (2009), Louzis và 
các cộng sự (2012), Saba và 
các cộng sự (2012) và Chaibi 
và Ftiti (2015). Có thể giải 
thích kết quả này như là sự 
thay đổi trong chu kỳ kinh 
doanh sẽ có tác động đến khả 
năng thanh toán lãi vay và nợ 
của người đi vay. Do đó, tốc 
độ tăng trưởng kinh tế sẽ có 
tương quan cùng chiều với 
thu nhập của các cá nhân lẫn 
tổ chức trong nền kinh tế, kết 
quả là sẽ cải thiện khả năng 
thanh toán lãi vay và nợ của 
người đi vay, và do đó sẽ làm 
giảm tỷ lệ nợ xấu của các 
ngân hàng. Ngược lại, khi 
nền kinh tế suy thoái (chẳng 
hạn như tốc độ tăng trưởng 
kinh tế thấp hoặc âm), các 
hoạt động kinh tế nhìn chung 
sẽ suy giảm, lượng tiền mặt 
được nắm giữ bởi các tổ chức 
kinh doanh hoặc các hộ gia 
đình cũng sẽ suy giảm theo. 
Những yếu tố này sẽ làm giảm 
khả năng trả nợ của người đi 
vay, và dẫn đến gia tăng xác 
suất các khoản vay của ngân 
hàng thành các khoản nợ xấu. 
Trong khi đó, các yếu tố kinh 
tế vĩ mô khác trong bài nghiên 
cứu này lại không đạt ý nghĩa 
thống kê.
5. Kết luận và đề xuất 
Tóm lại, bằng việc phân 
tích số liệu của 27 NHTM 
CP đang hoạt động tại Việt 
Nam giai đoạn 2005- 2016 để 
nghiên cứu tác động của các 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
9Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc 
điểm ngân hàng đến tỷ lệ nợ 
xấu của các NHTMCP, kết 
quả nghiên cứu cho thấy, các 
NHTMCP Việt Nam trong 
mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ 
xấu bình quân không quá cao 
(đạt giá trị trung bình 2,21%) 
và đã có nhiều nỗ lực duy trì 
tỷ lệ nợ xấu nhỏ hơn mức quy 
định của NHNN (dưới 3%). 
Sử dụng phương pháp hồi quy 
GMM sai phân, bài nghiên 
cứu phát hiện thấy rằng, các 
đặc điểm ngân hàng có tác 
động đáng kể đến tỷ lệ nợ 
xấu của các ngân hàng trong 
mẫu nghiên cứu. Cụ thể, tỷ lệ 
nợ xấu của ngân hàng ở năm 
trước càng cao thì sẽ làm cho 
tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng 
hiện tại càng gia tăng. Đồng 
thời, các ngân hàng càng có 
chi phí trích lập dự phòng rủi 
ro tín dụng càng cao, chi phí 
hoạt động càng cao, lợi nhuận 
của ngân hàng càng cao thì sẽ 
giúp các ngân hàng giảm thiểu 
tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. 
Trong khi đó, kết quả của 
chúng tôi chỉ mới xác nhận 
tốc độ tăng trưởng kinh tế ảnh 
hưởng ngược chiều đến tỷ 
lệ nợ xấu của các ngân hàng 
trong mẫu nghiên cứu ở mức 
ý nghĩa 1% (tức là độ tin cậy 
99%). Điều này cho thấy rằng 
khi nền kinh tế Việt Nam tăng 
trưởng thì sẽ giúp các ngân 
hàng giảm tỷ lệ nợ xấu xuống.
Từ kết quả này, chúng tôi 
đưa ra một đề xuất nhằm tối 
thiểu tỷ lệ nợ xấu cho các 
NHTMCP Việt Nam như sau: 
- Mặc dù bối cảnh sau khủng 
hoảng kinh tế thế giới ảnh 
hưởng đến tăng trưởng kinh 
tế của Việt Nam nhưng việc 
duy trì tăng trưởng kinh tế 
bằng các chính sách linh hoạt 
của Chính phủ là rất cần thiết. 
Tăng trưởng kinh tế sẽ giúp 
tạo ra thành quả hoạt động cho 
doanh nghiệp, tạo ra sinh lợi 
cho nhà đầu tư và gia tăng thu 
nhập cá nhân lẫn tổ chức trong 
nền kinh tế, kết quả là sẽ cải 
thiện khả năng thanh toán lãi 
vay và nợ của người đi vay, 
và do đó sẽ làm giảm tỷ lệ nợ 
xấu của các ngân hàng. Ngược 
lại, hệ thống ngân hàng giảm 
tối thiểu được tỷ lệ nợ xấu thì 
sẽ giảm bớt rủi ro trong hoạt 
động; hệ thống hoạt động lành 
mạnh lại là kênh truyền dẫn 
vốn thúc đẩy cho tăng trưởng 
kinh tế.
- Bản thân các NHTM phải 
chú ý cải thiện các tác nhân 
xuất phát từ đặc điểm hoạt 
động của chính mình thì mới 
Tài liệu tham khảo
1. Ahmad, F., & Bashir, T. (2013). Explanatory power of bank specific variables as determinants of non-performing loans: 
Evidence form Pakistan banking sector. World Applied Sciences Journal, 22(9), 1220-1231.
2. Ahmed, A. S., Kilic, E., & Lobo, G. J. (2006). Does recognition versus disclosure matter? Evidence from value-relevance of 
banks’ recognized and disclosed derivative financial instruments. The Accounting Review, 81(3), 567-588.
3. Berger, A. N., & DeYoung, R. (1997). Problem loans and cost efficiency in commercial banks. Journal of Banking & Finance, 
21(6), 849-870.
4. Berger, A. N., & Humphrey, D. B. (1992). Measurement and efficiency issues in commercial banking. In Output measurement in 
the service sectors (pp. 245-300). University of Chicago Press.
5. Boudriga, A., Taktak, N. B., &Jellouli, S. (2009). Bank specific, business and institutional environment determinants of nonperforming 
loans: Evidence from MENA countries. Paper for ERF сonference on «Shocks, Vulnerability and Therapy», Cairo, Egypt.
6. Chaibi, H., &Ftiti, Z. (2015). Credit risk determinants: Evidence from a cross-country study. Research in international business 
and finance, 33, 1-16.
7. DeYoung, R., & Roland, K. P. (2001). Product mix and earnings volatility at commercial banks: Evidence from a degree of total 
có thể cải thiện tỷ lệ nợ xấu 
và không cho tỷ lệ này gia 
tăng trong tương lai. Đó chính 
là phải tăng cường phòng 
ngừa rủi ro tín dụng, không 
chỉ bằng cách tăng số tiền vật 
chất (tăng trích lập dự phòng 
rủi ro tín dụng) mà còn phải 
nâng cao ý thức thận trọng 
đối với các khoản cho vay các 
khách hàng, thực sự quan tâm 
vào công tác kiểm soát các 
khoản vay sau khi giải ngân 
một cách thiết thực như rà 
soát và cải tiến các quy trình 
giám sát chéo trong nội bộ 
ngân hàng đối với các khoản 
cho vay, từ đó có thể giúp 
ngân hàng nhận diện được các 
khoản vay có vấn đề và có thể 
thương lượng, đàm phán với 
khách hàng nhằm mục đích 
tránh chuyển nhóm nợ, tránh 
những hoạt động sai trái trục 
lợi cho chính cán bộ nhân viên 
cho vay của ngân hàng gây 
ra. Thậm chí quy trình giám 
sát này ngày càng phải nâng 
cao thành giám sát chéo các 
lãnh đạo cấp cao của từng chi 
nhánh, từng bộ phận như Tín 
dụng, Ngân quỹ, Có như 
vậy mới giảm thiểu được vấn 
đề nợ xấu của ngân hàng. ■
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
leverage model. Journal of Financial Intermediation, 10(1), 54-84.
8. Fofack, H. (2005). Nonperforming loans in Sub-Saharan Africa: causal analysis and macroeconomic implications.
9. Galindo, J., & Tamayo, P. (2000). Credit risk assessment using statistical and machine learning: basic methodology and risk 
modeling applications. Computational Economics, 15(1-2), 107-143.
10. Gallo, J. G., Apilado, V. P., &Kolari, J. W. (1996). Commercial bank mutual fund activities: Implications for bank risk and 
profitability. Journal of Banking & Finance, 20(10), 1775-1791.
11. García-Marco, T., &Robles-Fernández, M. D. (2008). Risk-taking behaviour and ownership in the banking industry: The 
Spanish evidence. Journal of Economics and Business, 60(4), 332-354.
12. HU, J. L., Li, Y., & CHIU, Y. H. (2004). Ownership and nonperforming loans: Evidence from Taiwan’s banks. The Developing 
Economies, 42(3), 405-420.
13. Klein, N. (2013). Non-performing loans in CESEE: Determinants and impact on macroeconomic performance (No. 13-72). 
International Monetary Fund.
14. Kwambai, K. D., &Wandera, M. (2013). Effects of credit information sharing on nonperforming loans: the case of Kenya 
commercial bank Kenya. European Scientific Journal, ESJ, 9(13).
15. Louzis, D. P., Vouldis, A. T., &Metaxas, V. L. (2012). Macroeconomic and bank-specific determinants of non-performing loans in 
Greece: A comparative study of mortgage, business and consumer loan portfolios. Journal of Banking & Finance, 36(4), 1012-1027.
16. Messai, A. S., &Jouini, F. (2013). Micro and macro determinants of non-performing loans. International journal of economics 
and financial issues, 3(4), 852.
17. Micco, A., Panizza, U., & Yanez, M. (2007). Bank ownership and performance. Does politics matter?.Journal of Banking & 
Finance, 31(1), 219-241.
18. Nikolaidou, E., &Vogiazas, S. D. (2014). Credit risk determinants for the Bulgarian banking system. International Advances in 
Economic Research, 20(1), 87-102.
19. Nkusu, M. M. (2011). Nonperforming loans and macrofinancial vulnerabilities in advanced economies (No. 11-161). 
International Monetary Fund.
20. Saba, I., Kouser, R., &Azeem, M. (2012). Determinants of Non Performing Loans: Case of US Banking Sector. The Romanian 
Economic Journal, 44(6), 125-136.
21. Salas, V., &Saurina, J. (2002). Credit risk in two institutional regimes: Spanish commercial and savings banks. Journal of 
Financial Services Research, 22(3), 203-224.
22. Swamy, V. (2012). Impact of macroeconomic and endogenous factors on non performing bank assets.
23. Wheelock, D. C., & Wilson, P. W. (1994). Can deposit insurance increase the risk of bank failure? Some historical evidence. 
Federal Reserve Bank of St. Louis Review, (May), 57-71.
Thông tin tác giả
Phạm Dương Phương Thảo, Thạc sỹ
Khoa Tài chính, Đại học Kinh tế Tp.HCM
Email: pdpthao@ueh.edu.vn
Nguyễn Linh Đan
Khoa Tài chính, Đại học Kinh tế Tp.HCM
Email: nguyenlinhdan06121996@gmail.com
Summary
Determinants of non-performing loans at Vietnamese joint-stock commercial banks
This study analyzes data of 27 joint-stock commercial banks operating in Vietnam from 2005-2016 to examine 
the effects of macro-economic factors and bank-specific features on their rates of non-performing loans. Using 
difference-GMM method of regression to overcome the endogeneity, heteroskedasticity, and autocorrelation, 
the research results find that bank-specific variables have significantly effects. Specifically, high non-performing 
loans rates of previous year lead to higher rates in the current year. Banks with higher rates of loan-loss provision, 
higher operation-cost, higher profits will reduce bad debt ratio. The results of this study also indicate that macro-
economic factors such as GDP growth have positive effects on non-performing rates of commercial banks. From 
the research results, the authors suggest recommendations to improve credit risks and non-performing loans for 
Vietnamese joint-stock commercial banks.
Keywords: non-performing loans, joint-stock commercial banks, bank-specific, difference-GMM method of 
regression. 
Thao Duong Phuong Pham, M.Ec.
Dan Linh Nguyen
Organization of all: School of Finance, University of Economics Ho Chi Minh City

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_ty_le_no_xau_cua_cac_ngan_hang_thuo.pdf