Câu điều kiện tiếng Việt và cái cho sẵn

Bên cạnh sự phân đoạn câu về mặt ngữ pháp, thường được miêu tả bằng lý thuyết thành

phần câu, mấy chục năm gần đây các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến sự phân đoạn câu

theo quan điểm thông tin thực tại hay quan điểm thông báo. Trong Việt ngữ học, cũng đã

có một số tác giả đã áp dụng cách lưỡng phân cũ – mới để xem xét khả năng phân đoạn

thực tại của cấu trúc câu tiếng Việt, nhưng nhìn chung việc nghiên cứu cấu trúc thông báo

của từng kiểu loại phát ngôn cụ thể vẫn còn sơ lược.

Riêng câu điều kiện, trên thế giới đã có nhiều công trình đề cập dưới góc độ cấu trúc

thông báo như các công trình của John Haiman, Eun Ju Noh, Sweetser, Akatsuka v.v. Ở

các công trình này, các tác giả tập trung nghiên cứu M1 (mệnh đề hay tiểu cú đứng trước)

với tư cách là cái cho sẵn trong câu điều kiện.

Bài viết này vận dụng khái niệm “cái cho sẵn” để phân tích và chỉ ra các biểu hiện cụ thể

của M1 “cho sẵn” vốn cũng rất phổ biến trong các phát ngôn điều kiện tiếng Việt.

pdf 9 trang yennguyen 4800
Bạn đang xem tài liệu "Câu điều kiện tiếng Việt và cái cho sẵn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Câu điều kiện tiếng Việt và cái cho sẵn

Câu điều kiện tiếng Việt và cái cho sẵn
 1 
CÂU ĐIỀU KIỆN TIẾNG VIỆT 
VÀ CÁI CHO SẴN1 
 Lê Thị Minh Hằng 
 Bên cạnh sự phân đoạn câu về mặt ngữ pháp, thường được miêu tả bằng lý thuyết thành 
phần câu, mấy chục năm gần đây các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến sự phân đoạn câu 
theo quan điểm thông tin thực tại hay quan điểm thông báo. Trong Việt ngữ học, cũng đã 
có một số tác giả đã áp dụng cách lưỡng phân cũ – mới để xem xét khả năng phân đoạn 
thực tại của cấu trúc câu tiếng Việt, nhưng nhìn chung việc nghiên cứu cấu trúc thông báo 
của từng kiểu loại phát ngôn cụ thể vẫn còn sơ lược. 
 Riêng câu điều kiện, trên thế giới đã có nhiều công trình đề cập dưới góc độ cấu trúc 
thông báo như các công trình của John Haiman, Eun Ju Noh, Sweetser, Akatsuka v.v.. Ở 
các công trình này, các tác giả tập trung nghiên cứu M1 (mệnh đề hay tiểu cú đứng trước) 
với tư cách là cái cho sẵn trong câu điều kiện. 
 Bài viết này vận dụng khái niệm “cái cho sẵn” để phân tích và chỉ ra các biểu hiện cụ thể 
của M1 “cho sẵn” vốn cũng rất phổ biến trong các phát ngôn điều kiện tiếng Việt. 
 1. Thế nào là cái cho sẵn? 
Cái cho sẵn (givenness) là một thuật ngữ được các nhà ngữ học sử dụng khi phân tích 
câu dưới góc độ thông báo (thường được gọi là phân tích câu theo quan điểm phân đoạn 
thực tại hay quan điểm thông báo). Theo V. Mathesius và nhiều nhà ngữ học khác của 
trường Praha, nếu xét câu trong mối quan hệ với thông tin (cái mà người nói định truyền 
đạt và người nghe muốn tiếp nhận), cấu trúc câu được chia thành hai phần là đề (theme, 
topic) và thuyết (rheme, comment) trong đó đề biểu thị thông tin cũ hay cái cho sẵn, còn 
thuyết biểu thị thông tin mới hay cái mới. Hay nói rõ hơn cái cho sẵn là phần thông tin mà 
cả người nói lẫn người nghe đều biết, đối lập với cái mới là phần thông tin người nói có chủ 
ý muốn truyền đạt, phần thông tin này người nghe chưa biết hoặc hiểu biết của người nói 
lẫn người nghe không có sự thống nhất. Việc phân biệt cái cho sẵn và cái mới rất quan 
trọng trong việc hiểu phát ngôn. Nó nói lên rằng sự hợp tác giữa người nói và người nghe 
đóng vai trò chủ yếu trong quá trình truyền đạt thông tin. 
 Cái cho sẵn thường có tính chủ quan, phụ thuộc vào nhận định của người đưa ra phát 
ngôn. Người nói sẽ căn cứ vào vào tình huống cuộc thoại để đoán định rằng sự việc đó 
đang có mặt trong ý thức của người nghe lúc mình sắp nói hay không. 
 Xét ví dụ sau: 
(1) Bức tranh này đẹp quá! 
Nếu câu này được phát ra trong tình huống cả người nói lẫn người nghe đều nhìn thấy 
bức tranh thì cái ý niệm về bức tranh đã có mặt trong ý thức của cả hai người vào thời điểm 
phát ngôn. Bức tranh này vì vậy được xem là cái cho sẵn. Thông tin được người nói “bổ 
sung” đẹp quá được gọi là cái mới. 
Theo Prince [12, 231], có thể chia cái cho sẵn làm hai loại: 
(i) Cái cho sẵn là cái mà ngữ cảnh cung cấp (contextually given) hiện diện trong ý thức 
của người nghe như là một kết quả hiện có trong diễn ngôn (discourse) hay “môi trường” 
(environment). 
1
 Bài đã đăng ở tạp chí Ngôn ngữ, số 7/2013, H. 
 2 
(ii) Cái cho sẵn là kiến thức chia sẻ (shared knowledge) là cái mà người nói cho rằng 
người nghe “biết”, cho rằng người nghe có thể suy ra một điều cụ thể mà không nhất thiết 
phải nghĩ về nó. 
 Ngoài định nghĩa về cái cho sẵn của Prince như trên còn có những định nghĩa tương tự 
về cái cho sẵn của Chafe, Kuno, Halliday, v.v.. 
Theo Chafe [3, 32], một danh ngữ được gọi là cái cho sẵn nếu sở chỉ của chúng được 
đưa ra một cách hiển ngôn, chính xác trong diễn ngôn hoặc trong ngữ cảnh vật chất 
(physical context), hoặc có thể được phạm trù hóa theo cách như là sở chỉ có mặt trước đó 
hoặc sự hiện diện vật chất. 
Còn Kuno thì cho rằng một danh ngữ được gọi là cái cho sẵn nếu sở chỉ của nó được đề 
cập trong diễn ngôn trước đó hoặc là cái đang thường trú (the permanent registry) [10, 
270]. Thuật ngữ “thường trú” này tương đương với cái gọi là “sự thừa nhận của người nghe 
trong sự chia sẻ kiến thức” của Prince [12, 231]. 
 Khi bàn về cái cho sẵn thường người ta chỉ nói đến “given NP” (danh ngữ cho sẵn) 
nhưng thật ra một đơn vị thông tin không hề tương ứng chính xác với một đơn vị nào trong 
ngữ pháp cú. Hay nói theo Halliday, một đơn vị thông tin được thiết lập như một thành tố 
có tư cách riêng của nó. Đơn vị thông tin là cái mà nó hàm chỉ: một đơn vị thông tin. Trong 
nét nghĩa kỹ thuật này, thông tin là độ căng (tension) giữa cái đã được biết hay có thể dự 
đoán được và cái chưa được biết (mới) và không thể dự đoán được. Nó là sự tác động lẫn 
nhau giữa cũ và mới để tạo thông tin theo nghĩa ngôn ngữ học [9, 472]. 
Trong các công trình nghiên cứu câu điều kiện dưới góc độ thông báo, các nhà nghiên 
cứu xem cái cho sẵn trong câu điều kiện là cả các (tiểu) cú hay mệnh đề (clause). Haiman 
đã dùng thuật ngữ “given clause” [8, 568-589], còn Eun Ju Noh thì dùng “given 
antecedent” [6] để chỉ các cú điều kiện cho sẵn. 
 Trong “From Etymology to Pragmatics”, Sweetser xác định rõ phạm vi những câu điều 
kiện có M1 “cho sẵn” là những câu điều kiện nhận thức hoặc câu điều kiện hành động ngôn 
từ.(1) Bà cho rằng câu điều kiện “cho sẵn” (given conditional) là loại câu điều kiện được 
dùng rất phổ biến, nó biểu hiện cách suy luận từ một niềm tin đã được chia sẻ giữa người 
nói và người nghe đến một niềm tin khác, chưa được chia sẻ: 
(2) a. Ồ (nếu như anh nói) nó đã ăn lasagne buổi trưa, nó sẽ không thích món spaghetty cho buổi tối đâu. 
b. Nếu (như họ nói) họ đang tìm một căn hộ thì họ dự định làm đám cưới lâu rồi. 
c. Nếu anh thông minh (như anh nghĩ), Charlemagne đăng quang ngày nào? 
Sweetser cho rằng các M1 nó đã ăn lasagne buổi trưa, họ đang tìm một căn hộ, anh thông 
minh đều là M1 cho sẵn. Ở (a) và (b), thông tin ở M1 là thông tin mà người nói nhận được 
từ người đối thoại hoặc một người thứ ba, còn ở (c) nó là cái mà người nói nắm bắt được từ 
thái độ của người nghe. 
2. Cái cho sẵn trong câu điều kiện tiếng Việt 
Nhìn chung, trong một phát ngôn thông thường, người nói thường có xu hướng chọn cái 
cho sẵn làm xuất phát điểm cho nhận định và đặt phần có giá trị thông báo thực sự (cái 
mới) ra sau. Điều này cũng đúng với (nhiều) câu điều kiện: trật tự cái cho sẵn – cái mới của 
cấu trúc thông báo cũng trùng với trật tự thông thường điều kiện – kết quả của cấu trúc điều 
kiện nói chung. Vì vậy khi xét M1 cho sẵn chúng tôi chủ yếu chỉ xét những M1 ở vị trí đầu 
câu. 
2.1. Cái cho sẵn bởi ngữ cảnh 
Có thể phân chia cái cho sẵn bởi ngữ cảnh thành hai loại: cái cho sẵn bởi ngữ cảnh ngôn 
từ và cái cho sẵn bởi ngữ cảnh phi ngôn từ. 
2.1.1. Cái cho sẵn trong ngữ cảnh ngôn từ 
 3 
a) M1 cho sẵn do lặp lại phát ngôn trước 
M1 được xem là cái cho sẵn do việc người nói dẫn lại phát ngôn trước là cái cho sẵn dễ 
nhận diện nhất. Ta thường gặp các tiểu cú điều kiện có đặc điểm như thế trong hội thoại 
hằng ngày. 
(3) A: Làm ơn cho tôi gặp cô Lan. 
 B: Cô ấy đang ngủ. Để tôi vào đánh thức cô ấy. 
 A: Thôi, đừng. Nếu cô ấy đang ngủ thì hôm khác tôi sẽ ghé. 
M1 là cái cho sẵn bởi ngữ cảnh ngôn từ được hình thành theo một quá trình sau: người 
tham thoại (người nói) đưa ra một thông báo, sau đó người tham thoại thứ hai (người nghe) 
dùng chính thông báo đó làm điều kiện cho nhận định chủ quan của mình ở M2. 
(4) A: Tôi nghe cô ấy gọi mẹ mình là mệ chứ không phải là mẹ. 
 B: Nếu cô ấy gọi mẹ mình là mệ thì cô ấy là người Huế. 
Đối với các M1 cho sẵn do dẫn lại phát ngôn của người đối thoại, tính cho sẵn có thể 
được hiển ngôn bằng các ngữ đoạn bổ sung như như anh nói, theo lời anh, quả là 
(5) a. Nếu như cô nói cô ấy đang ngủ thì hôm khác tôi sẽ ghé. 
b. Nếu quả là cậu cần đến thế thì đi theo tôi, tôi có thể giúp cậu. 
Cũng có khi giữa M1 (cái lặp) và phát ngôn đi liền trước nó (cái được lặp) có các phát 
ngôn khác chêm xen, khi đó M1 vẫn là cái cho sẵn, vì khi người nói lặp lại phát ngôn được 
người nghe đưa ra trước đó thì thông tin ấy hẳn không phải là mới đối với người nghe: 
người nói xử lý nó như là một thông tin cũ vì tin rằng điều này vẫn còn lưu giữ trong trí 
nhớ của người nghe. 
(6) Vợ: Em muốn đi thăm một người bạn ốm một chút. 
Chồng: Anh cùng đi với em có được không? 
 Vợ: Em muốn đi một mình. 
 Chồng: Thế thì anh sẽ chở em đến đó rồi hẹn giờ anh đến đón. 
 Vợ: Không cần thế đâu. Em tự đi được. 
 Chồng: Nếu em muốn đi một mình thì thôi vậy (NTNT, BCTH,53) 
Cũng có khi M1 không dẫn lại phát ngôn của người đối thoại mà dẫn lại phát ngôn của 
người thứ ba nào đó: 
(7) Nghe nhiều người nói ông ta là một bậc chân tu. Nếu đúng ông ta là một bậc chân tu thì chuyện đời 
không liên can gì đến ông. 
M1 cho sẵn thường là lời dẫn có cải biên ít nhiều, ít khi lặp lại 100% phát ngôn trước. 
Có nhiều lời dẫn được biên soạn lại theo góc nhìn của người nói, trước hết là các yếu tố quy 
chiếu trực chỉ (khả năng lập hoàn toàn như vừa trình bày thường chỉ thích hợp ở những 
phát ngôn ngắn). Tất nhiên việc biên soạn của người nói không làm sai lệch nội dung mệnh 
đề của phát ngôn trước và vì vậy đó vẫn là cái cho sẵn. Ở ví dụ sau đây, người nói thêm vào 
các yếu tố tình thái: 
(8) Chồng: Nhiều chuyện báo không nói. 
Vợ : Báo đã không nói thì biết làm gì cho rách việc. (NTNT,BCTH,30) 
(9) Vợ: Tôi mập như thế này ông có chê tôi không? 
Chồng: Nếu tự dưng bà mập ú lên thế này thì tôi chán thật. (NTNT,BCTH, 8) 
Ngoài việc thêm bớt một vài yếu tố từ vựng, lời dẫn (M1 cho sẵn) cũng thường là các 
hình thức đẳng nghĩa (paraphrase) của phát ngôn gốc chứ không lặp lại nguyên văn cái mà 
nó quy chiếu. (Có lẽ cách dẫn có sự “biên soạn lại” để tạo M1 cho sẵn này phổ biến hơn là 
cách lặp nguyên văn, vì tự nhiên hơn). 
Trong ví dụ dưới đây, ở M1 cho sẵn đánh nó diễn dịch từ cho nó vài cái tát. 
(10) – Còn thằng Sài phải cho nó vài cái tát. 
– Vâng. 
 4 
– Nhưng có đánh nó thì cũng phải cho kín kẻo người ta lại bảo cán bộ không gương mẫu. (LL, 12). 
Ngữ cảnh ngôn từ cung cấp cái cho sẵn cho M1 không chỉ là khẩu ngữ mà còn có thể là 
các dấu hiệu hình ảnh, chữ viết, chẳng hạn những câu trích dẫn từ một bài báo hoặc từ các 
bảng yết thị, thông báo. 
A đọc bảng thông báo ở sân bay: “Tất cả các chuyến bay chiều nay sẽ bị hoãn lại đến sáng ngày mai”; A 
nói với người đứng cạnh – cũng đang đọc thông báo: 
(11) Nếu tất cả chuyến bay đều bị hoãn lại thì chắc chắn là do thời tiết. 
 Trong thí dụ trên, ngữ cảnh ngôn từ chính là câu thông báo mà cả hai người nói và người 
nghe được cung cấp từ bảng thông báo. 
b) M1 cho sẵn do sự liên tưởng tạo ra từ phát ngôn trước 
M1 cho sẵn hình thành do quá trình suy ý hoặc do những liên tưởng gợi ra từ các yếu tố 
đã được đề cập trong phát ngôn trước đó: 
(12) a. Đằng nào cũng phải tìm cách cho thằng Sài thoát ly. Nếu được đi bộ đội người ta rèn cho thì yên 
tâm hơn. (LL, 74) 
b. Chết cái mình không có vốn kia. Giá có dăm ba trăm thì buôn bán xì xằng, chẳng gì cũng kiếm 
được đủ chi các món lặt vặt hằng ngày vậy. (LK, 179) 
Trong khi nghiên cứu cái cho sẵn trong câu điều kiện tiếng Anh, D. Schiffrin cho rằng 
cái cho sẵn có thể từ sự suy ý do các phát ngôn đi trước gợi lên, bà đã đưa ra dẫn chứng 
sau: 
(13) Trước chiến tranh hầu hết các phụ nữ đều ở nhà. Khi những đứa con đi học về thì bà mẹ đã chờ 
chúng sẵn ở cửa. Nhưng đến khi đất nước có chiến tranh, người phụ nữ phải đi làm và khi cha mẹ 
đi làm thì những đứa con chạy chơi quanh đó. 
(a) Nếu bạn có đứa con 15, 16 tuổi mà mẹ của nó đi làm và (b) nếu chúng có bạn trai chúng đi chơi 
với nhau và chúng sẽ sinh ra những đứa con từ khi còn rất trẻ. [5,181]. 
Schiffrin lập luận rằng mặc dù sự thể trong (a) nếu bạn có đứa con 15, 16 tuổi được biểu 
thị theo cách dẫn nhập thông tin mới (không có sự lặp lại đúng câu chữ của phát ngôn 
trước) nhưng chúng ta có thể suy ra từ những đứa con ở phát ngôn trước đó, bởi vì người 
nói đang nói về chúng. Câu (b) nó có bạn trai có thể suy ra từ những đứa con chạy chơi 
quanh đó của phát ngôn trước. Bà cho rằng tất cả thông tin trong cả hai M1 (a) và (b) đều là 
cái cho sẵn bởi vì nó có thể suy ra từ ngữ cảnh ngôn từ trước đó. 
Cũng có trường hợp phát ngôn đi trước được thay thế hoàn toàn bằng các từ hay ngữ 
đoạn hồi chỉ vậy, thế, như vậy, như thế ở M1. Đây rõ ràng là bằng chứng hiển nhiên của cái 
cho sẵn của M1 vì tính cho sẵn này có thể được trực tiếp nhận biết mà không cần phải suy ý 
hay truy nguyên ngữ huống. 
(14) a. ...trong bụng người ta toàn cứt. Mẹ tao bảo thế. Nếu thế thì kinh quá nhỉ (NHT, 7) 
b. Báo cáo anh nếu nghĩ như vậy, với hàm thiếu úy, tôi không thể dạy cho anh Mạnh và anh được 
nữa. (LL, 101) 
Ngoài ra, ngữ đoạn nếu không đặt ở đầu M1 cũng là dấu hiệu sáng rõ cho cái cho sẵn vì 
(giống như các chỉ tố thế, vậy) sở chỉ của nó chắc chắn đã được cung cấp ở ngữ cảnh trước 
đó. Một số phân tích về if not của tiếng Anh cũng thể hiện tương tự, thậm chí nhiều người 
cho if not là mệnh đề tiêu biểu cho cái cho sẵn vì cái tỉnh lược trong mệnh đề này chắc chắn 
đã được cung cấp trong ngữ cảnh trước đó; về mặt ngữ pháp có thể xem ở đây có đại từ hồi 
chỉ  (zero). 
(15) Cũng may tôi về để đi Hà Nội ngày mai, nếu không  anh chẳng tìm được tôi ở chỗ nào (LL, 364) 
Chúng ta cũng nên lưu ý rằng không phải lời dẫn đúng câu chữ nào cũng là cái cho sẵn 
mà còn tùy vào nội dung mệnh đề: 
(16) A: Chị có vẻ lạnh. Chị dùng cái khăn choàng của tôi nhé? 
B: Không. Cám ơn. Tôi không sao. Nếu tôi lạnh, tôi sẽ hỏi mượn chị. Chị biết tính của tôi mà. 
 5 
Trong phát ngôn của mình, A cho rằng B lạnh (chị có vẻ lạnh), nhưng M1 trong phát ngôn 
của B (tôi lạnh) không đúng là suy nghĩ của A. Phát ngôn của B có nghĩa là bất cứ khi nào 
tôi lạnh chứ không phải là bây giờ tôi lạnh như chị nghĩ. 
 c) Cái cho sẵn rút ra từ diễn ngôn 
M1 được xem là cho sẵn không chỉ trong trường hợp trích dẫn mà có thể đó là một kết 
luận mà người nói rút ra được trong quá trình nói năng. Thử lấy ví dụ từ các truyện ngắn, 
tiểu thuyết cho cái cho sẵn loại này. 
Chúng ta hãy nghe những lời đối đáp giữa Tổng Cóc và Hồ Xuân Hương trong truyện 
ngắn “Chút thoáng Xuân Hương” của Nguyễn Huy Thiệp: 
(17) Tổng Cóc: Tâu lạy quận chúa, quận chúa sẽ đủ tiền đánh cho hết hội 
Xuân Hương: Nếu ông định cho ta vay thì ta cũng chẳng có tiền để trả. (NHT, 81) 
Tổng Cóc không hiển ngôn rằng ông sẽ cho Hồ Xuân Hương vay tiền nhưng câu quận 
chúa sẽ đủ tiền đánh cho hết hội đủ để Xuân Hương kết luận rằng ông ta có ý định cho 
mình vay tiền và lập tức dùng nó làm điều kiện: Nếu ông định cho ta vay. Điều kiện này rõ 
ràng không thể xem là thông tin mới đối với Tổng Cóc. 
Tiếp đến, trong truyện ngắn “Dưới ánh đèn nhiều màu” của Nguyễn Thị Ngọc Tú, M1 
trong câu Nếu anh sợ trách nhiệm, tôi sẽ lấy chồng ở ngay chính thành phố này không được 
xem là cái mới. Toàn bộ thái độ và những lời thoại của người đàn ông không muốn lấy cô 
ấy, bảo cô ấy vào lại Sài Gòn có thể khiến cho người phụ nữ rút ra kết luận như trên: 
(18) Phụ nữ: Nếu tôi biết như thế này không bao giờ tôi ra đây. 
Đàn ông: Anh nghĩ là, nếu như em muốn, ngày mai em lại vào Sài Gòn vẫn cứ được. Cứ coi như là 
do giận dỗi mà em bỏ đi. Còn chuyện chúng ta sẽ giải quyết sau. 
Phụ nữ: Thôi được, nếu anh sợ trách nhiệm, tôi sẽ lấy chồng ở ngay chính thành phố này. 
(NTNT, 131) 
2.1.2 M1 ... nói là mình ăn chay)) Nếu anh 
ăn thịt bò thì anh đâu có ăn chay. 
b. (Trong siêu thị, một người chỉ vào cái tivi và nói với người bạn cùng đi) Nếu tivi rõ nét thế này 
thì chắc kỹ thuật cao lắm! 
M1 cho sẵn ở đây là những “hình ảnh” đập vào mắt người nói lẫn người nghe và tri giác 
của họ có thể ghi nhận những thông tin đó. Vì vậy anh ăn thịt bò và ti vi rõ nét được xử lý 
như là thông tin cũ hay là cái cho sẵn. 
Cái cho sẵn còn là cái được nhận thức từ điệu bộ cử chỉ của chính người đối diện, hoặc 
một người khác, chứ không phải là ngôn từ. Nó được gọi là cái cho sẵn khi người nghe giải 
mã đúng điều mà người đối diện muốn truyền đạt 
(20) (Người mẹ xua tay bảo con về) 
Đứa con: Nếu bây giờ con về thì ai chăm nom mẹ! 
Qua cử chỉ xua tay của người mẹ, đứa con nhận biết mẹ bảo mình đi về. Nó đã giải mã 
đúng cái mà người mẹ muốn truyền cho nó. Vì vậy nếu bây giờ con về được xử lý như cái 
cho sẵn trong ngữ cảnh phi ngôn từ. 
2.2. Cái cho sẵn là kiến thức chia sẻ 
 6 
Theo định nghĩa về sự chia sẻ kiến thức của Prince “người nói cho rằng người nghe 
“biết”, cho rằng người nghe có thể suy ra những điều có tính chất phổ biến mà không cần 
phải suy nghĩ về nó” [12, 223-225], có thể suy ra rằng một trong những kiến thức được chia 
sẻ ấy là kiến thức nền (background knowledge), tức là những điều có tính chất phổ thông 
hoặc kiến thức bách khoa mà ai cũng biết. 
Lập luận của Fauconier [7] về không gian tinh thần điều kiện cũng có nhiều điểm tương 
tự. Theo ông, việc xây dựng không gian tinh thần điều kiện liên quan đến việc tạo ra những 
cấu trúc tinh thần trên cơ sở những khái niệm về nhận thức, văn hóa, ngữ cảnh, tri thức đã 
có sẵn đối với những người tham gia hội thoại, đối với mục đích đã được biết trước đó của 
cuộc trao đổi. 
(21) (Giáo viên nói với học sinh) Nếu 2+2 là 4 thì 2 là một số chẵn. 
2+2=4 không phải là thông tin mới mặc dù nó chưa được nói đến trong phát ngôn trước. Đó 
là vì kiến thức 2+2=4 thuộc loại kiến thức nền, là cái đương nhiên được chia sẻ giữa những 
người tham gia hội thoại. Theo Kuno, kiến thức đó thường trú trong đầu óc của mỗi người. 
Khi nói với các em học sinh câu trên, giáo viên đã sử dụng kiến thức chung vốn có giữa 
mình và học sinh. Điều đó triệt tiêu khả năng “sai” của kết luận nằm ở M2. M1 được sử 
dụng như một cơ sở lập luận để dẫn đến cái đúng của M2. 
Tương tự như vậy, trên cơ sở niềm tin về kiến thức chung có ở tất cả những người tham 
gia hội thoại, một luật sư có thể (dùng nó để) khẳng định tính đúng đắn của một kết luận: 
(22) Nếu 2 cộng 2 là 4, thân chủ của tôi vô tội. 
Cái kiến thức được chia sẻ như trên có khi là sự hiểu ngầm của những người tham gia hội 
thoại về tâm tư tình cảm của nhau: 
(23) Cháu Sinh ạ, tao đã thấy mày đua ngựa với người của chính phủ. Theo tao đi. Mày là ma rừng thì 
phải đi đường hẻm. Mày muốn con Muôn thì hãy nghe tao. (NHT, 262) 
Nhân vật của phát ngôn trên chắc chắn là biết rõ tâm tư tình cảm của người nghe (rất yêu 
cô gái tên Muôn). Mày muốn con Muôn không phải là phát ngôn có sẵn trong ngữ cảnh 
ngôn từ nhưng nó vẫn được người nói xử lý như là cái cho sẵn, đặc biệt khi M2 là một hành 
động ngôn từ đề nghị. 
Trong lý thuyết về cái cho sẵn, M1 cũng còn chứa đựng lịch sử quan hệ của những 
người tham gia hội thoại. Theo chúng tôi, tiêu biểu cho loại này là những câu giả định phản 
thực. Trong những câu này, M1 và M2 đều là những sự việc có sẵn, nó hoàn toàn không xa 
lạ với người nghe. Người nói thiết lập quan hệ hiện thực giữa hai sự tình đã biết thông qua 
việc nối kết M1 và M2 dưới hình thức điều kiện–kết quả. Chính cái quan hệ được truyền 
đạt cho người nghe là thông tin mới. 
(24) Hôm nay, nếu Thúy không nắm tay nó thì tôi cũng chẳng đánh nó làm gì, chỉ khiêu khích và răn đe là 
đủ. (TH, 29) 
(Người nghe đã nắm tay một người nào đó và người nói đã đánh người đó) 
Tóm lại, cái cho sẵn rất dễ được nhận biết trong diễn ngôn nhờ việc nhận diện các quy 
chiếu của M1 trong các phát ngôn trước. Các quy chiếu này tồn tại trong ngôn từ (ngữ cảnh 
ngôn từ) hoặc cũng có thể khó nhận diện hơn vì tồn tại trong các quy ước ngầm của hai 
người tham gia giao tiếp, bao gồm các kiến thức nền, lịch sử quan hệ giữa người nói và 
người nghe, kể cả những tồn tại khách quan mà cả hai đều chứng kiến hoặc trải qua (ngữ 
cảnh phi ngôn từ). 
Theo Prince, sự chia sẻ kiến thức vẫn có thể hiện diện trong cả cái cho sẵn bởi ngữ cảnh, 
trong khi Akatsuka cho rằng có trường hợp M1 là cái cho sẵn bởi ngữ cảnh nhưng nó lại 
đối lập với kiến thức của người nói. Ví dụ của Akatsuka: 
(25) (Giáo hoàng gọi điện thoại đến tổng đài ở một làng thuộc Thụy Sĩ) 
Giáo hoàng: Tôi là Giáo hoàng. 
 7 
Nhân viên tổng đài: Nếu ông là Giáo hoàng thì tôi là hoàng đế Trung Quốc! [1]. 
Ông là Giáo hoàng trong câu đáp của nhân viên tổng đài là cái cho sẵn, vì nó là thông tin 
cũ: nó là cái lặp lại hay dẫn lại phát ngôn đi trước nó. Nhưng nội dung mệnh đề trong M1 
ông là Giáo hoàng không phải là cái được người nói thừa nhận. Sweetser cũng đồng tình 
với Akatsuka, bà đưa ví dụ: 
(26) Well, If (as you say) he had lasagne for lunch, he won’t want spaghetti for dinner. (Nếu (như anh nói) 
bữa trưa nó đã ăn món lasagne, nó sẽ không muốn ăn món spaghetti vào buổi tối đâu). 
Theo bà, người nói có thể dẫn lại phát ngôn trước đó, và nó là cái cho sẵn, nhưng không 
cần phải chia sẻ kiến thức về điều đó vì anh ta hoàn toàn có thể nói thêm “but I don’t 
believe he had lasagne for lunch” (nhưng tôi không tin bữa trưa nó đã ăn lasagne). 
3. Một số trường hợp M1 không phải là cái cho sẵn 
Ở trên chúng ta đã xem xét những mệnh đề điều kiện cho sẵn trong đó bộ phận M1 ít 
nhiều cũng chứng minh được tính cho sẵn của nó thông qua hai loại ngữ cảnh là ngữ cảnh 
ngôn từ và phi ngôn từ cũng như sự chia sẻ kiến thức nền giữa những người tham thoại. 
Qua đó chúng ta thấy trật tự cái cho sẵn (M1) – cái mới (M2) phù hợp với trật tự cú pháp 
thông thường của tiếng Việt và thói quen sử dụng ngôn ngữ của người Việt: M1 đứng trước 
M2. 
Tuy nhiên vẫn có những trường hợp mà M1 dường như không thỏa các điều kiện về cái 
cho sẵn tương tự như các phân tích ở trên. Có nghĩa là trong thực tế vẫn tồn tại những M1 
là thông tin mới. Xét ví dụ sau: 
(27) (Lời khuyên một người đi học nấu ăn:) 
Đi học nấu ăn có nhiều cái lợi. Vừa có thể kiếm tiền vừa có thể nấu ăn cho gia đình mình. Nếu tay 
nghề của anh vững anh có thể là bếp trưởng của một khách sạn, còn nếu không thì anh cũng có thể 
làm phụ bếp. 
M1 Nếu tay nghề của anh vững rõ ràng là thông tin mới nếu xét theo quan điểm cái cho sẵn 
ở trên, vì các thành phần trong thông tin “tay nghề”, “vững” đều là thông tin mới, chỉ có 
“anh” là cái cho sẵn vì nó chỉ người nghe. 
Trong đoạn thoại dưới đây, người vợ đề nghị trồng hoa. Người chồng lại cho rằng trồng 
hoa rất tốn công và đưa ra hai luận cứ để bảo vệ ý kiến của mình. Ở luận cứ thứ hai, người 
chồng sử dụng cấu trúc điều kiện: Còn như thuê người làm thì lời lãi phỏng có đủ chi công 
và ăn cho người ta. Cả câu trên đều là cái mới vì nó không phải là cái có thể được hồi phục 
từ phát ngôn trước: 
(28) Vợ: Ý tôi chỉ thích trồng rõ nhiều hoa, vừa được chơi vừa được bán. 
Chồng: Mình tưởng trồng hoa ít công phu lắm đấy hẳn? Những một cái gánh nước tưới cũng đã 
khướt rồi. Còn như thuê người làm thì lời lãi phỏng có đủ chi công và ăn cho người ta. (LK,155) 
M1 cũng có thể bao gồm cả cái cũ lẫn cái mới, hay nói đúng hơn, khó xác định được là 
cũ hay mới, loại này thường thấy trong những câu dự báo, cảnh báo: 
(29) – Lão ta ăn trộm đã thành tật. Bịa thêm một lần ăn trộm nữa cũng không sao. 
– Ngộ họ lại căn cứ vào đấy bắt lão ta? (LL, 73) 
Hoặc là một liên tưởng bất ngờ đối với người nghe: 
(30) (Hai người đang ngồi nói chuyện bên bờ hồ) 
– Anh biết bơi không? 
– Không, nếu em rớt xuống hồ tôi sẽ làm tất cả để em được sống. (TH, 70) 
Trong khi phân tích M1 cái cho sẵn chúng tôi xử lý M1 như một sự tình-thực thể nên 
mặc dù các yếu tố trong câu có thể phân tích thành các yếu tố nhỏ hơn với những sự phân 
biệt cũ/mới (ví dụ như em, hồ là cái cho sẵn), chúng tôi vẫn xử lý M1 là cái mới vì toàn bộ 
thông tin nếu em rớt xuống hồ là cái thông tin mới, hoàn toàn bất ngờ đối với người nghe. 
* * * 
 8 
 Trên đây chúng tôi đã trình bày và đưa ra các cứ liệu để chứng minh rằng cấu trúc điều 
kiện, nếu nhìn từ quan điểm thông báo, có một số M1 rõ ràng là cái cho sẵn. Phần trình bày 
ở trên cho thấy: Đa số các câu điều kiện có M1 là cái cho sẵn nhưng vẫn tồn tại những 
trường hợp nó là cái mới. Quan điểm này phù hợp với quan điểm của Sweetser, Akatsuko, 
En Ju Noh. Tuy vậy, việc M1 có thể là cái cho sẵn đã góp phần giải thích vì sao trong câu 
điều kiện M1 luôn đứng trước M2. Trật tự này cũ – mới này là trật tự mà người nói thường 
có xu hướng chọn lựa: cái cho sẵn, cái cũ thường được nêu lên trước làm xuất phát điểm 
cho sự nhận định, cái mới được nêu ra sau đó. Đó là một cách tổ chức thông tin thuận tiện 
và giản dị, thông tin mà người nói muốn truyền đạt dễ chuyển tới người nhận vì nó đặt 
thông tin mới trong một ngữ cảnh thông tin được thừa nhận là quen thuộc. 
Comrie cũng có một gợi ý rằng nếu áp dụng trật tự cái cho sẵn – cái mới của cấu trúc 
thông báo vào việc nghiên cứu câu điều kiện có thể đi đến nhận định rằng trật tự không 
được đánh dấu If M1, M2 là do cái cho sẵn của M1, có nghĩa là If M1/M2 (cái cho sẵn / cái 
mới). 
Cách lý giải trật tự M1 và M2 trong câu điều kiện là trật tự cũ mới sẽ thuyết phục hơn 
quan điểm (tiêu biểu là Haiman và Schiffrin) cho rằng ở câu điều kiện, M1 trong bất cứ 
trường hợp nào cũng là cái cho sẵn. 
Theo Haiman và Schiffrin, cái cho sẵn trong câu điều kiện phải được hiểu theo một cách 
khác hơn. Cái cho sẵn này chỉ được xét ở khía cạnh hướng đến những gì được trình bày ở 
M2 và chỉ liên quan đến M2; và nếu xét theo hướng này thì tất cả M1 đều là cái cho sẵn. 
Trong bài “Conditionals are topic?”, Haiman lập luận rằng trong một phát ngôn điều kiện, 
khi M1 được phát ra, nếu nó không bị người nghe phản đối ngay lúc nói thì nó cho người 
nói cái quyền được tiếp tục với mệnh đề chính. Như vậy, vào thời điểm M1 được đưa ra, cả 
người nói lẫn người nghe chia sẻ cái khung quy chiếu giống nhau, do đó chúng được lưu 
giữ trong óc người nghe như là cái khung quy chiếu cho mệnh đề M2 theo sau. Đối với 
Haiman, một thực thể hay một mệnh đề có thể là cái cho sẵn ngay cả khi nó chưa được 
khẳng định thông qua diễn ngôn trước đó. Nó là cái cho sẵn chỉ vì người nói muốn xử lý nó 
như thế. Điều này có nghĩa là cái cho sẵn có thể độc lập với quá trình diễn ngôn và rằng bất 
kể điều gì cũng có thể trở thành cái cho sẵn ở thời điểm biểu hiện nó trong diễn ngôn. 
D. Shiffrin [5] cũng ủng hộ ý kiến của Haiman. Bà khẳng định ngay cả cú if chưa được 
thiết lập như thông tin cũ trước phát ngôn của nó, nó cũng trở thành thông tin cũ vào thời 
điểm phát ngôn. Đứng dưới góc nhìn diễn ngôn, Shiffrin cho rằng mệnh đề điều kiện luôn 
luôn đứng trước, mệnh đề kết quả luôn luôn đứng sau trong các phổ quát ngôn ngữ học (đã 
từng được Greenberg khẳng định) vì nó tuân theo nguyên tắc chính về tổ chức diễn ngôn: 
nó là chủ đề và là cái cho sẵn. Như vậy theo quan điểm của Haiman và của cả Shiffrin, cấu 
trúc thông báo của câu điều kiện bao gồm 2 phần: phần Đề (M1) – cái cho sẵn, phần Thuyết 
– cái mới 
 Quan điểm tất cả M1 trong câu điều kiện là cái cho sẵn cùng với quan niệm M1 là 
chủ đề (Haiman theo cách tiếp cận đồng nhất cấu trúc đề thuyết với cấu trúc thông báo của 
câu) nói trên là một vấn đề gây tranh cãi không ít trong giới ngôn ngữ học. Với những M1 
mà chúng tôi cho rằng M1 cho sẵn, theo Haiman là những “chủ đề lặp”, còn những M1 
không có quan hệ gì với văn bản trước đó (mà chúng tôi cho là cái mới), Haiman cho đó là 
những “chủ đề tương phản”. Theo Haiman, sở dĩ chúng có tính tương phản là vì chúng 
được chọn lựa từ trong những điều kiện khác nhau. Haiman cho rằng chủ đề nói chung và 
các mệnh đề điều kiện nói riêng thường được tuyển chọn từ một danh sách vô hạn tiềm 
tàng và tương phản ngầm ẩn với những thành viên khác của danh sách này mà cơ sở lựa 
chọn của nó thuộc những nguyên tắc quan yếu ngoài ngôn ngữ học. Và chủ đề lặp lại hay 
tương phản đều là cái cho sẵn vì người ta không dẫn nhập một cái gì vào câu nói mà căn 
cước của nó chưa được người nghe biết đến.(2) 
 9 
Cao Xuân Hạo trong “Tiếng Việt sơ thảo...” cũng cho M1 trong câu điều kiện tiếng Việt 
là “chủ đề” (hay nói chính xác hơn là “khung đề”), nhưng “chủ đề” đó là đề (topic) thuộc 
cấu trúc cú pháp của câu chứ không phải đề trong cấu trúc thông báo như quan điểm của 
Haiman. 
 Vì có những vấn đề liên quan đến quan điểm câu điều kiện là chủ đề nên vấn đề cái cho 
sẵn nói riêng và cấu trúc thông báo của câu điều kiện nói chung vẫn là một vấn đề còn đang 
để mở. 
Chú thích: 
(
1
) Sweetser chia câu điều kiện làm 3 loại: Câu điều kiện nội dung, câu điều kiện nhận thức và câu điều kiện 
hành động ngôn từ. 
(
2
) Quan điểm này của ông áp dụng cho cả chủ đề nói chung: 
1. Chủ đề lặp lại: a. Bill likes to go to any movie. 
 b. (speaking of Bill) He could see Casablanca forever. 
2. Chủ đề tương phản: a. Ann likes to go to any movies 
 b. (but as for Bill) Bill only likes old movies. 
 Bill trong (2b) theo nhiều nhà ngữ học (Kuno, Akatsuko) là thông tin mới vì Bill là chủ đề tương phản; 
còn Haiman cho rằng Bill vẫn là cái cho sẵn bởi vì người ta không thể nói đến một điều mà người ta đoán 
rằng người nghe không biết đến căn cước của nó. Có nghĩa là người nói sẽ không đề cập đến Bill khi người 
nghe không biết Bill là ai. 
TƯ LIỆU THAM KHẢO 
1. Akatsuka Noriko. Conditionals are discourse-bound, trong Traugott et al, On conditionals, Cambridge: 
Cambridge University Press, 1986. 
2. Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Q 1, Nxb KKHXH, 1991. 
3. Chafe W.L. Subject and topic, New York: Academic Press, 1976. 
4. Comrie Bernard. Conditionals: a typology, trong Traugott et al, On conditionals, Cambridge: Cambridge 
University Press, 1986. 
5. Deborah Schiffrin. Conditionals as topics in discourse, Linguistic 30, 1990. 
6. Eun Ju Noh. A relevance theoretic account of metarepresentative uses in conditionals, UCL Working 
paper in linguistics 8, 1996. 
7. Fauconnier Gilles. Mental space, The MIT press, Cambridge, 1985. 
8. Haiman John. Conditionals are Topics, Language 46, 1978. 
9. Halliday Mak. Dẫn luận ngữ pháp chức năng, Hoàng Văn Vân dịch, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1998. 
10. Kuno Susumu. The structure of the Japanese language, The MIT Press, 1973. 
11. Nguyễn Thiện Giáp. Dụng học Việt ngữ, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2000. 
12. Prince E. Towards a taxonomy of give-new information, trong Cole R. (eds.) Radical Pragmatics, 
London: Academic. Press, 223-255, 1981. 
13. Sweetser Eve. From Etymology to Pragmatics, Cambrige: Cambrige U.P, 1990. 
CÁC TÁC PHẨM DÙNG LÀM TƯ LIỆU 
(1) Lê Lựu. Thời xa vắng, Nxb Hội nhà văn, 1998. (LL). 
(2) Nguyễn Thị Ngọc Tú. Buổi chiều tỏa hương, Nxb Hà Nội, 1999. (NTNT) 
(3) Trang Hạ. Tình khúc, Nxb Trẻ, 1995. (TH) 
(4) Lan Khai. Văn xuôi lãng mạn Việt Nam, Nxb KHXH, 1990. (LK) 
(5) Nguyễn Huy Thiệp. Tuyển tập truyện ngắn, Nxb VHTT, 2000. (NHT) 

File đính kèm:

  • pdfcau_dieu_kien_tieng_viet_va_cai_cho_san.pdf