Vài thể hiện của từ “ở” tiếng Việt so sánh với tiếng Nhật

1. Thường khi học một ngoại ngữ, người ta gặp nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất

có lẽ là sự khác biệt về tư duy ngôn ngữ. Không ít sinh viên phương Tây rất sõi tiếng

Việt nhưng vẫn lạm dụng những từ đã, đang, sẽ, có trong khi tạo câu, dấu ấn ngôn

ngữ mẹ của họ vẫn thể hiện khá rõ. Có thể nói rằng khi học tiếng Việt, sinh viên mỗi

nước có một vấn đề riêng. Theo dõi hàng trăm sinh viên Nhật học tiếng Việt ở các trình

độ khác nhau (học tại Việt Nam và Nhật Bản), chúng tôi nhận thấy rằng họ rất dễ dùng

sai từ ở, một từ có tần số sử dụng cao của tiếng Việt (tần suất ở trên tất cả các phong

cách thể loại là 0,45%)2. Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành trắc nghiệm trên 20 sinh viên

Nhật đang theo học tại Khoa Việt Nam học thuộc Trường đại học khoa học xã hội và

nhân văn tp.HCM: trong tổng số 680 câu hỏi đưa ra có đến 245 câu trả lời không đúng

(bao gồm cả những câu trả lời sai hoặc đúng nhưng sinh viên còn nghi ngờ).

Trong phạm vi bài này, chúng tôi muốn bàn đến sự thể hiện từ ở (chỉ nơi chốn) so

sánh với tiếng Nhật nhằm giúp cho các sinh viên nói tiếng Nhật dễ dàng hơn trong khi

học tiếng Việt.

Để bảo đảm tính khách quan, đa số các ví dụ dẫn trong bài viết được trích lại từ các

giáo trình dạy tiếng Việt và giáo trình dạy tiếng Nhật (sách song ngữ).

pdf 8 trang yennguyen 7200
Bạn đang xem tài liệu "Vài thể hiện của từ “ở” tiếng Việt so sánh với tiếng Nhật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vài thể hiện của từ “ở” tiếng Việt so sánh với tiếng Nhật

Vài thể hiện của từ “ở” tiếng Việt so sánh với tiếng Nhật
 1 
VÀI THỂ HIỆN CỦA TỪ “Ở” TIẾNG VIỆT 
SO SÁNH VỚI TIẾNG NHẬT
1
LÊ THỊ MINH HẰNG – NGUYỄN VÂN PHỔ 
1. Thường khi học một ngoại ngữ, người ta gặp nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất 
có lẽ là sự khác biệt về tư duy ngôn ngữ. Không ít sinh viên phương Tây rất sõi tiếng 
Việt nhưng vẫn lạm dụng những từ đã, đang, sẽ, có trong khi tạo câu, dấu ấn ngôn 
ngữ mẹ của họ vẫn thể hiện khá rõ. Có thể nói rằng khi học tiếng Việt, sinh viên mỗi 
nước có một vấn đề riêng. Theo dõi hàng trăm sinh viên Nhật học tiếng Việt ở các trình 
độ khác nhau (học tại Việt Nam và Nhật Bản), chúng tôi nhận thấy rằng họ rất dễ dùng 
sai từ ở, một từ có tần số sử dụng cao của tiếng Việt (tần suất ở trên tất cả các phong 
cách thể loại là 0,45%)2. Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành trắc nghiệm trên 20 sinh viên 
Nhật đang theo học tại Khoa Việt Nam học thuộc Trường đại học khoa học xã hội và 
nhân văn tp.HCM: trong tổng số 680 câu hỏi đưa ra có đến 245 câu trả lời không đúng 
(bao gồm cả những câu trả lời sai hoặc đúng nhưng sinh viên còn nghi ngờ). 
Trong phạm vi bài này, chúng tôi muốn bàn đến sự thể hiện từ ở (chỉ nơi chốn) so 
sánh với tiếng Nhật nhằm giúp cho các sinh viên nói tiếng Nhật dễ dàng hơn trong khi 
học tiếng Việt. 
Để bảo đảm tính khách quan, đa số các ví dụ dẫn trong bài viết được trích lại từ các 
giáo trình dạy tiếng Việt và giáo trình dạy tiếng Nhật (sách song ngữ). 
2. Trong tiếng Việt hiện đại, ở là một từ có nhiều chức năng và ý nghĩa khác nhau. Từ 
điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học miêu tả ở là động từ và kết từ. Với tư cách là kết 
từ ở có 3 nghĩa: (1) biểu thị nơi, chỗ, khoảng thời gian sự vật / sự việc được nói đến, (2) 
biểu thị cái hướng của điều vừa được nói đến, (3) biểu thị căn nguyên của điều vừa nói 
đến (Hoàng Phê chủ biên, 1992, Trung tâm từ điển ngôn ngữ xuất bản, H.). 
Nguyễn Kim Thản phân chia ý nghĩa của từ ở ra làm hai loại: (1) chỉ nơi tồn tại của 
sự vật hay nơi tiến hành hành động (Nó làm việc ở nhà máy); (2) chỉ nơi xuất phát của 
hoạt động (Tôi ở Bến Tre lên). [10/335] 
Trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt, các tác giả khái quát ý nghĩa chính của ở là kết từ 
chính phụ biểu hiện nơi chốn [15/166]. Nguyễn Anh Quế cho là ở biểu thị địa điểm xảy 
ra hành động [9/154].v.v.. 
 Có thể thấy rằng ở được chú ý vừa như là một động từ vừa như một giới từ biểu hiện 
nghĩa vị trí; nó có thể tự mình làm vị từ trung tâm hoặc đi sau một vị từ khác. 
2.1. Ở đứng trước danh từ chỉ nơi tồn tại của người hay sự vật. 
Vd(1): Anh có mặt ở công ty đến mấy giờ? 
 1 2 3 4 5 6 7 
Nan ji made, kaisha ni imasu ka? [11/154] 
 6 7 5 4 3 2 
Trong câu trên, động từ imasu đòi hỏi trợ từ3 đánh dấu nơi chốn ni, tương tự như có 
mặt đòi hỏi ở. 
Để định vị tồn tại của sự vật, ở cũng được biểu thị bằng từ ni. 
1
 Bài đã đăng ở tạp chí Ngôn ngữ, số 1/2002, H. 
2
 Đặng Thái Minh, Nguyễn Vân Phổ. 1996. Từ điển tần số tiếng Việt hiện đại (trên máy tính). Trường 
ĐHTH tp.HCM. 
3
 Để chỉ những từ như ni, kara, o của tiếng Nhật, đa số các sách dạy tiếng gọi là trợ từ, một số sách gọi 
là tiểu từ hoặc phân từ (particles). 
 2 
Vd(2): Ở phi trường có cả ngân hàng, cả nhà hàng. 
 1 2 3 4 5 
Kuukoo ni wa ginko ya, resutoran nado ga arimasu. [11/192] 
 2 1 4 5 3 
Trong các câu trên, ta thấy ni bao giờ cũng đi sau danh từ địa điểm, trong khi đó ở 
bao giờ cũng đi trước danh từ địa điểm. Trật tự trong tiếng Nhật đảo ngược hoàn toàn so 
với tiếng Việt: 
Tiếng Việt: động từ – giới từ (/ kết từ) – danh từ địa điểm 
Tiếng Nhật: danh từ địa điểm – trợ từ – động từ. 
Từ ở còn được dùng như một động từ, với nghĩa sống (tại), có (mặt). Trong trường 
hợp này, tiếng Nhật biểu hiện bằng trợ từ ni và động từ tồn tại aru (cho bất động vật), 
iru (cho động vật). 
Vd(3): Yamada sẽ ở Việt Nam 2 năm đấy. 
 1 2 3 4 
Yamada kun wa ni nen kan Betonamu ni iru hazuda ya. [4/24-25] 
 1 4 3 2 
Vd(4): Công ty ấy ở Hibiya. 
 1 2 3 4 
Sono kaisha wa Hibiya ni arimasu. [11/183] 
 2 1 4 3 
Thực ra, trợ từ ni trong tiếng Nhật đã được giới nghiên cứu chú ý từ lâu. Trong 
quyển English & Japanese in contrast, Susan H. Shinkawa đã viết: ni xuất hiện sau 
danh từ để chỉ vị trí cùng với động từ chỉ trạng thái tồn tại iru và aru và một vài động từ 
khác (bao gồm những động từ mà Taylor xếp vào loại những từ kèm (attachment) 
[14/163]). Nó biểu thị vị trí của vật đang được nói đến hoặc đối tượng hành động trong 
một câu [14/ 31]. Nó cũng có thể biểu thị “một điểm đến của một hành động” [3/73]. 
Trợ từ biểu thị vị trí ni có thể xuất hiện với một số động từ dưới đây: iru (tồn tại - 
động vật), aru (tồn tại - vật), neru (ngủ), sumu (dừng lại), oku (để), tsuku (đến), 
tsutomeru (làm việc), iku (đi), kaku (viết) azukeru (gửi vào), tateru (đứng thẳng), 
tsukeru (gắn, dán) v.v.. Theo nghĩa này, sự có mặt của ni là do từng loại động từ qui 
định, chẳng hạn nếu là động từ hành động thì nó sẽ nằm trong quan hệ luân phiên với 
de. (Xem 2.2.). 
Trong tiếng Việt, ở còn được dùng kết hợp với các từ chỉ vị trí như trên, dưới, trong, 
ngoài. Trong tiếng Nhật cũng có các từ tương ứng: 
ở trên = (no) ue ni 
ở dưới = (no) sita ni 
ở trong = (no) naka ni 
ở ngoài = (no) soto ni 
Vd(5): Ở trong phòng này có ba người. 
 1 2 3 4 5 6 
Kono heya no naka ni san nin iru. 
 3 2 1 3 6 4 
Vd(6): Có trà ở trong lọ. 
 1 2 3 4 
Ocha no ha wa kobin no naka ni arimasu. [4/10-11] 
 3 
 2 4 3 1 
Vd(7): Hoa ở trên bàn. 
 1 2 3 
Hana wa tsukue no ue ni arimasu. 
 1 3 2 
Mika Waseda trong bài viết Expression of local relations in Japanese and 
Hungarian [6] phân biệt khả năng của cấu trúc tiểu từ (particle structure) với ni, de 
và cấu trúc danh từ quan hệ (relative noun structure) với no naka ni, no ue ni vốn có 
nghĩa từ vựng rõ rệt hơn [8/134]. So sánh: 
Vd(8a) Hako no naka ni enpitsu ga aru. (Trong hộp có cây bút chì) 
 (8b) Hako ni enpitsu ga aru. (Trong / ở / trên hộp có cây bút chì) 
Câu 8b đòi hỏi ngữ cảnh, nên nhiều sinh viên tỏ ra nghi ngờ tính xác thực của nó. 
Tương tự, câu 9a được chọn khi chúng tôi đề nghị sinh viên dịch “Có nước ở trong ly”: 
Vd(9a) Koppu no naka ni mizu ga haitte iru. 
 (9b) Koppu ni mizu ga aru. 
Cần chú ý rằng danh từ quan hệ (relative nouns) không xuất hiện với những danh từ 
chỉ khu vực địa lý (như quốc gia, thành phố, quận, v.v.) và những danh từ chỉ các cơ 
quan (như trường học, văn phòng, v.v.) [8/134]. 
Như vậy ở đây có một điểm khác biệt là ở tiếng Việt, trong nhiều trường hợp có ba 
khả năng chọn lựa gần như ngang nhau (tất nhiên có sự khác nhau rất tế nhị về nghĩa): 
Ở trong lớp học / Ở lớp học / Trong lớp học, trong khi tiếng Nhật chỉ cần nói: 
kyoushitsu ni (te) khi đã xác định rõ tình huống giao tiếp [4/38-39]. 
Đối với người Việt Nam những từ định vị trên, dưới, trong, ngoài là rất quan trọng, 
nó phản ánh tương quan vị trí giữa người nói - người nghe - vật / người được nói đến. 
Do vậy trong nhiều trường hợp trên, dưới, trong, ngoài là bắt buộc, trong khi đó sự xuất 
hiện của ở là có chọn lựa. Ngược lại, trong tiếng Nhật các cấu trúc định vị như (...no ue) 
ni, (...no sita) ni, (...no naka) ni, (...no soto) ni trọng tâm ngữ pháp (và ngữ nghĩa) 
dường như đặt chủ yếu trên ni. Sự có mặt của ni là bắt buộc trong khi các yếu tố còn lại 
(no ue, no sita...) có thể vắng mặt. Và trong nhiều trường hợp lại phải chú ý đến động từ 
để có thể lựa chọn ni/de. 
Có lẽ vì chuyển dịch từ tiếng mẹ nên sinh viên Nhật thường nói: 
Vd: 
(10a) Xin bóc tờ giấy dán ở tường // Kabe ni hatte aru kami o haide kudasai. 
(10b) Tôi treo quần áo ở tủ (quần áo) // Yofukudansu ni yofuku o tsurushite imasu. 
(10c) Chị Thu không có ở phòng // Tu san wa o heya ni irasshaimasen. 
Trong khi người Việt Nam sẽ nói: 
 (10a) Xin bóc tờ giấy dán trên / ở trên tường. 
 (10b) Tôi treo quần áo trong / ở trong tủ. 
 (10c) Chị Thu không có trong / ở trong phòng. 
Về hiện tượng này, chúng tôi đã tiến hành trắc nghiệm sinh viên trên 3 khả năng: 
(1) ở + danh từ vị trí 
(2) ở + trong / ngoài / trên / dưới + danh từ vị trí 
(3) trong / ngoài / trên / dưới + danh từ vị trí 
 4 
Khác với dự đoán của chúng tôi, khả năng lẫn lộn rất cao: 18/20 sinh viên không trả 
lời đúng hoàn toàn 5 câu hỏi yêu cầu chọn 1 trong 3 khả năng trên. (Nếu khảo sát kỹ có 
thể thấy sự chọn lựa của họ dường như chỉ là hú hoạ!) 
Riêng đối với những khái niệm không gian rộng như trời, sông, biển chúng tôi 
nhận thấy khả năng lầm lẫn của sinh viên Nhật càng lớn. Chẳng hạn: 
Vd(11a): * Ở trời có đám mây đen. 
 1 2 3 4 5 
Có lẽ vì dịch từ: Sora ni kuroi kumo ga aru. 
 2 1 5 4 3 
(11b): * Ở sông có 5 chiếc thuyền. 
Có lẽ vì dịch từ: Kawa ni go seki no funê ga ukan de iru. [16/23] 
Nhưng câu sau đây lại hoàn toàn bình thường: 
Vd(12) Ở dưới ghế có một con mèo trắng. 
 1 2 3 4 5 6 
Isu no shita ni ippiki no neko ga iru. [16/24] 
 2 1 4 5 3 
 Thậm chí có trường hợp khi yêu cầu phân biệt: Tôi nằm bãi cỏ / Tôi nằm ở bãi cỏ / 
Tôi nằm trên bãi cỏ / Tôi nằm dưới bãi cỏ / Tôi nằm xuống bãi cỏ / Tôi nằm xuống ở bãi 
cỏ, sinh viên chỉ quan tâm đến hai từ trên và dưới (do áp lực tâm lý đã có khi học về 
những từ này). 
2.2. Ở đứng trước từ hay nhóm từ chỉ địa điểm mà hành động diễn ra. 
Trong trường hợp này, tiếng Nhật biểu thị bằng từ de. Sự có mặt của de là do đòi hỏi 
của một tiểu loại động từ (đây là động từ hành động) và trong nhiều trường hợp có thể 
được chuyển dịch sang tiếng Việt là ở / tại. 
Vd(13): Đã mua hoa ở cửa hàng hoa. 
 1 2 3 4 
Hanaya de hana o kaimashita [11/163] 
 4 3 2 1 
Vd(14): Trước đây, tôi đã học tiếng Việt ở Mỹ. 
 1 2 3 4 5 6 
Izen, watashi wa Amerika de Betonamu go o benkyou shimashita. 
 1 2 6 5 4 3 
Vd(15): Chị ấy làm việc ở thư viện trường. 
 1 2 3 4 5 
Kanojo wa gakko no toshokan de hataraite imasu. [16/42] 
 1 5 4 3 2 
Trong tiếng Nhật de là trợ từ chỉ vị trí, dùng được với tất cả các động từ, ngoại trừ 
động từ tồn tại. Nó biểu thị nơi chốn hoặc khung cảnh diễn ra hành động nói chung 
[14]. Martin cho rằng de có thể tương ứng với giới từ at trong tiếng Anh [5/65]. 
Henderson miêu tả: từ de cần thiết cho bất cứ hành động nào xuất hiện trong giới hạn 
của nó [2/75]. Mika Waseda cho de tương ứng với at / on. Theo tác giả này, ni thường 
được dùng cho câu miêu tả tình huống, còn de cho hành động; ni được xem là inner 
 5 
particle bổ nghĩa cho động từ, còn de là outer particle bổ nghĩa cho cả động ngữ (verb 
phrase) [8/138]. 
Trong một số trường hợp de có thể thay thế bằng o. Chẳng hạn: 
Vd(16): Đến kỳ nghỉ hè tôi sẽ đi du lịch ở Hokkaido. 
 1 2 3 4 5 6 
 Natsu yasumi niwa Hokkaido o ryokoshimasu. [1/99] 
 2 1 6 5 4 
Vd(17): Mỗi ngày, tôi đều đi dạo ở công viên. 
 1 2 3 4 5 6 
 Mainichi, koen o sanposhimasu. [1/99] 
 1 2 6 5 4 
Đối với tiếng Việt, sau những kết cấu như đi dạo, đi chơi, đi du lịch, đi nghỉ khả 
năng xuất hiện ở là có thể lựa chọn. (Tất nhiên, có sự khác biệt về ý nghĩa khá rõ, chẳng 
hạn: so sánh đi chơi rừng và đi chơi ở rừng, đi dạo cửa hàng và ?đi dạo ở cửa hàng 
v.v..) 
2.3. Ở đứng trước yếu tố phụ chỉ địa điểm trong cấu trúc danh ngữ. 
Trong trường hợp này tiếng Nhật thường không dùng de hay ni, mà dùng từ no (ở 
đây no có nghĩa tương đương với của) để nối kết danh từ địa điểm với danh từ chính 
trong danh ngữ đó. 
Vd(18): Betonamu no samusa mo kibishiinda sodesune. [4/112-113] 
Tiếng Việt có 2 cách nói: 
Nghe nói cái rét ở / của Việt Nam cũng ác nghiệt lắm phải không? 
Vd(19): Sakujitsu, Nihon Taishikan no hito ga naninka anata o tazunete kimashita 
ga. [4/41] 
Hôm qua có mấy người ở / của sứ quán Nhật Bản đến hỏi anh. 
Vd(20): Nihon no bukka wa yasui desu ka? [11/32] 
Vật giá ở / của Nhật Bản không cao chứ? 
Vd(21): Tokyo no chikatetsu wa fuben desu ka? [11/32] 
Xe điện ngầm ở / của Tokyo bất tiện chứ? 
Trong các ví dụ vừa nêu, ta thấy ở nằm trong một danh ngữ, nó đứng trước định tố 
địa điểm để hạn định nghĩa của danh từ (người hay vật) đứng trước. Nhiều trường hợp 
có thể thay thế ở bằng của. Nhưng đối với người Việt Nam ở biểu thị vị trí, còn của 
biểu thị sở thuộc. Trên ý nghĩa đó chúng không thay thế cho nhau được. Một số dẫn 
chứng dưới đây sẽ cho ta thấy rõ điều đó: 
Vd(22a): Xin lỗi, cho tôi gặp anh X ở phòng doanh nghiệp. 
Trong khi đó sinh viên Nhật lại dùng của, có lẽ vì dịch từ: 
Sumimasen, eigyobu no X san o negaishimasu. 
Thật ra của được dùng trong một bối cảnh khác: 
(22b) Ông X là người của phòng doanh nghiệp đấy! 
Lại xét câu sau: 
(22c) Aitsu wa hahaoya kara okane o totta. 
(22d) Aitsu wa hahaoya no okane o totta. 
Cả hai câu (22c) và (22d) đều được sinh viên Nhật dịch là “Nó lấy tiền của mẹ nó” 
và cho rằng hoàn toàn không có khác biệt. Nhưng khi đặt trong tình huống cụ thể thì 
 6 
kara bộc lộ rõ nét nghĩa từ (dative - source), còn no bộc lộ nghĩa của (genitive). Hai 
câu trên có thể tương ứng với tiếng Việt: 
 (22c) Nó lấy tiền từ (tay) mẹ nó. 
 (22d) Nó lấy tiền của mẹ nó. 
Có lẽ do dịch từ tiếng Nhật: Nihon no kazoku, nên có 5/20 sinh viên viết: “Tôi không 
nhận ra chị vì tôi mải chọn mua quà cho gia đình của Nhật Bản” (lẽ ra phải nói là: gia 
đình ở Nhật Bản). 
Trong sách dạy tiếng Nhật cho người Việt, các tác giả đều dịch tất cả từ no thuộc 
dạng này sang từ ở. 
Vd(23): Cha mẹ tôi ở New York đã lo lắng cho đến khi tôi gọi điện thoại. 
 1 2 3 4 5 6 7 
NewYork no ryoshin wa watashi ga denwa o kakeru made, 
 3 2 1 6 7 5 
shinpaishite imashita. [11/154] 
 4 
Vd(24): Nhà của ông ở Roppongi thế nào? 
 1 2 3 4 
Roppongi no otaku wa do desu ka? [11/174] 
 3 2 1 4 
Vd(25): Tôi là Tsuchida ở Abesanyo đây! 
 1 2 3 4 5 
Abesanyo no Tsuchida desu. [9/20] 
 5 4 3 
Do sự tương ứng khá đều đặn trên mà sinh viên Nhật thường có khuynh hướng lẫn 
lộn ở và của4 trong khi sử dụng tiếng Việt. Trong cuộc điều tra vừa nói trên, chúng tôi 
nhận thấy ở những câu có quan hệ sở thuộc sinh viên Nhật hầu như không sai (sinh 
viên khá chủ động trong việc dùng hoặc không dùng của: nhà ông / nhà của ông). 
Nhưng đối với những trường hợp cần phải đối chiếu giữa ở / của thì tình hình không 
mấy sáng sủa: chỉ có 2/20 sinh viên chọn đúng trong cả 7 câu hỏi, còn hầu như tất cả 
đều chọn của thay vì ở. 
Ở đây cần phải nói thêm rằng theo quan điểm của các nhà nghiên cứu tiếng Nhật thì 
no không phải là trợ từ chỉ vị trí, địa điểm mà chỉ là trợ từ chỉ quan hệ sở thuộc (như 
của, thuộc về của tiếng Việt). Susan H.Shinkawa cho rằng tiếng Nhật chỉ có các từ de, 
ni, o, kara và made là trợ từ chỉ vị trí mà thôi và không hề nói đến từ no (được gọi là 
trợ từ chỉ quan hệ sở thuộc) [13/160]. 
2.4. Ở đứng trước một từ hay nhóm từ chỉ vị trí thường được xem là nguồn hay 
điểm xuất phát. 
Đối với nét nghĩa này tiếng Nhật biểu thị bằng từ kara (tương ứng với từ trong tiếng 
Việt). 
Vd(26): Bao giờ bố mẹ anh ở Pháp trở về? 
1 2 3 4 5 6 
Itsu anata no ryoushin wa furansu kara omodori ni narimasu ka? [16/110] 
 1 3 2 5 4 6 
Vd(27): Tối qua anh ấy ở Huế đến đây. 
4
 Thật ra, trong tiếng Việt, ở những ví dụ này, nghĩa của ở và của không phải là một. 
 7 
 1 2 3 4 5 6 
Sakuya kare wa Hue kara koko e kimashita. [16/45] 
 1 2 4 3 6 5 
Vd(28): Đoàn xiếc mới đi biểu diễn ở nước ngoài về. 
1 2 3 4 5 
 Sakasu dan ga gaikoku kouen kara choudo kaette kita to koro dayo. 
 1 4 3 2 5 
Tất nhiên trong các thí dụ trên ta cũng có thể thay ở bằng từ, phù hợp với nghĩa gốc 
của kara. Nhưng trong những ví dụ này, ở có ý nghĩa và chức năng hoàn toàn không 
khác gì với ở trong 2.3., tức là nó đứng trước yếu tố phụ chỉ vị trí cho danh từ đứng 
trước. Từ / nhóm từ vị trí bắt đầu với ở sẽ đóng vai trò bổ sung hay hạn định nghĩa cho 
danh từ đứng trước, được phát âm liền với danh từ và nhẹ hơn. Trong khi đó, nếu dùng 
từ cho các ví dụ ở 2.4., thì quan hệ giữa từ với một động từ di chuyển theo sau sẽ phá 
vỡ quan hệ danh ngữ vốn có khi dùng ở. Lúc ấy sẽ có một tổ hợp mới: từ... đến..., từ... 
về..., từ... đi..., từ... sang..., thường dùng để diễn đạt một quá trình, và được phát âm tách 
khỏi danh từ đứng trước, với ngữ điệu mạnh hơn. So sánh: 
- Anh tôi ở Huế // đến. 
- Anh tôi // từ Huế đến. 
Sự lúng túng khi dùng ở với từ là đáng chú ý. Khi được hỏi đúng / sai cho 4 trường hợp 
sau: 
(1) Đoàn xiếc mới đi biểu diễn nước ngoài về. 
(2) Đoàn xiếc mới đi biểu diễn ở nước ngoài về. 
(3) Đoàn xiếc mới đi biểu diễn từ nước ngoài về. 
(4) Đoàn xiếc mới đi biểu diễn từ ở nước ngoài về. 
thì chỉ có 3/20 sinh viên chọn (1), 12/20 cho (4) đúng, 6/20 và 7/20 không dám khẳng 
định (2) và (3) đúng hay sai. Thậm chí có nhiều sinh viên cho là đúng những câu: “Hôm 
qua có một người từ sứ quán Nhật đến tìm anh”, “Tôi là Tsuchida từ Abesanyo đây”. 
 Trong sách Coverbs and case in Vietnamese Marybeth Clark đưa ra ví dụ: “Ông ấy ở 
Mỹ qua” và xếp ở vào cách vị trí (locative) chứ không phải là chỉ tố cách chỉ nguồn 
(source) bởi vì nó không biểu thị hướng (directive). [6/26-27] 
3. Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin lưu ý những trường hợp dùng dư từ ở của 
nhiều sinh viên Nhật, mà theo chúng tôi có nguyên nhân từ ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ: 
họ thường rất hay dùng từ ở sau các động từ như đến, lại, tới, sang, qua. 
Vd(29): Do dịch từ tiếng Nhật Nagoya ni toocha kusuru, sinh viên viết: “Anh ấy sẽ 
đến ở Nagoya” thay vì viết: “Anh ấy sẽ đến Nagoya”. 
Đối với tiếng Việt, “Anh ấy sẽ đến Nagoya” và “Anh ấy sẽ đến (và) ở Nagoya” có 
nghĩa hoàn toàn khác nhau. 
Vd(30): Kazuo wa basu o orita được dịch thành: “Kazuo đã xuống ở xe buýt” thay 
vì “Kazuo đã xuống xe buýt”. 
Vd(31): Kazuo wa hashi o watatta được dịch thành “Kazuo (đi) qua ở cầu” thay vì 
“Kazuo (đi) qua cầu” 
Vd(32): Kazuo wa Nihon o tatta được dịch thành “Kazuo rời khỏi ở Nhật Bản” thay 
vì “Kazuo rời (khỏi) Nhật Bản” 
Vd(33): Densha ni norimasu được dịch thành “Lên ở xe điện” thay vì “Lên xe điện”. 
* 
* * 
 8 
Ở trên chúng tôi chỉ bàn đến từ ở trên một vài biểu hiện và qua một số ít ỏi những 
quan sát trực tiếp. Những nhận xét trên chưa đủ để khái quát thành những quy tắc có giá 
trị thực tiễn cho việc giảng dạy tiếng Việt; nhưng với cái nhìn so sánh như trên, chúng 
tôi hy vọng hàng loạt hiện tượng được đưa ra đối chiếu sẽ là những dẫn chứng sinh 
động cho những phân tích sau này về loại hình học hoặc lý thuyết dạy tiếng. Và cũng hy 
vọng nó giúp ích phần nào sinh viên Nhật tránh những “tiếp xúc ngôn ngữ” tiêu cực 
trong quá trình học tiếng Việt. 
Tài liệu tham khảo chính: 
1. Đào Minh Hoàng, 1995. Văn phạm Nhật ngữ căn bản, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 
2. Henderson, 1948. Handbook of Japanese grammar, 2nd rev. ed Cambridge, Mass: 
Houghton Mifflin, Harold G. 
3. Lehmann, WP and Faust, Lloyd, 1991. A grammar of formal written Japanese. 
Cambridge, Mass Harvard Univ. Press. 
4. Lê Văn Quán, Tomita Kenji, 1985. Yakunitatsu Betonamugo, Kaiwashii, 
Daigakushorin. 
5. Marybeth Clark, 1978. Coverbs and case in Vietnamese, Pacific linguistics, Series 
B, N
o
48, The Australian National University, Canberra. 
6. Martin Samuel, 1956. Essential Japanese, Rutland Charles E.Tuttle. E. 
7. Masayoshi Shibatani, 1990. The languages of Japan, Cambridge U. Press. 
8. Mika Waseda, 1988. Expression of local relations in Japanese and Hungarian, 
trong “Contrastive studying Hungarian – Japanese”, Akadeniai Kiagió, Budapest. 
9. Nguyễn Anh Quế, 1988. Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH, Hà Nội. 
10. Nguyễn Kim Thản, 1997. Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
11. Nguyễn Mạnh Hùng, 1995. Tiếng Nhật hiện đại, Nxb Trẻ, tpHCM. 
12. Nguyễn Thị Quy, 1995. Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó, Nxb 
KHXH, tpHCM. 
13. Susan H.Shinkawa, 1979. English & Japanese in contrast. 
14. Taylor Harvey M., 1971. Case in Japanese. South Orange, N.J., Seton Hall U. 
Press. 
15. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, 1983. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội. 
16. Yoshio Une, 1996, Betonamu-go hayawakari, Sanshusha. 

File đính kèm:

  • pdfvai_the_hien_cua_tu_o_tieng_viet_so_sanh_voi_tieng_nhat.pdf